...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Kinh Như Lai Viên Giác
Trực chỉ đề cương
Pháp Sư Thích Từ Thông
- CHƯƠNG BỐN
- CHƯA RA KHỎI LUÂN HỒI LUẬN BÀN
VIÊN GIÁC TÁNH THÌ TÁNH VIÊN GIÁC
TRỞ THÀNH ĐỒNG TÁNH LUÂN HỒI
- Bấy giờ, Bồ tát Kim Cang Tạng đảnh lễ Phật và chấp tay thưa:
Bạch Thế Tôn ! Như Lai Thế Tôn vì Đại chúng tuyên dạy
về NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM và PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI KHI TU NHƠN
ĐỊA cùng phương tiện TIỆM TIẾN, khiến cho thính chúng trong pháp hội
này bệnh mù lòa được sáng tỏ con mắt tuệ tăng trưởng hào
quang.
Bạch Thế Tôn ! Nếu như chúng sanh xưa nay đã là Phật
thì cớ gì lại có tất cả vô minh? Còn như chúng sanh xưa nay vốn
có vô minh, vậy do nhơn duyên gì Như Lai lại nói chúng sanh xưa nay là
Phật ? Nếu tất cả chúng sanh vốn đã thành Phật, sau đó lại sanh
khởi vô minh, vậy tất cả chư Phật chừng nào sanh khởi vô minh
trở lại. Cúi mong Như Lai thương xót mở kho tàng bí mật, khiến cho
Bồ tát và chúng sanh đời sau được nghe pháp môn liễu nghĩa Đại
thừa kinh điển ngõ hầu trừ sạch các mối nghi.
Phật dạy: Kim Cang Tạng ! Ông hỏi Như Lai về những
giáo nghĩa bí mật thậm thâm liễu nghĩa Đại thừa để cởi mở
những gút nghi ngờ cho chúng sanh hậu thế.
Này, Kim Cang Tạng ! Trong thế giới tất cả những sự
kiện: bắt đầu, kết cuộc, phía trước, mặt sau, sanh ra, chết mất,
chỗ có vật, chỗ trống không, tụ hợp, tan rã, dấy động, ngưng
bặc, niệm niệm tương tục, xoay vần, qua lại, khen chê, lấy, bỏ
đều là hiện tượng lưu chuyển luân hồi. Nếu CHƯA RA KHỎI LUÂN
HỒI, LUẬN BÀN VIÊN GIÁC TÁNH THÌ TÁNH VIÊN GIÁC TRỞ THÀNH ĐỒNG
TÁNH LUÂN HỒI. Ví như mắt giật thấy mặt nước đứng lặng rung
rinh, mắt sững thấy đốm lửa quay thành cái vòng tròn liên tục,
mây bay thấy trăng xê dịch, thuyền đi thấy bờ chạy. Vì vậy, muốn
ra khỏi luân hồi là không thể có.
Kim Cang Tạng ! Mắt giật, mắt sửng, mây bay, thuyền đi
chưa ổn định được, dù có muốn cho mặt nước đừng rung rinh,
vòng tròn của đốm lửa hết trăng ngừng xê dịch, bờ không chạy
ngược hãy còn không được, huống chi cái tâm luân hồi sanh tử
cấu nhiễm chưa từng thanh tịnh mà nhìn VIÊN GIÁC THANH TỊNH không
trở thành lưu chuyển được sao? Vì thế, mà các ông nêu ba câu
nạn vấn hoàn toàn phát xuất từ ý tưởng mê lầm !
- Kim Cang Tạng ! Ví như mắt lòa vọng thấy hoa đốm. Lòa hết, không
nên hỏi rằng lòa đã hết, chừng nào bóng lòa sanh trở lại. Vì
sao ? Vì lòa và hoa đốm vốn không có, nó không phải là hai thứ
có thực chất đối đãi nhau. Cũng như hoa đốm, diệt trong hư vô,
không được hỏi rằng hư vô chừng nào sanh hoa đốm nữa. Vì sao?
Vì hư vô vốn không có hoa. Cho nên không có vấn đề khởi sanh hay
diệt mất. Sanh tử và niết bàn cũng không có khởi sanh hay khởi
diệt. Viên giác Diệu Tâm màu nhiệm không như hoa đốm và bóng
lòa.
Kim Cang Tạng ! Nên biết : hư vô không có lúc
tạm có, cũng không có lúc tạm không, huống chi là NHƯ LAI VIÊN
GIÁC DIỆU TÂM há lại theo sanh tử hay theo Niết bàn mà có sanh, có
diệt! VIÊN GIÁC DIỆU TÂM bất động và bình đẳng, cũng như tánh
hư vô vốn vĩnh cữu bất động và bình đẳng.
- Nầy, Kim Cang Tạng ! Ví như nấu lọc quặng vàng. Vàng không phải do
nấu có. Nhưng khi nấu lọc đã thành vàng, vàng không thành quặng
trở lại, dù trải số kiếp bao lâu, tánh vàng cũng không hoại. NHƯ
LAI VIÊN GIÁC cũng vậy, không nên nói: rằng xưa kia không sẵn có.
Trong NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM không có cái tên Bồ đề, Niết
bàn, cũng không có vấn đề thành Phật hay không thành Phật, không
có luân hồi hay chẳng luân hồi. Chỉ vì hàng Thanh Văn, không thể
tiếp thu, không thân chứng được, họ chỉ ngăn giúp được phần
vô minh thô trọng ở thanh tâm, ngôn ngữ mà hiện ra cảnh giới an
tịnh gọi là Niết bàn. Nếu dùng tâm tư duy nhận xét suy lường
cảnh giới VIÊN GIÁC NHƯ LAI, chẳng khác nào lấy lửa đom đóm mong
đốt núi Tu Di sẽ chẳng có tác dụng gì! Đem cái tâm luân hồi,
sử dụng cái thấy biết luân hồi mong vào biển đại tịch diệt NHƯ
LAI VIÊN GIÁC, hoàn toàn không có kết quả. Vì vậy, Như Lai dạy:
tất cả Bồ tát và chúng sanh đời sau trước hết phải đoạn tận
gốc rễ luân hồi vô thỉ.
- Nầy, Kim Cang Tạng ! Có khởi niệm tư duy là có khởi tâm. Đó chỉ
là bóng dáng của lục trần, không phải tâm thể chân thật. Nó
huyễn giả giống như hoa đốm! Dùng tâm tư duy ấy luận bàn về cảnh
giới VIÊN GIÁC PHẬT, chỉ là thứ vọng tưởng loanh quoanh, không sao
thấu đáo được, chẳng khác gì hoa đốm trong hư vô, lại mong chờ
kết trái, là chuyện ảo tưởng hoang đường ! Tâm hư vọng thô phù
quá nhiều lệch lạc xa vời chân lý thì làm sao hiểu được cảnh
giới VIÊN GIÁC đích thực rõ ràng. Cho nên những câu nạn vấn
của các ông yêu cầu Như Lai giải đáp không phải là lời nạn
vấn có giá trị đứng đắn sâu xa.
Bấy giờ, đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng
một bài kệ:
- Kim Cang Tạng nên biết.
- Tánh tịch diệt Như Lai.
- Chưa từng có thỉ chung.
- Nếu lấy tâm luân hồi.
- Tư duy Viên Giác Phật.
- Chỉ quanh quẩn luân hồi.
- Không thể vào biển Giác.
- Ví như nấu quặng vàng.
- Vàng không do nấu có.
- Dù xưa nay là vàng.
- Nhưng phải nhờ nấu lọc.
- Gạn hết quặng khoáng ra
- Vàng không thành quặng nữa.
- Sanh tử với Niết bàn.
- Phàm phu và chư Phật.
- Tướng hoa đốm hư vô.
- Tư duy đã là vọng.
- Huống nạn hỏi loanh quoanh.
- Quán triệt thâm lý này.
- Nhiên hậu cầu Viên Giác.
TRỰC CHỈ
- Ba câu hỏi của Bồ Tát Kim Cang Tạng mới nghe qua tưởng chừng như
khó mà trả lời cho rốt ráo. Dường như bao nhiêu chân lý đã gom
vào đó cả rồi. Thực lý mà nói, đó vẫn là chân lý. Nhưng
chân lý đó là thứ chân lý của người chỉ biết hiện tượng
vạn pháp bên mặt duyên sanh tương đối, chỉ biết nước qua sóng
mòi lăng tăng ào ạt lô nhô mà chưa biết cái phẳng lặng như
gương của nước, chỉ biết vàng qua bông tai, cà rá, kiền cổ, vòng
tai mà chưa biết cái giá trị vĩnh cữu bất biến của vàng. Nói
cách khác, sư hiểu biết như vậy là biết một mà chẳng biết hai. Vì
vậy mà Như Lai quở: "ba câu nạn vấn của Bồ Tát Kim Cang Tạng
phát xuất từ ý tưởng mê lầm".
Phật
dạy:"chưa ra khỏi luân hồi mà luận bàn Viên Giác Tánh thì
Tánh Viên Giác trở thành đồng tánh luân hồi".
Lời dạy đó của đức Phật, thâm sâu và bao quát,
nói lên nỗi lòng chua xót, khó khăn lo âu da diết trong sự nghiệp
giáo hoá chuyển mê khai ngộ.
Nói cho người bệnh mắt giật hiểu rằng mặt nước
vốn không có rung rinh. Giải thích cho người mù lòa biết cái quầng
tròn năm màu quanh ngọn đèn không thật có. Sự thật rõ ràng như
thế, nhưng đối với hạng người ấy khó mà nói cho họ nghe, khi
bệnh căn của họ chưa hết.
Trước, sau, sanh, diệt, bắt đầu, chung cuộc, tụ họp,
chia ly, có, không, yêu, ghét
đều là hiện tượng biểu hiện
của sự luân hồi. Tất cả chúng sanh sống quay cuồng trong hiện
tượng duyên sanh huyễn hóa, chỉ cho chúng sanh nhận biết thế nào là
huyễn hóa, thế nào là duyên sanh là việc rất khó khăn.
- Như Lai Viên Giác tự tánh là tánh thanh tịnh bản nhiên của sự
vật vô tình. NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM là tánh thanh tịnh bản
nhiên của chúng sanh hữu tình. Tánh thanh tịnh bản nhiên của Như Lai
Viên Giác không có lúc tạm có cũng không có lúc tạm không, cho
nên Như Lai nói: CHÚNG SANH XƯA NAY LÀ PHẬT.
Vô minh
không có tự tánh, ví như hoa đốm trong hư không. Hoa đốm chỉ có
với người bị bệnh mắt lòa. Mắt hết bệnh lòa thì hoa đốm thì hoa
đốm không có lý do để mà sanh khởi. "Thật tánh của vô minh
là Phật tánh". Vì vậy Như Lai vẫn có lý do để nói: CHÚNG SANH
XƯA NAY LÀ PHẬT"
- Cảnh chiêm bao không hiện trở lại khi người đã thức. Hoa đốm
không sanh khởi trước người đôi mắt sáng suốt sạch trong.
Vàng không thành quặng trở lại khi đã nấu lọc tinh
thuần. Như Lai là Đại Giác, cho nên không bao giờ chư Phật sanh
khởi vô minh trở lại.
Thành tựu : Như Lai Viên Giác Diệu Tâm, tức là về
đến Bồ đề tự tánh, Niết bàn diệu tâm đến nguyên quán của
mình mà mình xa rời lưu lạc từ bấy lâu nay. Do vậy, Như Lai nói:
Trong cảnh giới Như Lai Viên Giác Diệu Tâm không có thành Phật hay
không thành Phật. Không có luân hồi hay không luân hồi. Không có
cái từ Bồ đề Niết bàn để khiến cho ai ham mộ
- Thể nhập cảnh giới Viên Giác không thể dùng tâm phân biệt tạp
tưởng để suy lường. Vọng tâm, tạm tưởng suy lường cảnh giới
Viên Giác thanh tịnh cũng như lấy lửa đóm đóm đem đốt núi Tu di
dù có nhọc công nhưng không đem lại kết quả gì.
Tựa
| Cáo bạch và phàm lệ | 1 | 2
| 3 | 4 | 5
| 6 | 7 | 8
| 9 | 10 | 11
| 12
|
|