Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .

DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN THƯỢNG (TỪ NĂM 1983 - 1989)
Ban Văn Hóa Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ chí Minh Thực Hiện
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội P.L.2545 - D.L. 2001


PHẦN 6 (CUỐN 71 - 95)

06-1

Hỏi :Thế nào là mắt huệ sáng,lý tánh thông,chí kiên cố ?

Đáp : Mắt huệ sáng phân biệt được tà chánh, lý tánh thông tất cả là bất nhị, chí kiên cố thì quyết tử tu hành cho đến kiến tánh. Nếu đủ ba điều kiện này thì thế nào cũng sẽ được giác ngộ giải thoát, kiến tánh thành Phật. Nay chúng ta mắt huệ chưa sáng, không phân biệt được cái nào tà, cái nào chánh, nên có người theo ngoại đạo tà ma cũng cho là chánh. Bây giờ tôi phân biệt giùm cho : Hễ chấp thật là tà, phá chấp thật là chánh. Nói phá chấp thật ở đây chẳng phải là không chấp vào có lại chấp vào không , chấp chơn chấp giả cũng vậy.

Hỏi : Thế nào là kinh liễu nghĩa và kinh bất liễu nghĩa ?

Đáp : Kinh bất liễu nghĩa còn chấp thật, nằm trong tương đối, kinh liễu nghĩa là phá chấp thật, ra ngoài tương đối, tức vô sở trụ, lấy vô trụ làm gốc.

Hỏi : Tiểu nghi tiểu ngộ còn phải tham tiếp không ?

Đáp : Ông cho thế nào là tiểu nghi, thế nào là đại nghi ? Lời của chư Phật chư Tổ chỉ là phương tiện để phá chấp, chứ chẳng phải có nghĩa thật. Tôi thường nói là "dùng tâm không biết để chấm dứt tất cả biết", nay biết tiểu nghi cũng là biết, biết đại nghi cũng là biết, phải chấm dứt luôn, cuối cùng chỉ còn cái tâm không biết, nhìn bề ngoài như người khờ ngốc, nhưng lúc đó gần kiến tánh, vậy đâu cần phân biệt tiểu nghi đại nghi làm gì ?

Hỏi : Những điểm nào sai ở Đại Thừa Khởi Tín Luận ?

Đáp : Đại Thừa Khởi Tín Luận, người đời cho là tác phẩm của Bồ tát Mã Minh, Tổ thứ 12 của Thiền tông, nhưng sự thật tác giả là ngoại đạo. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận có phần đúng có phần không , ví dụ: nói "Chơn như duyên khởi", Chơn như là bản thể của Tự tánh, là bất nhị, không có duyên khởi, chẳng thể huân tập được, nếu có khởi thì phải có diệt, có sanh diệt tức có luân hồi. Cho nên, nói "Chơn như duyên khởi" là không đúng, vô minh là vô minh, chơn như là chơn như. Còn những chỗ giống như lời của Phật thì đúng. Nhưng bây giờ hễ chấp vào lời của Phật lại thành không đúng rồi! Vốn là đúng, do tâm chấp của mình thành sai, lọt vào tà tông kiến giải.

Cũng như kinh liễu nghĩa là đúng, nhưng hễ chấp thật vào Kinh liễu nghĩa đó, cho là chơn lý nhất định, thành không đúng rồi.

Hỏi : Nay con tham Thiền, đối với bất cứ việc gì con đều mặc kệ, đúng sai ?

Đáp : Trong Kinh Viên Giác có chỉ ra bốn thứ bệnh : Tác, chỉ, nhậm, diệt. Bệnh mặc kệ tức bệnh nhậm, hễ chấp vào mặc kệ cũng là bệnh. Dù là lời của Phật, nếu chấp vào tức thành bệnh, ví như kinh liễu nghĩa là phá chấp thật, nhưng nếu chấp thật vào kinh đó tức thành bất liễu nghĩa, nên Đức Phật vừa nói liền phá, vì sợ chúng sanh chấp vào lời nói.

Hỏi : Xin Sư phụ khai thị giúp cho dứt tập khí, được không ?

Đáp : Dù là Phật Thích Ca cũng chẳng thể giúp cho người ta dứt tập khí, Phật chỉ dạy cách tu để tự tu, tự chứng, tự dứt, chứ không thể giúp cho dứt được. Vì chưa tin tự tâm, ngã chấp còn kiên cố. Nay phương tiện duy nhất chỉ là đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình, giữ cái không biết, nếu tất cả biết đều chấm dứt thì làm sao còn biết tới tập khí ?

Hỏi : người kiến tánh còn có sở sợ không ?

Đáp : Nay chưa kiến tánh, phải lo cho đi đến kiến tánh, hễ kiến tánh rồi tự biết. Người Sơ địa không biết đến Nhị địa, đến Nhị địa thì biết được Sơ địa, nhưng không biết về Tam địa. nay mình cách Sơ địa còn xa lắm, đã muốn chấm dứt tất cả biết, còn hỏi vậy để làm gì ?

Hỏi : Thế nào là "tánh thật vô minh tức Phật tánh" trong Chứng Đạo Ca ?

Đáp : Tự tánh bất nhị, Phật tánh nếu khác với vô minh tức nhị, vô minh cũng chẳng thật có vô minh, Phật tánh cũng chẳng thật có Phật tánh. Đã nói kinh liễu nghĩa là phá chấp thật, nếu chấp có Phật tánh thật cũng là bệnh chấp, chấp vô minh là thật cũng vậy. Vô minh chẳng thật, Phật tánh cũng chẳng thật, ấy là nghĩa vô sanh, cũng là nghĩa vô thỉ.

Hỏi : Kinh Thủ Lăng Nghiêm thuộc tiệm giáo, sao nói là đốn ?

Đáp : Kinh giáo của Phật thuyết đốn tiệm đều có, quyển nào cũng vậy, thường thì ở phần trước là đốn, phần sau là tiệm, phần trước độ người thượng căn, phần sau độ trung hạ căn, Kinh Viên Giác cũng thế.

Hỏi : Tham thiền phải chấm dứt sự biết, vậy cái biết nào vô ích thì chấm dứt, còn cái biết để củng cố niềm tin, có cần phải chấm dứt không ?

Đáp : Biết tốt, biết không tốt đều là tướng bệnh, biết mình chứng quả vẫn còn là ngã tướng vi tế, biết có Phật, biết từ bi.chẳng phải cái biết của tướng mạnh, đều chấm dứt.

Kinh nói :" Một giọt mưa ở ngoài hằng sa thế giới cũng biết được, tâm chúng sanh ở tất cả thế giới nổi lên một niệm cũng biết được".Cáùi biết của bản thể khắp không gian thời gian, chẳng có chỗ thiếu xót, nên gọi là Như Lai. Nay không cần chấm dứt, chỉ giữ cái tâm không biết thì quên tất cả biết, thân tâm , thế giới đều quên rồi , cái biết và không biết dựa vào đâu ?

Biết cũng do tâm, không biết cũng do tâm, tâm đã quên thì sự biết và không biết chẳng có chỗ dựa, lúc đó bản thể tự tánh tự hiện, đã đến nơi muốn không kiến tánh cũng chẳng được, hễ gặp nhân duyên nào cũng có thể kiến tánh.

Hỏi : Lời của Sư phụ là nói với người đã ngộ, đã quên năng sở thì được, còn người chưa ngộ thế nào ?

Đáp : Nay nói với người chưa ngộ, là thực hành theo đường lối tham Thiền, chứ không phải nói đến sự ngộ, sự ngộ chỉ tự biết, chỉ có Phật nói với Phật thôi. Cái quên của trí Bát nhã không cần tác ý, khác với cái quên lãng của thế gian, hễ tác ý là tướng bệnh, chẳng thể biết được cái biết của tự tánh, phải kiến tánh rồi tự biết.

Hỏi : Sư phụ nói kiến tánh rồi có thể sống với tự tánh ? Tại sao Giáo môn lại nói đốn ngộ rồi phải tiệm tu ?

Đáp : Đốn giáo khác với tiệm giáo, Giáo môn có đốn tiệm, Thiền môn cũng có đốn tiệm, mặc dù nói đốn ngộ, cũng do tiệm tu mới thành. Tôi thường lấy ví dụ như từ Chợ lớn đến Sài gòn một trăm bước, nếu kiếp trước đi được một bước thì kiếp này phải đi chín mươi chín bước; nếu kiếp trước đã đi năm mươi bước thì kiếp này đi thêm năm mươi bước nữa; kiếp trước đã đi chín mươi chín bước rồi, kiếp này một bước đến nơi.

Pháp chẳng có đốn tiệm, do người thành có đốn tiệm, do người có căn cơ lớn hoặc nhỏ: tâm chấp nhẹ là đốn, tâm chấp nặng là tiệm. Vì thấy người chỉ đi một bước đến nơi cho là đốn, kỳ thật kiếp trước đã tiệm tu. Cho nên , Tổ Sư Thiền không kể người lão tham hay sơ học, sơ học mà kiếp trước đã đi chín mươi chín bước, kiếp này một bước đến nơi; lão tham có thể kiếp trước chưa đi bước nào, nên kiếp này dù tu lâu mà không bằng sơ học là vậy.

Hỏi : Tất cả lời nói của Phật đều là văn tự, vậy thế nào là bất lập văn tự?

Đáp : Nói "bất lập văn tự" là không cho chấp thật văn tự, chứ chẳng phải phế bỏ văn tự, nếu phế bỏ văn tự, ấy là sai lầm. Không có văn tự thì làm sao hoằng dương giáo pháp ? Nhưng không được chấp thật vào đó.

Kinh Pháp Bảo Đàn nói : " Diệu lý của chư Phật chẳng dính dáng với văn tự", nói "bất lập văn tự", hai chữ BẤT LẬP đã là văn tự rồi ! lời nói cũng là tướng văn tự. Lời nói, văn tự, tư tưởng, ba danh từ dù khác, kỳ thật chỉ là một: Văn tự là lời nói không tiếng, lời nói là văn tự vô hình, còn tư tưởng là lời nói không tiếng và văn tự vô hình. Do có tư tưởng mới nói ra thành lời, viết ra thành văn tự. Nhưng ba thứ này khác hẳn với Chơn như Phật tánh, chẳng dính dáng với Phật tánh, chẳng thể tiếp xúc với Phật tánh, chỉ là gián tiếp dạy cho mọi người đường lối thực hành để đi đến Phật tánh thôi. Còn tham thoại đầu là trực tiếp , nên gọi Tối Thượng Thừa, bất lập văn tự.

Hỏi : Quan điểm lập trường của người tham thiền như thế nào ?

Đáp : Chẳng có quan điểm lập trường gì cả. Đã dùng cái tâm không biết để chấm dứt tất cả biết, biết quan điểm lập trường cũng là biết. Còn nếu muốn nói quan điểm lập trường : Một là tin tự tâm saün đủ năng lực bằng như chư Phật, hai là dùng cái không biết chấm dứt tất cả biết.

Hỏi : Sư phụ dạy phải nhìn thẳng vào hầm sâu đen tối, đến một ngày kia được kiến tánh. Nhưng tại sao phải tham như thế ? đề làm gì ?

Đáp : Để làm chủ cho mình, để đạt đến tự do tự tại, chẳng còn lệ thuộc vào ai, kể cả Phật.

Hỏi : Tu hành là để đi đến chỗ thanh tịnh, cần gì phải tham thoại đầu ?

Đáp : Thanh tịnh đó là vô thỉ vô minh, là nguồn gốc của sanh tử luân hồi. Mặc dù thanh thanh tịnh tịnh, nhưng bị kích thích rồi là nổi lên nhất niệm vô minh, nên phải phá tan luôn sự thanh tịnh đó.

Hỏi : Làm sao vượt qua được tình thức ?

Đáp : Muốn vượt qua tình thức, phải phá tan vô thỉ vô minh: Thấy, nghe, hiểu, biết là tác dụng của bộ não, chẳng phải cái biết của Phật tánh. Nay mượn câu thoại đầu khởi lên nghi tình, chỗ mịt mù đen tối đó chính là vô thỉ vô minh, cứ nhìn thẳng vào chỗ đó, lâu ngày phá tan được vô thỉ vô minh, lúc đó gọi là kiến tánh thành Phật, tất cả việc đều giải quyết xong.

Hỏi : Tại sao Đức Phật thuyết pháp công khai mà Tổ lại Giáo ngoại biệt truyền ?

Đáp : Nói Giáo ngoại biệt truyền là để phân biệt không phải là Giáo môn, khác với Giáo môn. Tại sao ? Vì Đức Phật thuyết pháp Giáo môn là bất đắc dĩ, do người ta không tin nổi pháp trực tiếp, nên phải thuyết pháp gián tiếp. Kinh Pháp Bảo Đàn nói :" Vì hạ căn nên phải nói xa, vì thượng căn nên nói là gần". Do đó, Giáo môn nói thành Phật phải trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp, còn Thiền môn kiến tánh chỉ một sát na.

Hỏi : Tại sao Đức Phật đưa lên cành hoa, ngài Ma Ha Ca Diếp được ngộ?

Đáp : Pháp gián tiếp phải học, phải tìm hiểu, rồi theo sự hiểu tiến tu dần theo thứ lớp, chứng theo thứ lớp như Thập Tín, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, v.v. Còn pháp trực tiếp không cần ngôn ngữ văn tự, không qua bộ óc suy nghĩ , cho nên khi Phật Thích Ca đưa lên cành hoa, ngài Ca Diếp ngộ được, ấy là chỉ thị pháp trực tiếp.

Pháp sư Nguyệt Khê nói trong "Cội nguồn Truyền Thừa" rằng Đức Phật không những chỉ có sự niêm hoa thị chúng, ngoài ra còn có những trường hợp chỉ thị pháp trực tiếp như sau :

* Ban đầu Phật lấy ra hạt châu Ma Ni tùy sắc, hạt châu này nơi thế gian được xem là một bảo vật: Hạt châu không màu sắc, nhưng người nào cũng nhìn thấy có màu sắc khác nhau, ví như mặc áo đen thấy hạt châu màu đen, mặc áo đỏ thấy hạt châu màu đỏ.nên gọi hạt châu tùy sắc.

Phật hỏi Ngũ phương Thiên vương :"Hạt châu màu gì ?"

Ngũ phương Thiên vương đều tùy theo sở thấy của mình nói màu sắc khác nhau. Sau đó Phật đem giấu hạt châu rồi đưa bàn tay ra hỏi :

Hạt châu màu gì ?

Ngũ phương Thiên vương đáp : Trong tay Phật đâu có hạt châu mà hỏi là màu gì ?

Phật bảo :" Các ngươi sao điên đảo quá! Ta đem hạt châu thế gian thì nói đủ thứ màu, nay ta chỉ thị hạt châu chơn thật thì lại không biết !"

Năm vị liền ngộ.

* Lại, có một ngoại đạo hỏi Phật :

- Không hỏi có lời, không hỏi chẳng lời ?

Đức Phật im lặng giây lâu, ngoại đạo nói :

- Thế Tôn thật đại từ, khai phá đám mây ám muội cho con, khiến con ngộ nhập." Đãnh lễ lui ra.

Thị giả A Nan hỏi : Ngoại đạo được gì mà lại cám ơn Ngài ?
Phật bảo : "Cũng như con tuấn mã nơi thế gian, thấy bóng roi liền phóng đi, không cần đánh"
Ấy cũng là một phương pháp trực tiếp chỉ thị. Tất cả cách trực chỉ của các vị Tổ đời sau ở Trung Quốc đều như thế, chẳng qua sự suy nghĩ và lời nói văn tự. Bây giờ hành giả tham thiền cũng vậy, không cho tác ý suy nghĩ tìm hiểu, chỉ khởi lên nghi tình , giữ cái không biết tham tới mãi.
Hỏi : Phật tánh là một, nhưng tại sao sự kiến tánh của chư Tổ lại khác nhau ?
Đáp : Sự ngộ giống nhau, nhưng do tập khí , tâm chấp có sâu cạn, nên trong sự ngộ có khác nhau; tâm chấp nhiều thì ngộ canï, vì chưa ngộ triệt để nên có khác, nhưng khi ngộ đến cuối cùng thì không khác. Kinh Kim Cang nói :" Vì có pháp vô vi nên có sự sai biệt của thánh hiền", nếu đến chỗ vô vi thì chẳng sai biệt vậy..

Hỏi : Thế nào gọi là Chánh Biến Tri ? Thế nào là không có chỗ búng ?

Đáp : Cái biết của Tự tánh gọi Chánh Biến Tri, khắp không gian thời gian, chẳng thể gọi là biết, chẳng thể gọi là không biết. Nói "khắp không gian thời gian" quý vị có thể khó hiểu, nay lấy thân này làm thí dụ : Bây giờ búng tay tay biết, búng đầu đầu biết, nếu cái biết khắp cơ thể thì chỗ búng không có, nếu có chỗ búng tức không cùng khắp cơ thể.

Có chỗ búng cũng không cùng khắp cơ thể, chẳng chỗ búng cũng không cùng khắp cơ thể, tại sao ? Vì sự biết của cùng khắp cơ thể ấy chẳng thể nói là có chỗ hay chẳng có chỗ, nên chẳng có chỗ biết, cũng chẳng có chỗ không biết, do đã cùng khắp vậy. Chỗ búng dụ cho chỗ biết, không có chỗ biết chẳng phải là không biết.

Hỏi : Làm sao phân biệt Diệu tâm biến hiện và Chơn tâm duyên khởi ?

Đáp : Diệu tâm chẳng biến hiện, Chơn như cũng chẳng duyên khởi. Diệu tâm, Chơn như đều là biệt danh của Tự tánh, Phật tánh bình đẳng bất nhị, chẳng sanh chẳng diệt; chẳng sanh thì không có biến hiện, không có duyên khởi. Nay nói biến hiện duyên khởi là từ vô thỉ vô minh, cũng gọi là đầu sào trăm thước.

Biến hiện trong Duy thức có hai thứ : Độc đầu ý thức biến hiện nhắm mắt chiêm bao , và đồng thời ý thức biến hiện mở mắt chiêm bao. Kiến văn giác tri đều do tác dụng của bộ não, trong kinh gọi là nhất niệm vô minh. Nhất niệm vô minh sanh khởi từ vô thỉ vô minh, cũng gọi là căn bản vô minh.

Căn bản vô minh không dính dáng với Diệu tâm, không dính dáng với Chơn như Phật tánh. Chơn như Phật tánh xưa nay vốn như thế, chẳng thay đổi sanh diệt. Còn biến hiện có sanh diệt luân hồi, từ vô minh bất tri bất giác hiện ra nhất niệm vô minh, , tức kiến văn giác tri, có tri có giác, do kiến văn giác tri biến hiện nhắm mắt chiêm bao và mở mắt chiêm bao, tất cả những biến hiện này đều do tác dụng của bộ não.

Nay thấy có buồn vui phiền não, đều là bị lục căn lừa gạt, nên Tâm kinh dùng chữ VÔ để chấm dứt sự chấp thật.

Phàm tất cả tương đối có không, Phật gọi là biên kiến, đều ở trong luân hồi, người chưa ra khỏi luân hồi mà phân biệt tánh Viên giác, thì tánh đó cũng là luân hồi, cho nên nói " Diệu tâm biến hiện" và "Chơn như duyên khởi" đều là không có.

Hỏi : Chư Phật chư Tổ ra đời độ chúng sanh có dùng vô thỉ vô minh không ?

Đáp : Như Kinh Kim Cang nói :"Độ hết tất cả chúng sanh , thật chẳng có một chúng sanh được độ", nếu có chúng sanh để độ là còn chúng sanh tướng. Vì chúng sanh có sự chấp đó, nên Phật nói "độ chúng sanh" để phá chấp. Nếu chúng sanh chẳng chấp thật thì Phật cũng không ; chúng sanh là mê, Phật là ngộ, có mê mới có ngộ, đã hết mê thì ngộ cũng không, nên nói ngộ rồi đồng như chưa ngộ. Nếu còn tướng ngộ tức còn mê, trong kinh gọi là thọ mạng tướng, còn nằm trong tương đối.

Hỏi : Kinh nói :" Chư Phật và chúng sanh đã đồng một bản thể" thì tại sao lại do vô minh vọng động biến thành chúng sanh ?

Đáp : Bản thể không thể trở thành chúng sanh được, vì không có sanh diệt. Ví như tôi thí dụ "chỗ búng" ở trên, do tâm chấp của mình nên có vô minh, vô minh vốn không, Tâm Kinh nói "Vô vô minh , diệc vô vô minh tận". Nay dù nói thế nào, cũng là việc trong chiêm bao, phải tự thức tỉnh rồi mới biết những gì trong chiêm bao vốn chẳng thật có.

Hỏi : Chơn như Phật tánh cùng khắp mọi nơi, vậy vô thỉ vô minh có cùng khắp không ? Nếu có, tại sao biết từ vô minh khởi ?

Đáp : Vô thỉ vô minh cũng theo Phật tánh cùng khắp. Như tôi vừa thí dụ ở trên: Cái biết của cơ thể cùng khắp, chẳng có chỗ biết và không biết, hễ muốn tìm ra chỗ biết tức không cùng khắp rồi. Đối với vấn đề này, phải tự thức tỉnh mới được, chưa thức tỉnh thì tất cả đều là ở trong chiêm bao, ra ngoài chiêm bao chẳng được.

Hỏi : Cũng vì chấp thật, nên có Chơn như Phật tánh và vô thỉ vô minh, nếu không chấp thì chính ngay vô thỉ vô minh là Chơn như Phật tánh, phải không ?

Đáp : Người đã kiến tánh rồi, tất cả vũ trụ vạn vật, mặc áo ăn cơm đều thành Phật tánh, đều bất nhị, nhưng hiện nay chưa giác ngộ thì có muôn ngàn sai biệt, có vấn có đáp, nói có nói không.

Chưa ra khỏi sanh tử luân hồi thì phải có thiện có ác, có sanh tử luân hồi. Do đó, làm thiện đươc phước báo, làm ác chịu khổ báo, chịu nhân quả trong chiêm bao, nói "không chấp’ tức chấp vậy. Tất cả biết của hiện nay đều là sự biết của người mù, Phật cần chúng ta trị hết bệnh mù, thành người mắt sáng, thấy rõ việc chơn thật. Nhưng các người học Phật chẳng chịu trị hết bệnh mù, cứ muốn ở trong kinh điển tìm chơn lý, cho đó là mặt trăng, nên Phật nói là rất đáng thương xót.

Hỏi : Sư phụ đã nói biết cũng là bệnh, không biết cũng là bệnh, mà sao gặp Sư phụ cứ muốn hỏi hoài ?

Đáp : Vì không tin tự tâm, nên có câu hỏi; và dù tin nhưng tin chưa đầy đủ, nên cứ muốn hỏi. Được tôi trả lời để tăng thêm lòng tin, khi lòng tin đầy đủ thì tự nhiên không cần hỏi nữa.

Hỏi : Đã làm đủ điều lầm lỗi , có chướng ngại cho việc nhận lại tự tánh saün có của mình không ?

Đáp : Tự tánh đâu có những thứ đó ? Ấy là do tâm chấp mới có. Trong Pháp Môn An Tâm của Tổ Đạt Ma nói : " Nếu thấy được bản tánh, ví như người đã thức tỉnh, tất cả tội lỗi trong chiêm bao đi đâu tìm ?" Sở dĩ có tất cả tội lỗi, đều do bị lục căn lừa gạt thôi.

Hỏi : Sư Phụ cho biết sự truyền thừa của ngài về pháp Tổ Sư Thiền từ ai ?

Đáp : Sự truyền thừa của Tổ Sư Thiền chia làm hai phái : Một phái là Thế Độ ( xuống tóc ), một phái là Pháp phái, thường gọi là Thế pháp và Pháp phái.

Về Thế pháp của tôi là Tông Lâm Tế , về Pháp phái thuộc Tào Động. à Sự truyền thừa của cá nhân tôi có ghi trong pháp quyển: Từ đời Phật Thích Ca đến Ma Ha Ca Diếp. đến đời tôi là đời thứ 89, không có sự gián đoạn. Nay ở đây giải đáp thắc mắc, không thể kể ra, sau này khi cần, tôi sẽ lưu lại pháp quyển, để quý vị được biết.

Hỏi : Tại sao Sư phụ Pháp phái được truyền từ Tào Động, mà Thế pháp lại là dòng Lâm Tế ?

Đáp : Trước đời nhà Tống, khi đệ tử kiến tánh, được thầy ấn khả, thì thầy ấn khả thuộc về Pháp phái. Đến sau này, người có tham thiền dù chưa kiến tánh vẫn được nối pháp, rồi dần dần người không có tham thiền cũng được nối pháp, tu Tịnh độ cũng nối pháp Thiền tông, cũng nói là Thiền sư. Có tu cũng còn khá, sau này kể cả người không tu pháp môn nào cũng nối pháp, trong pháp quyển cũng gọi là Thiền sư, thật là phỉ báng Phật Tổ !

Riêng về sự truyền thừa của cá nhân tôi, nếu gặp được một người để giao lại, tôi sẽ bàn giao. Nay nhiều người muốn nối pháp của tôi, nhưng tôi chưa đưa nguyên lưu cho ai ( Nguyên lưu tức cội nguồn truyền thừa ), cũng có người mượn danh nghĩa tôi, nói là đệ tử tôi đi xin đóng góp, lừa gạt người.

Hỏi : Khi vắng Sư phụ, chúng con công phu gặp trở ngại, biết hỏi ai ?

Đáp : Bây giờ tôi cũng chưa biết là vị nào, nhưng chín chữ "VÔ SỞ ĐẮC, VÔ SỞ CẦU, VÔ SỞ SỢ" trong cuốn Đường lối thực hành tham Tổ Sư Thiền là để phá ngã chấp, nếu tự hỏi không vi phạm chín chữ này sẽ chẳng có gì trở ngại, thực hành được chín chữ này là không thể nhập ma được. Có chướng ngại là do ngã chấp, có sở cầu sở đắc sở sợ, hễ tin tự tâm 100%, tự nhiên sẽ thực hành được chín chữ này.

- Nếu thật đã kiến tánh, có người mắt sáng thì nhờ người ấy ấn chứng, nếu không gặp người mắt sáng, có thể lấy Truyền Đăng Lục hoặc Kinh Hoa Nghiêm ấn chứng cũng được.

Tham thiền cần tự mình đi, có đi ắt sẽ đến, khi đến nơi rồi người ta nói mình chưa đến cũng đâu được ! Hễ chưa đến mà nói đã đến rồi là đại vọng ngữ, phải đọa địa ngục.

Hỏi : Theo sự hiểu biết của con, mười hai bộ kinh của chư Phật và lời của chư Tổ đều chưa qua khỏi vô thỉ vô minh ?

Đáp : Nói chư Tổ kẹt nơi vô thỉ vô minh là không đúng, ngoại đạo và Tiểu thừa mới bị kẹt nơi vô thỉ vô minh, cho vô thỉ vô minh là cứu cánh. Phá được vô thỉ vô minh mới gọi là kiến tánh, hễ chưa phá thì chưa được gọi là kiến tánh.

Hỏi : Sư phụ nói các pháp môn khác chỉ có chứng quả chứ chưa kiến tánh, vậy giữa kiến tánh và chứng quả khác nhau như thế nào ?

Đáp : Tiểu thừa có bốn quả :

Sơ quả Tu Đà Hoàn: dịch là Nhập lưu, nhưng chẳng phải có chỗ nhập. Kinh Kim Cang nói :" Chẳng nhập sắc thanh hương vị xúc pháp, gọi là nhập lưu". Tức đã lìa được lục trần là chứng sơ quả, phải sanh cõi người bảy lần nữa, theo kinh nói là "đã dứt hết kiến hoặc của Tam giới".
- Nhị quả Tư Đà Hàm: dịch là Nhất vãng lai, tức sanh cõi Trời một lần, sanh cõi người một lần. Tư hoặc của tam giới gồm chín phẩm, chứng được Tư Đà Hàm thì dứt được sáu phẩm, còn ba phẩm sau chưa dứt, nên phải sanh cõi người (Dục giới) một lần nữa.

- Tam quả A Na Hàm: gọi là Bất lai, tức đã dứt hết tư hoặc của dục giới, không cần thọ sanh nơi dục giới nữa, chỉ ở cõi Trời chứng quả A La Hán.

- Đến tứ quả A La Hán là xuất sanh tử luân hồi, nhưng chưa phải kiến tánh, còn chưa phá được vô thỉ vô minh.
* Giáo môn có năm thứ phiền não : Dục ái trụ địa phiền não là Dục giới, Sắc ái trụ địa phiền não là Sắc giới, Hữu ái trụ địa phiền não là Vô sắc giới, A La Hán dù dứt bốn thứ phiền não trên, nhưng còn Vô minh trụ địa phiền não. Vô minh là chẳng nổi ý niệm gì, thanh thanh tịnh tịnh, không vọng tưởng, không gì hết, nên người ta tưởng lầm là Niết bàn, kỳ thật chỗ đó là cội nguồn nổi lên nhất niệm vô minh. Nên nói chứng quả chưa phải kiến tánh.

* Đại thừa chứng quả lại khác : Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa ,cho đến Đẳng Giác, Diệu Giác là Phật, thường là 52 cấp, Kinh Lăng Nghiêm thì có 57 cấp. Người chứng quả Thập địa vẫn chưa kiến tánh triệt để.

Hỏi : Sư phụ nói Phật giáo không kiến lập chơn lý, vậy Tam tạng giáo điển của Phật chẳng phải chơn lý sao ?

Đáp : Không phải. Tam tạng giáo điển đều quét sạch chơn lý. Chơn lý là chấp thật, Tam tạng giáo điển là quét sạch tất cả chấp thật, kể cả chấp Phật. Bất cứ chấp vào cái gì đều là chấp.

Hỏi : Thế thì người tu đạo Phật không có chơn lý sao ?

Đáp : Nếu nói "không " là chấp thật vào không, bệnh càng nặng hơn. Có và không là đối đãi, nếu chấp không là thật, thì Có cũng là thật. Vì CÓ tiêu diệt rồi mới thành KHÔNG, vốn là chẳng có cái CÓ để tiêu diệt , làm sao có cái KHÔNG để chấp ! Thành lập CÓ rồi mới thành lập KHÔNG, CÓ đã không thành lập thì KHÔNG làm sao thành !

Hỏi : Như vậy thế nào là chơn lý của Đạo Phật ?

Đáp : Đã chẳng kiến lập chơn lý, làm sao có "chơn lý của đạo Phật"? Pháp, phi pháp, phi phi pháp. Kinh Kim Cang nói :" Nếu người nào nói Như Lai có thuyết pháp là phỉ báng Phật", chẳng có pháp để Như Lai thuyết, làm sao có chơn lý của nhà Phật ?

Hỏi : Chúng con có thể tự độ được không ?

Đáp : Lục Tổ nói "Tự tánh tự độ", nhưng phải nhờ chư Phật chư Tổ chỉ dẫn đường lối thực hành để tự độ. Cũng như Tổ Sư Thiền là do Phật Thích Ca đích thân chỉ dạy thực hành để tự độ, chứ chẳng phải là Phật Thích Ca độ hay ai độ.

Hỏi : Trong Cội Nguồn Truyền Thừa, ngài Nguyệt Khê nói đến Tự tánh Bát nhã: "Thật tướng Bát nhã là pháp thân, phương tiện Bát nhã là kiến văn giác tri, dùng phương tiện Bát nhã để phá vô thỉ vô minh, sẽ chứng được Thật tướng Bát nhã ". Vậy dùng kiến văn giác tri chuyển thức thành trí rồi trở thành Bát nhã, phải không ?

Đáp : Nói Tự tánh Bát nhã, Thật tướng Bát nhã, Phương tiện Bát nhã. đều là phương tiện, phàm dùng lời nói đều là phương tiện, phương tiện thì không đúng với thật tế, phải tự ngộ rồi, sự ngộ ấy mới đúng với thật tế. Hễ chấp vào cảnh giới ngộ vẫn còn chưa đúng với thật tế, huống là chưa ngộ !

Cái biết của kiến văn giác tri là tác dụng của bộ não, cái không biết cũng vậy, nay mình còn là chúng sanh, hiện hành đều là tác dụng của bộ não. Bát nhã vô tri mà vô sở bất tri, đã kiến tánh rồi, biết cũng là Bát nhã, không biết cũng là Bát nhã; chưa kiến tánh thì tri cũng là bệnh, bất tri cũng là bệnh.

Bây giờ nói " Dùng cái không biết của bộ não, chấm dứt tất cả biết của bộ não", cũng là chiếu theo ý giải của ngài Nguyệt Khê: Ví dụ kiến văn giác tri là do bộ não đặc ra cái tên, các tướng; người đã kiến tánh không kẹt vào danh tướng, người chưa kiến tánh đuổi theo danh tướng, có kiến văn giác tri, không kiến văn giác tri v.v.Kỳ thật, có kiến văn giác tri với không chẳng khác, cho nên, bất cứ phương tiện gì hễ nói ra đều không đúng với thật tế.

Hỏi : Bất nhị là gì ?

Đáp : Bất nhị chẳng phải là một, có một tức có hai, là nhị. Nói

"Bất nhị" cũng là phương tiện để chúng ta đừng chấp thật, vì chấp thật tức có giả, có chơn tức có vọng, là nhị. Nghĩa bất nhị không đối đãi, không tương đối, chẳng dính dáng với Có và Không, cũng là nghĩa vô trụ, vô thỉ vô sanh. Nhưng nếu chấp thật "vô sanh" cũng là nhị. Muốn chứng thật nghĩa bất nhị, phải tự ngộ mới được.

Hỏi : Nếu tất cả mọi người đều tham thoại đầu, không dùng lời nói văn tự, người đời sau làm sao biết đến Phật pháp ?

Đáp : Đức Phật thuyết pháp 49 năm, tất cả lời dạy đều được ghi trong kinh điển, cuối cùng truyền pháp Tổ Sư Thiền. Giáo môn nói trong kinh điển gồm 84 ngàn pháp môn, thuộc pháp gián tiếp, còn Tổ Sư Thiền là pháp trực tiếp. Nếu người tin pháp thiền trực tiếp không nổi thì phải tin pháp gián tiếp. Vì người thường tin vào pháp gián tiếp, nên Phật thuyết về pháp gián tiếp nhiều hơn, còn Pháp thiền trực tiếp , Đức Phật chỉ truyền trong sát na.

Nay tôi hoằng pháp Tổ Sư Thiền, chẳng có ý muốn tất cả đều tu theo Tổ Sư Thiền, chẳng học Giáo môn. Nhưng vì Giáo môn đời nay khác với Giáo môn đời xưa: Giáo môn đời xưa gọi là tri văn khởi quán, học đến đâu quán đến đó, tức vừa học vừa tu, sự học với sự tu đi song song. Giáo môn đời nay chỉ có học, không có tu. Chớ nói là pháp xuất thế gian, pháp thế gian như khoa học , học lý luận cũng phải qua sự thực nghiệm để chứng tỏ phần lý luận đúng hay sai, còn học Giáo môn chỉ có phần lý luận, không thực hành thì đâu thể biết đúng sai ? Chỉ cho học nhiều là cao, là hơn người, tăng thêm ngã chấp, thêm cống cao ngã mạn, nghịch với chánh pháp !

Như câu hỏi của cô là hỏi theo ngã chấp, chẳng biết thiền là gì, chẳng biết Tổ Sư Thiền như thế nào, nên sợ tất cả mọi người đều tu pháp Tổ Sư Thiền thì không còn người biết đến Phật pháp !

Nếu thật sự mọi người đều tu pháp Tổ Sư Thiền , Phật pháp sẽ càng thịnh vượng hơn; vì người chứng quả nhiều. Một người chứng quả độ vô biên chúng sanh, khiến giáo pháp càng phát triển. Nếu chẳng ai tu Tổ Sư Thiền, mà chỉ học Phật pháp không chứng quả thì Phật pháp tại thế gian phải tiêu diệt! Chẳng những bị tiêu diệt, sẽ trở thành ngoại đạo, vì không phá ngã chấp.

Hỏi : Tụng Kinh Pháp Hoa và tu Tổ Sư Thiền, phước đức như thế nào ?

Đáp : Tụng kinh là để cầu phước, phải không ? Tu Tổ Sư Thiền cũng là để cầu phước ? Phước nếu có thể do cầu mà được thì không có nhân quả, không nhân quả thì không Phật pháp, không Phật pháp thì không có chùa ! Muốn được phước quả phải gieo thiện nhân, chứ chẳng phải chỉ tụng kinh là có phước, thế thì người nào biết chữ đều tụng được ! Nay không chịu gieo nhân muốn đắc quả, có thể được chăng ?

Bất cứ học theo pháp môn nào cũng phải tin nhân quả, không những trong Phật pháp có nhân quả, các tôn giáo khác, người đời nơi thế gian, dù có tín ngưỡng hay không, đều nằm trong nhân quả. Hễ phước báo có thể cầu được là ở ngoài nhân quả, chứ đừng nói tụng Kinh Pháp Hoa hay tu Tổ Sư Thiền.

Hỏi : Thế thì Phật tử đến chùa tụng kinh gieo nhân gì ?

Đáp : Tụng kinh để hiểu được ý Phật trong kinh, dù không theo kinh tu hành, cũng được gieo nhân, muôn ngàn kiếp sau cũng được quả. Còn nếu tụng kinh mà không hiểu ý, tụng như không tụng.

Hỏi : Nếu người tụng kinh hiểu được lời kinh, thực hành theo kinh thì được lợi ích, phải không ?

Đáp : Kinh Pháp Hoa nói : "Chư pháp tùng bổn lai, thường tự tịch diệt tướng". Các pháp từ xưa nay, vốn là tướng tịch diệt, đó cũng là nghĩa vô sanh. Vô sanh thì đâu có sự cầu và không cầu, lợi ích hay chẳng lợi ích? Ví như trong Kinh Duy Ma Cật, La Hầu La nói về lợi ích của sự xuất gia mà bị ngài Duy Ma Cật quở! Pháp đã vô sanh, đâu có lời nói để chấp thật ? Tất cả kinh Phật đều chỉ là phương tiện để phá chấp, Kinh Pháp Hoa cũng vậy. Phá được sự chấp là được lợi ích, nếu chấp vào đó cho là thật, lại thêm bệnh chấp chứ chẳng lợi ích gì.

Hỏi : Xin Sư phụ ban pháp âm cho vấn đề Thiền thất, khi Sư phụ đi vắng ?

Đáp : Hai điều cần nhất khi thực hành tham Tổ Sư Thiền mà tôi thường nói, một là tin tự tâm, hai là dùng sự không biết của bộ não chấm dứt tất cả biết của bộ não. Còn nói về thiền bệnh thì cuốn Cội Nguồn Truyền Thừa của ngài Nguyệt Khê đã nói rõ. Phần Thỉnh Ích Hỏi Đạo của ngài Nguyệt Khê, có thể đọc ra thu băng và phát lại cho hành giả nghe, để nhắc lại những thiền bệnh thường gặp phải để sửa sai.

Hỏi : Quy củ tối thiểu khi đến dự Thiền thất ?
Đáp : Ở Chùa Pháp Thành Tôi có cho cuốn Quy củ Thiền Thất . Nói chung, công phu của mình đừng có chướng ngại đến người khác, còn nếu phát hiện chỗ nào có thiếu xót thì thêm vào.

Hỏi : thuốc "tham thoại đầu" là để chữa "bệnh sanh tử", chúng con tham thoại đầu cũng cầu mong được chữa khỏi bệnh sanh tử, vậy làm cách nào tôn trọng 3 chữ "Vô sở cầu"?

Đáp : Pháp vốn vô sanh, làm sao sanh ra việc cầu và không cầu ? Nay tại có chấp tâm sanh khởi "có cầu", nên dùng "vô sở cầu" để đối trị, nếu sự cầu chẳng khởi thì đâu cần dùng đến thuốc "vô sở cầu" nữa !

Bây giờ chưa chứng quả, nên thấy có muôn ngàn sai biệt, hễ chứng quả rồi thấy không sai biệt, trong cầu thấy vô sở cầu. Nên người chứng quả gọi là "ngộ pháp vô sanh", nay vì còn nằm trong tương đối, nên chẳng chấp cầu thì chấp vô sở cầu, chẳng chấp đắc thì chấp vô sở đắc.

Hỏi : Người tham thiền ham chỗ "Ổ" lên một tiếng đập tan vô thỉ vô minh, nên lọt vào có sở cầu ?

Đáp : Đó là do cái biết của bộ não, do công phu chưa đắc lực, nên có sự ham đó. Nếu công phu giữ được "không biết" của nghi tình, thì đâu còn sự ham biết đó ? Chư Tổ nói :" Trước tiên quên thế giới vạn vật, sau quên cái thân, cuối cùng quên luôn cả tâm". Tâm đã quên, còn gì không quên ? Đâu còn ham và không ham? Còn gì để nói nữa ? Nên cần thiết về công phu.

Hỏi : Khi vắng Sư phụ, chúng con gặp chướng ngại thì sao ?

Đáp : Tôi thường nói "phải tin tự tâm 100%", do chẳng tin tự tâm mới có sự ham cầu và chứng đắc, mới sanh ra đủ thứ thiền bệnh. Chín chữ "Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ" là trị bệnh chấp ngã, hễ tin tự tâm thì đâu còn cầu còn đắc còn sợ ? Vì tất cả là của mình.

Tự tâm khắp không gian thời gian, ngoài không gian chẳng có không gian, ngoài thời gian chẳng có thời gian, còn gì để đắc ? Có đắc là từ bên ngoài, đều là ở trong, đều là của mình thì cần gì để cầu để đắc ? Nếu thực hiện đúng theo hai điều nhắc nhở trên, tự nhiên sẽ đến chỗ vô minh tan rã.

Nay nói vô minh tan rã, thật ra trong Phật pháp vốn chẳng có cái vô thỉ vô minh để cho mình phá, tại chấp mới thành có, nên phải phá.

Hỏi : Tại sao trong Thiền Thất Khai Thị Lục nói "khi nghi tình thành khối phải nổi vọng tưởng" ?

Đáp : Đó là sau khi ngộ rồi bảo nhiệm, bảo nhiệm cũng gọi là tu, sự tu đó mới là chơn tu, ngài Qui Sơn nói "chăn trâu", là sau khi ngộ rồi bảo nhiệm mới thật là chăn trâu, chứ chẳng phải như Giáo môn cho "chăn trâu" là tu, ấy là sai.

Sau khi ngộ rồi, tập khí vẫn còn, tự nhiên phải nổi vọng tưởng, cũng tự nhiên dứt vọng tưởng, cứ nổi bao nhiêu dứt bấy nhiêu. Nhưng chúng ta không thể chấp vào lời của Tổ, ấy chỉ là phương tiện thí dụ, người nói thì không sai, hễ chấp thật là sai.

Hỏi : Làm thế nào làm thiện không lọt vào nơi thiện ?

Đáp : Tạo thiện ắt được thiện quả, nhưng cái nhân đã không trụ thì quả cũng không trụ. Mặc dù không trụ quả, nhân đã gieo, quả sẽ đến, ví như Phật Thích Ca, dù tâm chẳng trụ nhân, chẳng cầu danh vọng, khi quả đến người nào cũng cung kính lễ bái Đức Phật.

Hỏi : Nay cũng có nhiều người nói "làm mà không chấp", "làm mà chẳng trụ". Đó có phải ngụy biện không ?

Đáp : Nói "không trụ" đã là trụ rồi, vì có trụ mới nói không trụ; nói "không chấp" đã là chấp, nếu thật không chấp thì chẳng cần nói, kễ cả cái "không chấp" cũng chẳng có, gọi là giải thoát tri kiến.

Hỏi : Thế nào là " Thường ứng chư căn dùng, mà chẳng khởi dụng tưởng, phân biệt tất cả pháp, chẳng khởi phân biệt tưởng" trong kinh Pháp Bảo Đàn ?

Đáp : Cái dụng là dụng của bản thể, phân biệt cũng là phân biệt của bản thể, chẳng phải vô tri, chỉ là cùng khắp mà không nơi chốn thôi.

Thường ứng chư căn dụng : Lục căn ứng dụng hằng ngày, luôn luôn như thế, chẳng phải lúc thấy mới gọi là thấy, lúc có nghe mới gọi là nghe. Nhắm mắt cũng thấy, không nghe cũng nghe, vì bản thể cùng khắp, chẳng phải sự thấy nghe của người bệnh. Như Quán Thế Ââm Bồ tát, dùng con mắt để nghe âm thanh của thế gian, gọi là lục căn hổ dụng.

Kỳ thật, cái biết của bản thể không cần lục căn, nhưng nhờ lục căn diễn đạt thôi. Nhưng chúng sanh phải nhờ lục căn, nên nói "thường ứng chư căn dụng", mặc dù dụng, cũng như không dụng, vì chẳng khởi ý là dụng, như trên đã nói,cái biết luôn luôn như thế, chẳng có năng dụng sở dụng; chẳng phải khi tiếp xúc mới là dụng, chẳng tiếp xúc thì không. Nếu khởi ý năng sở tức gọi là dụng tưởng.

Phân biệt tất cả pháp, chẳng khởi phân biệt tưởng : tức chẳng cho là biết. Nếu nổi lên cái biết, ấy là cái biết bệnh, chẳng phải sự biết không gián đoạn của bản thể. Hễ có gián đoạn tức không cùng khắp, tức có sanh diệt, lúc biết là sanh, không biết là diệt, nhớ thì sanh, quên thì diệt.

Hỏi : Sư phụ dạy "lấy cái không biết để chấm dứt tất cả biết", tức dùng cái không biết đối trị cái biết, nhưng cái "không biết" lấy gì đối trị ?

Đáp : Lấy cái biết của bản thể để trị bệnh "không biết" của bộ não. Nhưng cái biết của bộ não thì chẳng thể biết được "cái biết của bản thể".
Nay dùng cái không biết của bộ não chấm dứt tất cả biết của bộ não, bao gồm tìm hiểu biết, ghi nhớ biết và tùy duyên biết. Tánh con người ham tìm hiểu, tìm hiểu rồi ghi nhớ lại; tìm hiểu biết chấm dứt rồi, phải chấm dứt luôn cả tùy duyên biết. Thế nào là tùy duyên biết ? Tức không cần tìm hiểu cũng biết : ví như ngồi, chẳng cần tìm hiểu cũng biết ngồi, đi chẳng cần tìm hiểu cũng biết đi, biết ăn cơm v.v. gặp duyên gì đều biết.
Ngài Lai Quả nói :" Khi công phu đến mức, ngồi không biết là ngồi, đi không biết là đi", lúc đó tất cả đều không biết, chính chỗ đó là vô thỉ vô minh. Cuối cùng còn tâm không biết, là gần kiến tánh. Khi cái biết của tự tánh thình lình nổi lên, cái không biết của bộ não tan rã, gọi là kiến tánh thành Phật, tức chấm dứt cái biết của người mù, tự mình mắt sáng, chẳng cần hỏi ai nữa, chẳng còn bị người lừa gạt.

Nay chưa kiến tánh là người mù, thường bị người mắt sáng như Phật, Tổ lừa gạt. Tổ với Phật vốn không có ý lừa gạt mình, tại mình chẳng thể thấu qua lời nói của Phật , Tổ, nên bị lừa gạt.

Hỏi : Tại sao ngài Nguyệt Khê nói "Vạn pháp duy tâm tạo" là không đúng ?

Đáp : Theo thật tế, Tự tánh vốn đã sẳn đủ, những suy nghĩ, lời nói, văn tự v.v.đều là không đúng, tất cả chỉ diễn tả về bề trái, còn bề mặt là nói không được, không có chỗ để nói. Ví như cái biết cùng khắp cơ thể, chẳng có chỗ búng, tức chẳng có chỗ biết và không biết, vậy thì lấy gì để nói? Muốn nói , phải có chỗ biết, có chỗ không biết mới nói được, mà cái biết nói được ấy là biết bệnh, là bề trái. Nên kinh Lăng Nghiêm nói " Đệ nhất nguyệt là nói không được", suy nghĩ, văn tự, lời nói đều không đến được. Do đó, hễ nghiên cứu về bề trái ( lời nói của Phật, của Tổ ) là sai, vì bề trái đã là không đúng rồi.

Hỏi : Sau khi vắng mặt Sư phụ, có thể cho nghe lại những đoạn băng vấn đáp từ những năm trước đây trong buổi chiều mỗi cuối kỳ Thiền thất ?

Đáp : Nếu nghe là nghe những kỳ gần đây, vấn đáp sắc hơn. Vì những năm đầu , do lòng tin của hành giả chưa vững chắc, nên tôi phải giảng dài dòng hơn. Còn bây giờ tôi nói ngay : Chỉ có hai điều : TIN TỰ TÂM và DÙNG CÁI KHÔNG BIẾT CỦA NGHI TÌNH CHẤM DỨT TẤT CẢ BIẾT.

Mặc dù nghe tôi giảng như thế, nhiều người cũng nói là hiểu lời tôi nói, nhưng vì tập khí ham tìm hiểu, nhất là tìm hiểu câu thoại, trong đầu luôn muốn tìm câu trả lời, lọt vào ý thức, ấy là sai. Tôi đã hỏi nhiều người, đã dặn trước là hỏi phải trả lời liền, không cho suy nghĩ, không cho tìm hiểu, không cho chậm trể, nhưng khi tôi hỏi, vẫn chậm trễ muốn tìm câu trả lời, cho nên, những người như thế là tham không được, là sai, người nào cũng bị. Hành giả tham thiền phải lưu ý điều này.

Hỏi : Ngài Nguyệt Khê nói "Phật tánh chẳng dính dáng đến vô minh", vậy tại sao Chứng Đạo Ca lại nói "Thật tánh vô minh tức Phật tánh "?

Đáp : Phương tiện vốn chẳng thật, nay muốn truy cứu phương tiện cho là đúng lý, ấy là sai, vì tất cả phương tiện đều vô lý, ví như nói "từ vô thỉ đến nay", có thỉ mới đến nay, vô thỉ làm sao đến nay ? Nói ra là sai rồi ! Ví như nói "Kiến tánh", nếu giải theo mặt chữ, cho là có cái tánh để thấy, là sai rồi !

Phàm là lời nói đều chỉ là phương tiện, chẳng phải chơn lý, nên Phật pháp khác hơn tất cả tôn giáo là không kiến lập chơn lý. Lời của ngài Nguyệt Khê cũng như lời của Phật, chỉ là phương tiện để phá chấp, đâu thể chấp thật ?

Nói "thật tánh vô minh tức Phật tánh", chẳng những vô minh, thật tánh của tất cả pháp đều là Phật tánh, vì Phật tánh bất nhị.

Hỏi : Tham thoại đầu có phải cứu xét tự tánh không ?

Đáp : Ấy là nghịch với tông chỉ tham Tổ Sư Thiền. Tham thoại đầu không cho cứu xét, chỉ là phát khởi nghi tình, từ nghi đến ngộ.

Hỏi : Hành giả tham thiền gặp người vấn nạn phải làm sao ?

Đáp : Người khác muốn nói gì, muốn cho là cái gì cũng được, mình chỉ ôm chặt câu thoại đầu tham tới mãi, dùng câu thoại đầu sở tham để trả lời. Ví như sư đệ của ngài Lai Quả , thừa lệnh thầy mời ngài trở về chùa, ngài chỉ trả lời " Niệm Phật là ai ?", khiến sư đệ cũng hết cách, đành phải quay về một mình.

Hỏi : Có người hỏi con :" Tham thiền tại sao không tụng kinh?" , con nên trả lời thế nào ?

Đáp : Kinh Pháp Bảo Đàn nói : Tham thiền là ngày đêm tụng kinh chẳng ngừng, từ kiếp này qua kiếp khác cũng chẳng ngừng, sao nói là không tụng ? Chẳng những tụng kinh, tất cả pháp thế gian đều thực hành đầy đủ. Đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình , bất kể Bồ tát lục độ vạn hạnh, giới định huệ, ba mươi bảy phẩm trợ đạo. cho đến công thương kỹ nghệ nơi thế gian đều đầy đủ chẳng thiếu xót. Có thiếu xót tức Phật tánh không cùng khắp.

Cho nên, chư Tổ đối với pháp thế gian và pháp xuất thế gian chẳng hai chẳng khác, vì tất cả đều gồm trong nghi tình rồi.

Hỏi : Kinh Phạm Võng nói phải phát thệ nguyện, nếu không thì phạm giới. Chúng con nay tham Tổ Sư Thiền, đối với những thệ nguyện đã phát trước kia, phải làm sao ?

Đáp : Đó không phải là chơn lý nhất định, chư Phật tùy theo căn cơ trình độ của chúng sanh mà sử dụng phương tiện, tất cả chỉ là phá chấp, chẳng thể chấp vào một bên, hễ chấp một bên là lọt vào biên kiến. Kinh Bát Nhã nói đến ba cửa giải thoát : Không, vô tướng, vô nguyện, Khi chưa thành Phật, chư Phật đều có phát nguyện, nhưng nếu chấp nguyện không bỏ thì chẳng thể giải thoát.

Cho nên, hễ chấp "không phát nguyện" thì dùng "phát nguyện" để phá chấp, chấp "lễ Phật" tức dùng "không lễ Phật" để phá, chấp "không lễ Phật" thì thành kính lễ Phật để phá cái chấp đó. đâu phải là nhất định ! Nếu là nhất định tức có sở trụ, chẳng phải bản thể tự tánh.

Hỏi : Thấy nghi tình mãnh liệt, muốn ra sức dụng công trong bảy ngày, việc ấy ra sao ?

Đáp : Kinh Pháp Cú nói :" Nếu khởi lên tâm tinh tấn, tức chẳng phải tinh tấn". Tham thoại đầu là muốn chấm dứt tất cả biết, biết tinh tấn đã thành chẳng tinh tấn , là có tâm muốn cầu, còn giữ ngã chấp.

Biết tinh tấn, biết lui sụt, biết thanh tịnh, biết vọng tưởng , biết mình có cái năng biết v.v. cũng còn không được, đang dụng công phu mà biết này biết kia, là nghịch với công phu của mình. Nay muốn hiện ra tướng mạnh, thì tất cả tướng bệnh, năng sở đối đãi đều phải chấm dứt, nên mới dùng tâm không biết để chấm dứt tất cả biết. Chỉ cần giữ được nghi tình, sẽ đến chỗ "biết và chẳng biết đều chấm dứt".

Hỏi : Lời giải đáp thắc mắc của Sư phụ đã khiến chúng con tăng trưởng lòng tin tự tâm, . Vậy sau khi Sư phụ đi vắng, xin phép cho chúng con ghi nhận lại tất cả lời vấn đáp của Sư phụ từ trước đến nay, thành một cuốn pháp ngữ để tham khảo ? Được không ?

Đáp : Được, nhưng không phải là pháp ngữ, là ngữ lục ( Duy Lực Ngữ Lục ). Sau này các Phật tử nếu có thắc mắc, có thể gom lại các câu hỏi, gửi thư cho tôi, tôi sẽ trả lời.

Hỏi : Chúng con rất sợ vọng tưởng mà không sợ không được ! Vừa ngồi xuống tham thiền, nghi tình chưa khởi là vọng tưởng đã ập tới, làm phiền muộn suốt đời chúng con, vậy phải làm sao ?

Đáp : Bài kệ trong Kinh Hoa Nghiêm nói "nhất thiết duy tâm tạo". Tâm tạo vốn chẳng thật, vọng tưởng cũng do tâm tạo, tại sao lại phải sợ những việc chẳng phải thật ? Lại, tham thiền là dùng cái tâm không biết để chấm dứt tất cả biết, tại sao lại muốn biết vọng tưởng ? Nếu thật sự giữ được tâm không biết, vọng tưởng không biết là vọng tưởng, đâu có gì đáng sợ ?

Ấy là do đánh mất nghi tình, nên có sở sợ. Bây giờ phải khiến câu thoại đầu miên mật không kẽ hở, giữa câu thứ nhất và câu thứ nhì, câu thứ ba. vừa hỏi dứt là hỏi tiếp, không cho có kẽ hở, hễ có kẽ hở là có tâm suy nghĩ.

Hỏi : Cứ tham thoại đầu suốt ngày đêm, có bận rộn không ?

Đáp : Việc bận rộn của thế gian là có tâm biết, mới thành bận rộn, còn pháp xuất thế gian này dùng tâm không biết, đã không biết thì làm sao biết bận rộn ? Hễ có biết là nghịch với ý chỉ Tổ Sư Thiền.Việc thế gian do có tâm biết, làm mãi phải mỏi mệt; còn không biết là không thấy bận rộn, không thấy mệt mỏi, cho nên nói thuốc thoại đầu là rất hay.

Hỏi : Tại sao câu trả lời của các vị Thiền sư thường chẳng có ý nghĩa ?

Đáp : Các vị Thiền sư thường hỏi Nam trả lời Bắc, là muốn chấm dứt sự tìm hiểu của người hỏi, muốn bặt tri kiến của người hỏi, nên trả lời không nghĩa lý. Do người hỏi thường mắc phải lý chướng, nên có đúng lý hay không đúng lý, ấy là nhị, Phật tánh bất nhị, chẳng đối đãi, nên chẳng có hợp lý hay không hợp lý.

Ví như Bát Nhã Tâm Kinh nói "Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, . vô trí diệc vô đắc", là dùng chữ VÔ để chấm dứt tri kiến của người thế gian, tức phá lục căn, cho đến những tri kiến xuất thế gian như A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ tát . Tất cả tri kiến đều dứt sạch mới được gọi là tri kiến Phật.

Như ngài Tăng Triệu nói "Bát Nhã vô tri", luôn cả vô tri cũng tan rã, tri với vô tri đều hết, tức tác dụng của bộ não chấm dứt, bệnh mù hết rồi, cái biết của Chơn như Phật tánh mới hiện ra, khắp không gian thời gian.

Hỏi : Tại sao Pháp sư Nguyệt Khê nói tác giả của Đại Thừa Khởi Tín Luận chẳng phải là ngài Mã Minh ?

Đáp : Ngài Mã Minh là Tổ thứ 12 phái Thiền tông Ấn Độ, là vị Tổ đã kiến tánh triệt để, được người đời lập ra để làm tiêu biểu, cái biết của bản thể tự nhiên đúng như thật tế. Thật tế bất nhị, đâu có sai biệt ? Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận nói "Chơn như duyên khởi", Chơn như tức Phật tánh, duyên khởi là vô minh, vì có sanh diệt, là nhị. Nếu người đã kiến tánh mà nói như thế tức chưa kiến tánh, nên Pháp sư Nguyệt Khê nói đây là tác phẩm của ngoại đạo, còn ngã chấp, mới có cái thuyết "Chơn như duyên khởi", rồi gắn tên của Tổ Mã Minh.

Hỏi : Vậy tại sao trong Triệu Luận, ngài Tăng Triệu lại dẫn chứng Đại Thừa Khởi Tín Luận ?

Đáp : Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận có cái không đúng, ví như nói "Chơn như duyên khởi", nhưng cũng có phần lấy lời Phật thì đúng.

Hỏi : Có phải thực hiện được vô ngã là ngộ đạo ?

Đáp : Không phải. Ngã với vô ngã là nhị, nếu còn biết vô ngã tức thừa nhận có ngã, do diệt cái ngã rồi nói vô ngã. Cho nên, vô ngã chưa phải thành Phật. Như A La Hán, đã diệt được nhơn ngã chấp, nhưng chưa phải thành Phật, chỉ là ở giữa đường.

Hỏi : Xin Sư phụ khai thị một phương tiện thẳng tắt, để có niềm tin tuyệt đối tiếp tục tu tập khi Sư phụ đi vắng?

Đáp : Nói có đi có đến là không tin tự tâm. Tại sao ? Vì tự tâm cùng khắp không gian thì làm sao có đi có đến ? Cho nên, đi và không đi là nhị, còn tự tâm cùng khắp là bất nhị. Về thời gian thì chẳng có sanh diệt, hễ có tâm sanh khởi rồi quên là diệt, là không cùng khắp , vậy câu hỏi của ông là do chấp tâm để hỏi, là sai, nếu tôi trả lời theo cũng vậy.

Chỉ sợ chính mình không tin tự tâm, chớ có sợ tôi đi hay không đi. Cũng như Lục Tổ lúc gần tịch, nói với môn đồ rằng :" Nếu không quyết tử tu hành, dù suốt ngày ở trước mặt cũng là vô ích. Nếu là chơn tu, dù xa tôi ngàn dặm, cũng như ở trước mặt vậy".

Được tu đến kiến tánh hay không, là do tự mình quyết định, chẳng phải do người khác. Cho nên, tín ngưỡng của Phật giáo khác hơn tất cả tôn giáo, là phải tin tự tâm chứ chẳng phải ỷ lại người khác. Còn tôi đi hay ở, việc đó không quan trọng.


Mục Lục | Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4 | Phần 5 | Phần 6

 


Vào mạng: 1-1-2002

Trở về thư mục "Thiền Phật giáo"

Đầu trang