Bấy giờ Bồ tát Di lặc đảnh lễ
Phật và chấp tay thưa:
Đấng đại bi Thế Tôn đã mở kho tàng bí mật, khiến
đại chúng có được đạo nhãn, thâm ngộ luân hồi, phân biệt tà
chánh, đối với đại Niết bàn có lòng chánh tín kiên cố, không
thể rơi vào ảo tưởng với kiến chấp sai lầm.
Bạch Thế Tôn ! Bồ tát và chúng sanh đời sau muốn
dạo chơi trong biển đại tịch diệt của Như lai phải đoạn căn bản
luân hồi bằng cách nào? Luân hồi có bao nhiêu chủng tánh? Đường
Bồ đề Phật tu tiến có những sai khác thế nào? Khi vào trần lao
cần có những phương tiện chi trong sự nghiệp giáo hoá độ chúng
sanh? Cúi mong Như Lai mở rộng lòng bi chỉ dạy cho các Bồ tát và
chúng sanh có được tuệ nhãn sáng trong, gương lòng tỏ rạng hầu
tiếp thu tri kiến Như Lai Vô thượng !
Phật dạy: Di lặc! Những lời ông hỏi rất có ý
nghĩa, sẽ đem lại lợi ích cho Bồ tát và chúng sanh.
Nầy, Di Lặc! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ,
vì ân ái tham dục mà tác tạo ra nguyên nhân và hậu quả của sự
luân hồi. Trong thế giới có các loại chúng sanh như: sanh do thai, do
trứng, do ẩm ướt, do biến hóa đều do dâm dục mà hình thành tánh
mạng. Vì vậy, cho nên biết rằng nguồn gốc của luân hồi chính là
sự ái ân. Dục hỗ trợ cho ái, ái làm tăng trưởng dục thành ra
chuỗi dài nhân quả, quả nhân cho sự luân hồi tương tục. Thế cho
nên, chúng sanh ái mạng cũng tức là ái dục. Aùi dục là ái nhơn,
mà ái mạng là ái quả. Cảnh dục sanh khởi, có cảnh bằng lòng
có cảnh trái ý, mà dấy niệm ghét yêu, tạo ra các thứ nghiệp
ác. Do vậy, mà có đường ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục. Nhận
biết dục là nguyên nhân của khổ đau, sanh làng nhàm chán, bỏ ác
làm lành thì được thiện quả ở cõi nhơn thiên. Đến như hạng
người nhàm chán ái dục, chuyện tu định xả và đam mê nơi đó thì
cũng chỉ là tăng trưởng một phần thiện quả, vẫn chưa ra khỏi
luân hồi, không thể thành thánh đạo. Vì thế, chúng sanh muốn thoát
ly sanh tử ra khỏi luân hồi, phải trừ sạch khát ái. Các Bồ tát
thị hiện sanh ở nhơn gian, không phải do gốc ái mà do lòng từ, vì
muốn dạy cho chúng sanh xa lìa tham dục ái ân mà có mặt trong
đường sanh tử. Chúng sanh đời sau xả hết các thứ dục, trừ bỏ
ghét yêu thì mới bứng sạch gốc rễ luân hồi. Bấy giờ siêng
năng cầu học tu tập cảnh giới NHƯ LAI VIÊN GIÁC thì tâm được
sạch trong bèn được mở mang tỏ ngộ.
Nầy, Di Lặc ! Tất cả chúng sanh do gốc tham dục mà
phát huy vô minh, từ đó sanh ra năm hạng chủng tánh khác nhau căn
cứ trên hai thứ chướng mà phước báo và tội báo khác nhau. Hai
chướng là lý chướng và sự chướng. Lý chướng, chướng ngại
trí hiểu biết nhận thức đúng chân lý. Sự chướng, do những
hành vi bất thiện cho nên nối dài đường sanh tử thêm ra.
Hai chướng chưa đoạn trừ thì gọi đó là chủng
tánh phàm phu hạng NGƯỜI CHƯA THÀNH PHẬT.
Nếu đoạn hết tham dục, dứt trừ sự chướng, lý
chướng chưa đoạn thì ngộ nhập cảnh giới Thanh Văn, Duyên Giác
gọi đó là chủng tánh NHỊ THỪA.
Có chí lớn muốn dạo chơi trong biển Đại Viên Giác
Như Lai, phát nguyện dũng mảnh đoạn trừ hai chướng. Hai chướng
tiềm phục thì sự nhận thức chân lý rộng sâu, chứng nhập Bồ
tát cảnh giới, gọi là hạng người chủng tánh ĐẠI THỪA.
Sự chướng và lý chướng đã đoạn trừ trọn vẹn
thì thể nhập NHƯ LAI VIÊN GIÁC cảnh giới vi diệu, tròn đủ Bồ đề
và Đại Niết bàn.
Nầy, Di Lặc ! Tất cả chúng sanh ai cũng có khả năng
chứng nhập Như Lai Viên Giác vi diệu. Tuy nhiên, trên đường tu hành
người thiện tri thức cũng là một trợ duyên có tánh quyết định.
Trở thành ngoại đạo, Nhị thừa hay Đại thừa đều ảnh hưởng và
tuỳ thuộc cái đạo lý và pháp tu hành của người thiện tri thức
hướng dẫn, giáo hóa lúc mới phát tâm. Do vậy, pháp tu hành chia
ra có "Đốm" có "Tiệm". Nếu đủ duyên lành gặp
được giáo lý Như Lai Vô Thượng dẫn dắt đi con đường chánh thì
không luận căn cơ đều có thể thành tựu Phật quả. Nếu chẳng may,
trong lúc mới phát tâm tu hành gặp nhằm người tà kiến hướng
dẫn vào đạo, bày vẻ pháp tu sai lạc chánh nhơn, mịt mờ chân lý.
Hạng người như thế, gọi là chủng tánh ngọai đạo.
Dù bị sư ngoại đạo hướng dẫn tu hành lầm lạc,
lỗi đó không phải ở chúng sanh, mà tại vì lúc phát tâm không
vận dụng trí tuệ, đắn đo cân nhắc, vì vậy, mà có năm chủng
tánh khác nhau cùng hướng về một mục đích: Vô Thượng Bồ đề.
Khác với hạng người trong năm chủng tánh kia, Bồ
tát vận dụng đại bi phương tiện thị hiện các thứ hình tướng
hoặc từ hoặc uy, lẫn lộn trong thế gian đồng sự với chúng sanh
để khai ngộ. Giáo hóa khiến cho thành tựu Phật đạo. Việc làm
đó của Bồ tát phát xuất từ nguyện lực thanh tịnh vô thỉ nhằm
độ thoát chúng sanh. Chúng sanh đời sau đối với Như Lai Viên Giác
nên khởi tâm tăng thượng, phát đại nguyện rằng: tôi nguyên trụ
trong Như Lai Viên Giác gần gũi thiện tri thức, tránh xa ngoại đạo
và Nhị Thừa. Nguyện đoạn trừ các chướng lần lần tiến lên
pháp điện thanh tịnh đại Viên Giác trang nghiêm.
Bấy giời đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng
một bài kệ:
- Di Lặc ông nên biết.
- Tất cả các chúng sanh.
- Không được đại giải thoát.
- Đều do lòng tham dục.
- Mà rớt trong sanh tử.
- Nếu dứt hết ghét yêu.
- Và tham, sân, si, mạn.
- Không luận chủng tánh nào.
- Đều được thành Phật đạo.
- Hai chướng dứt hết rồi.
- Cầu thầy được chứng ngộ.
- Tuỳ thuận Bồ tát nguyện.
- An trú Đại Niết bàn.
- Mười phương chư Bồ tát.
- Đều dùng nguyện đại bi.
- Thị hiện vào sanh tử.
- Người tu hành hiện tại.
- Và Chúng sanh đời sau.
- Siêng năng trừ ái kiến.
- Đại Viên Giác được về.
TRỰC CHỈ
Luân hồi là một chân lý phổ biến. Giáo lý luân
hồi không phải dành riêng cho những người có đức tin Phật. Hiện
tượng vạn hữu đều ở trong quy luật tuần hoàn luân hồi. Nói theo
thuật ngữ của Phật giáo, vô tình chúng sanh, hữu tình chúng sanh
đều chịu sự chi phối của quy luật luân hồi.
Xuân, hạ, thu, đông, sanh, trụ, dị, diệt, thành, trụ,
hoại, không là biểu hiện sự luân hổi của vạn vật vô tình, sanh,
già, bệnh, chết là biểu hiện luân hồi của chúng sanh hữu tình, cho
nên đúng chân lý thì luân hồi không phải là sự kiện đáng lo
sợ. Vì đó là quy luật là chân lý.
Sự luân hồi mà Bồ tát Di Lặc yêu cầu Phật khai
thị ở đây là thứ luân hồi trong sáu nẻo trực tiếp chĩu sự chi
phối khổ não ưu bi của các cõi trời, người, a tu la, quỷ, súc sanh
và địa ngục.
Tạo nghiệp luân hồi có tương quan với chủng tánh.
Mỗi chủng tánh là mỗi căn cơ sai khác. Chủng tánh phàm phu thường
tạo nghiệp nhơn luân hồi trong thế giới lục phàm. Chủn tánh Nhị
thừa và chủng tánh Đại thừa chỉ tạo nhân luân hồi trong cảnh
giới Tứ thánh mà thôi.
Aùi ân và tham dục là nguyên nhân của luân hồi sanh
tử ưu bi khổ não. Aùi ân nuôi lớn tham dục, tham dục làm tăng
trưởng ái ân kết thành chuỗi dài nhân quả tương tục.
Sanh mạng do dục mà có. Dục là nhân của sanh mạng,
sanh mạng là quả của dục. Vì vậy, ái mạng tức là ái dục, chẳng
qua ái mạng là ái quả, còn ái dục là ái nhân.
Cảnh ái dục có bằng lòng và trái ý, từ đó sanh
khởi ý niệm ghét thương thân sơ thủ xả tạo ra nhiều nghiệp ác.
Do vây có ra các đường ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục.
Biết tai hại của ái dục phát tâm tu các thiện
nghiệp thì được quả báo cõi nhơn thiên. Đến như hạng người
nhàm chán ái dục tu thiền định "xả", một thứ định cao
nhất trong tứ thiền, nhưng nếu lệch đi một niệm khởi ý đam mê
sự "thanh tịnh" thì vẫn chưa ra khỏi luân hồi. Bởi vì
"đam mê" là một hình thức ái dù là "ái" thanh
tịnh, "ái" Bồ đề, Niết bàn.
Thế cho nên, tất cả chúng sanh muốn ra khỏi luân hồi
sanh tử ưu bi cần phải đoạn trừ gốc ái.
Bồ tát, Phật "tùy nguyện" thọ sanh hiện vào
các quốc độ trong mười phương để hóa độ chúng sanh. Sự thọ
sanh của các Ngài không có bị khổ não ưu bi chi phối. Cho nên sự
thọ sanh đó, thừơng được kín trọng xưng gọi bằng cái từ
"thị hiện". Thực lý, thì đó cũng là một hình thức luân
hồi của những bậc đại giác, luân hồi trong tỉnh thức không bị chi
phối bởi lực hấp dẫn của vô minh.
Do lẽ đó, nên biết rằng: Bồ tát, thành Phật không
phải là thành "cái không có gì hết" "cái rỗng
không" ở một cõi "trống trơn" vắng lặng
A La Hớn là con người. Thành A La Hớn từ con
người. Duyên Giác, Bồ tát cho đến Vô thượng Bồ đề Phật vẫn
là con người và các quả vị đó thành tựu từ con người.
Tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật. Cho
nên gọi là "chủng tánh" thực lý không có chủng tánh nào
cố định. Dù không cố định, nhưng có thể có ra năm thứ chủng
tánh khác nhau. Yếu tố để ước định phân chia thành chủng tánh
là SỰ CHƯỚNG và LÝ CHƯỚNG.
Sự chướng cũng gọi PHIỀN NÃO CHƯỚNG. Thứ
chướng nầy thường qua lại trong sáu căn, biểu hiện thông qua ba
nghiệp: thân, miệng và ý của con người. Sát, đạo, dâm: vọng
ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiện, ác khẩu; tham, sân, si là những biểu
hiện cụ thể là căn bản của sự chướng. Do vậy, sự chướng
nối dài đường sanh tử luân hồi ưu bi khổ não thêm ra.
Lý chướng còn gọi SỞ TRI CHƯỚNG. Thứ chướng
nầy cản trở sự hiểu biết trong sáng sự nhận thúc đúng chân
lý, khiến cho con ngừơi mê mờ chân lý không phân chánh tà,
thiện ác, triền phược, giải thoát. Do vậy, đóng bít cửa Niết
bàn, cắt đứt đường Bồ đề Phật.
Đối với sự chướng, lý chướng còn chưa có ý
thức đoạn trừ, hạng người như thế gọi là CHỦNG TÁNH PHÀM PHU.
Dứt trừ sự chướng, chưa đoạn lý chướng, hạng
người như thế gọi là CHỦNG TÁNH NHỊ THỪA.
Có chí lớn muốn dạo chơi trong biển đại tịch diệt
Như Lai Viên Giác, dũng mãnh đoạn trừ hai chướng. Khi hai chướng
tiềm phục, trí tuệ rộng sâu trong tiến trình nhận thức chân
lý
Thể nhập Bồ tát cảnh giới có sức tự tại đối với
vạn pháp. Như thế gọi là hạng người CHỦNG TÁNH ĐẠI THỪA.
Trên đường tu, người thiện tri thức có ảnh
hưởng đến cuộc đời mình. Trong lúc mới phát tâm chẳng may gặp
phải người tà kiến khuyến hóa tu hành, sai lạc chánh nhơn thành
Phật, van thần, khấn quỷ, trì tà chú luyện âm binh. Ngừơi như thế
lạc vào CHỦNG TÁNH NGOẠI ĐẠO.
Nếu gặp duyên lành trở về đường chánh đạo
được thiện tri thức dạy chánh pháp tu học chánh nhơn người nầy
có thể phát huy thiện nghiệp tiến lên hoặc cũng có thể tiến xa
hơn nữa, cho nên gọi hạng người ở vào trường hợp như thế là
CHỦNG TÁNH BẤT ĐỊNH.
Tất cả chúng sanh đều có khả năng tu hành để
thành tựu đến quả vị Phật. Dù bị tà sư ngoại đạo dẫn dắt sai
lạc chánh pháp, nhưng lỗi đó cũng không quy trách cho tà sư, cũng
không phải vô cớ mà người nầy đi vào con đường sai lạc ấy.
Điều đó phải hiểu rằng nó có tương quan mật thiết trong quá trình
gieo trồng hạt giống Bồ đề của mọi người có cạn có sâu. Vì
vậy mà có năm chủng tánh sai khác.
Cùng một sự kiện phát tâm, người trí phải chín
chắn suy nghĩ về hành động của mình va mục đích của sự phát tâm
đó. Phát tâm TÀ, CHÁNH, CHƠN, NGỤY, ĐẠI, TIỂU, THIÊN, VIÊN kết
quả khác nhau như đen với trắng.
Người đệ tử Phật muốn rong chơi trong biển đại
tịch diệt Như Lai Viên Giác chỉ có thể phát tâm CHÁNH, CHƠN, ĐẠI
và VIÊN. Phát tâm như vậy sẽ không lệch mục tiêu cao đẹp của
người con Phật đang tiến bước trên đừơng Bồ đề, Niết bàn vô
thượng.
Tựa
| Cáo bạch và phàm lệ | 1 | 2
| 3 | 4 | 5
| 6 | 7 | 8
| 9 | 10 | 11
| 12