kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm, kinh Biết Sống trong Hiện Tại, Kinh
Từ Tâm, kinh Phước Đức, kinh Cư sĩ Tại Gia và kinh Thiện
Sanh, đều nhấn mạnh đến các phương pháp thiền chánh niệm và tỉnh
giác, cách nhìn thực tại đúng với bản chất của chúng, để giúp hành
giả tự an trú vào trong sự an lạc và giải thoát cho chính mình. Ở đây
yếu tố cầu nguyện, van xin vốn phản ánh một trạng thái tâm lý ỷ lại,
nương tựa vào tha lực, đã được loại bỏ, và thay vào đó, là tinh thần
giác ngộ của tự bản thân, thông qua bản đồ hướng dẫn của Phật
trong các kinh.
Phần thứ ba là phần sám nguyện và hồi hướng. Phần này
bắt đầu bằng bài kinh ngắn, tóm thâu tinh túy của kinh Đại Bát-nhã của
Phật giáo Đại thừa: Bát-nhã tâm kinh. Mặc dù chỉ có 260 chữ, nhưng bài
kinh này tập trung các pháp tu căn bản của Phật giáo đại thừa, giúp
hành giả diệt trừ tất cả các khổ đau trong cuộc đời bằng phương pháp
quán chiếu năm yếu tố hình thành nên con người là không có một thực
thể hay ngã thể. Từ đó, với trí tuệ duyên khởi, hành giả thấu suốt
mọi sự vật hiện tượng theo một cách thức tương tự. Kế đến là phần
niệm Phật. Đây là phần dành riêng cho những người tu Tịnh độ ở nước
ta. Các mục còn lại trong phần này là đảnh lễ các đức Phật, quán chiếu
các nguyên lý của thực tại, đọc sám nguyện, hồi hướng công đức, phục
nguyện và nương tựa ba ngôi báu.
Nhìn chung nếu nội dung các bài kinh trong nghi thức cầu an
này xoáy vào trọng tâm các phương pháp quán chiếu và thiền định thì phần
vào khóa lễ và hồi hướng có yếu tố của một pháp tu tịnh độ. Nói
khác hơn, nghi thức này tổng hợp hai pháp tu chính trong Phật giáo là thiền
và tịnh độ. Yếu tố Mật tông được xem là yếu tố ngoại nhập về
sau không được giới thiệu trong nghi thức này.
Về phương diện ứng dụng, khóa lễ kinh cầu an
chủ yếu được tụng vào các dịp cầu an bệnh nhân, cầu tai qua nạn khỏi,
cầu gia đạo bình an, cầu quốc thới dân an, cầu mưa hòa gió thuận, hay
tụng vào những dịp khánh hỷ, lễ an vị Phật, lễ khai trương, lễ khởi
công, lễ khánh thành, lễ tân gia, lễ sinh nhật, lễ đáo tuế, lễ cầu
thọ, lễ chúc thọ v.v... Kinh cầu an, ngoài nghi thức dẫn nhập và phần
sám nguyện và hồi hướng, gồm có 11 kinh mang nhiều nội dung khác nhau, nhằm
đáp ứng cho nhiều tình huống hay căn cơ và đối tượng khác nhau. Tùy
theo tính chất của từng khóa lễ mà người thọ trì nên chọn tụng kinh
nào cho thích hợp.
Ví dụ, đối với khóa lễ cầu an gia đạo, cầu
quốc thới dân an, cầu mưa hòa gió thuận vào các buổi sáng, trưa, chiều
hay tối định kỳ thì nên tụng theo thứ tự từ Kinh thứ nhất cho đến
Kinh sau cùng, sau đó tiếp tục tụng lại từ đầu. Nghĩa là cứ mỗi
khóa lễ, ngoài phần dẫn nhập và phần kết thúc, ta tụng một bài Kinh
chính. Trong khóa lễ kế tiếp, ta tụng bài Kinh kế tiếp. Mười một bài
kinh khác nhau có thể được luân phiên tụng niệm cho mười một thời
kinh.
Đối với khóa lễ cầu nguyện thế giới hòa bình, nước
nhà hưng thạnh thì nên tụng một trong bốn Kinh sau đây: Kinh Từ
Tâm, Kinh Phước Đức, Kinh Thiện Sanh hay Kinh Người Cư Sĩ Tại
Gia.
Đối với khóa lễ cầu an cho bệnh nhân ta có thể lần
lượt tụng các Kinh sau đây: Kinh Hạnh Nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm,
Kinh Giáo Hóa Người Bệnh, Kinh Các Pháp Quán Niệm, Kinh Dụ Ngôn Bọt Nước,
Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm, Kinh Biết Sống
trong Hiện Tại hay Kinh Người Cư Sĩ Tại Gia.
Đối với khóa lễ an vị Phật hay lễ khai trương
hay lễ khánh thành thì tụng Kinh Từ Tâm và Kinh Phước Đức.
Đối với khóa lễ cầu an cho cơ quan, xí nghiệp, hội đoàn và chợ thì
nên tụng một trong các Kinh sau đây: Kinh Thiện Sanh, Kinh Từ
Tâm, Kinh Phước Đức hay Kinh Người Cư Sĩ Tại Gia.
III. Tóm tắt nội dung và ý nghĩa
của các kinh trong Nghi thức cầu an
1. Kinh hạnh
nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm
Tên của bài kinh này do chúng tôi đặt lại cho phù hợp với
nội dung và chủ đề chính của Kinh. Tên gọi thông thường của bài kinh
này là Phẩm Phổ Môn, hay kinh Phổ Môn, kinh Quán Thế Âm. Bài kinh này là
phẩm thứ 25 trong kinh Hoa Sen Chánh Pháp (Diệu Pháp Liên Hoa Kinh). Phần văn
xuôi được tuyển chọn từ bản dịch của cố HT Thích Thiện Thanh. Phần
kệ trùng tụng được trích từ bản dịch của thiền sư Nhất Hạnh. Nội
dung của Kinh giới thiệu về hạnh ban bố niềm vui không sợ sệt (vô úy
thí) của bồ-tát Quán Thế Âm, người phát đại nguyện cứu độ tất cả
chúng sanh đang chịu nhiều đau khổ trong đời. Bài kinh mang ý nghĩa ẩn dụ
rất cao, theo phong cách của các kinh điển Đại thừa. Do đó, người đọc
kinh không nên chấp chữ quên ý và đừng tưởng những gì nêu trong kinh
là diễn tả các sự kiện thật. Nói cách khác, yếu tố cầu nguyện van
xin không phải là mục tiêu chính của kinh. Phương pháp tu tập quán chiếu
(Quán) cuộc đời (Thế) mới là chính yếu. Nhờ quán chiếu cuộc đời
theo phương thức duyên khởi và vô ngã, hành giả tự độ thoát chính
mình khỏi các đau khổ đang hoành hành.
Ngoài ra, kinh này còn nói lên tình thương bao la của một vị
bồ-tát qua phương pháp độ sanh với 32 ứng thân khác nhau, phù hợp với
căn cơ và đối tượng của người tu tập. Hình ảnh 32 ứng thân gợi
chúng ta tinh thần nhập thế đa dạng của bồ-tát vì sự nghiệp duy nhất
là đem lại an lạc và hạnh phúc cho chúng sanh. Triết lý ứng thân này
còn cho thấy muốn độ sanh có hiệu quả, người hành đạo phải hiểu rõ
tâm lý và hành vi của đối tượng. Hiểu biết căn tánh của chúng sanh
là cách tốt nhất để thể hiện tính khế lý và khế cơ trong độ sanh của
một vị bồ-tát nhập thế để cứu độ đời.
Cần nhấn mạnh rằng triết lý độ sanh trong kinh này mang
tính ẩn dụ cao. Ở đây không có một vị bồ-tát Quán Thế Âm thật để
cứu độ chúng ta theo phương thức cầu gì được nấy. Bởi vì điều này
trái với nguyên lý nhân quả và nghiệp báo mà đức Phật đã giảng dạy.
Sự cứu độ của kinh này là pháp tu Quán Thế Âm. Kinh giới thiệu
đến 5 loại âm thanh của cuộc đời, đó là, tiếng Nhiệm Mầu (Diệu
Âm), tiếng Quan Âm (Quán thế âm), tiếng Phạm (Phạm âm), tiếng hải triều
(Hải triều âm) và tiếng siêu việt thế gian (Siêu việt thế gian âm). Đối
lại năm âm thanh này là năm pháp quán chiếu hay thiền định: quán chân thật
(chân quán), quán thanh tịnh (thanh tịnh quán), quán trí tuệ rộng lớn (quảng
đại trí tuệ quán), quán cứu khổ (bi quán) và quán ban tình thương (từ
quán). Chính nhờ nương vào năm pháp quán chiếu này, hành giả tự giải
thoát chính mình ra khỏi mọi khổ ách của cuộc đời.
Quán chân thật là quán bản chất của mọi sự vật hiện
tượng theo nguyên lý duyên khởi, tùy thuộc, vô ngã và vô thường. Nhờ
quán chiếu pháp này, hành giả thoát được các chấp mắc về ngã và
pháp. Quán thanh tịnh nhằm giúp hành giả có cái nhìn lạc quan và tích cực
về thế giới đau khổ này. Nói cách khác bản chất cuộc đời vốn không
có nhơ và sạch. Do chấp mắc, chúng ta cho là nhơ uế. Phương pháp quán đời
thanh tịnh nhằm giúp chúng ta xóa bỏ sự chấp mắc sai lạc trên. Quán
trí tuệ rộng lớn là pháp quán rất cần thiết với mọi người. Ngoại
diên của trí tuệ và vô bờ bến. Do đó, ảnh hưởng của trí tuệ đối
với cuộc sống của chúng ta cũng không có giới hạn. Nói cách khác, với
hành trang của trí tuệ, cuộc hành trình của chúng sanh trong cõi ta-bà sẽ
là cuộc hành trì đầy an lạc và hạnh phúc. Trí tuệ là đầu mối của
sự giải thoát. Quán cứu khổ (bi quán) và quán ban vui (từ quán) là hai
pháp quán thể hiện tình thương bao la, vô ngã và vị tha đối chúng sanh.
Với pháp quán này, hành giả đã từng bước trở thành một vị bồ-tát
cứu độ cho chính mình và cứu độ chúng sanh thoát khỏi đau khổ. Nói
rõ hơn, khi tu tập 5 pháp quán đó mỗi chúng ta là một bồ-tát Quán Thế
Âm cứu chính chúng ta và tha nhân ra khỏi nhà lửa của ba cõi.
2. Kinh
giáo hóa người bệnh
Bài kinh này được Thiền sư Nhất Hạnh dịch từ Tăng Nhất
A Hàm, phẩm Thi Thường, thứ 51, kinh số 8, có tham khảo và phối dịch với
kinh Anathapindilovda (Trung Bộ Kinh thứ 143) và Giáo Hoá Bệnh kinh, kinh thứ
26 của Trung A Hàm.
Bài kinh kể lại cuộc thăm bệnh của tôn giả Xá-lợi-phất
và A-nan-da đối với cư sĩ Cấp Cô Độc. Trước sự đau đớn về thể xác
của Cấp Cô Độc, tôn giả Xá-lợi-phất đã hướng dẫn ông tu pháp
quán tam bảo, để khẳng định niềm tin chân chánh đối với Phật Pháp
và Tăng. Niềm tin này nhằm xác quyết cuộc đời phụng sự tam bảo và cứu
giúp người cơ hàn và cô độc của ông là đúng và có quả báo thiện to
lớn. Kế đến tôn giả Xá-lợi-phất đã dạy ông quán sát: (1) sáu giác
quan, (2) sáu đối tượng của giác quan, (3) sáu thức, (4) sáu yếu tố
hình thành nên thế giới vật chất, (5) năm hợp thể tạo nên con người,
(6) chuỗi thời gian ba đời. Tất cả những thứ này không phải là ta, ta
không bị giới hạn trong chúng. Tất cả nương vào nhân duyên mà hình
thành, phát triển và hoại diệt để tiếp tục hình thành nên cái khác. Bản
chất của các pháp không đến không đi, không sanh không diệt, không có tự
tánh riêng biệt. Đó là pháp quán tính "không" của các pháp. Một
khi hành giả nhận chân được rằng không có một ngã thể bất biến
trong con người và thế giới thì đâu là chủ thể của cảm thọ?
Cấp Cô Độc vừa thực hành và vừa cảm động rơi nước
mắt, vì tính hiệu năng của phương pháp. Khi thực hành pháp quán này, Cấp
Cô Độ cảm thấy an lạc, nhẹ nhàng. Ngay khi hai tôn giả Xá-lợi-phất
và A-nan-đa từ giã ra về thì Cấp Cô Độc qua đời và sanh về cõi trời
thứ 33.
3. Kinh
mười pháp quán niệm
Đây là bản dịch tiếng Việt theo thể văn vần của cố
HT Hộ Tông từ Kinh Tăng Chi bộ, (A.V.108-60; KS. V. 74-77); được tuyển từ Kinh
Nhật Tụng, hệ Nam Tông, trang 107-124. Bản dịch này tương ứng với bản
dịch của HT Thích Minh Châu ở Kinh Tăng Chi III, 401-405.
Kinh này kể lại bệnh tình đau đớn của thầy tỳ-kheo
Gi-ri-ma-nan-đa. Tôn giả A-nan-đa thương xót mới bạch Phật, xin Phật chỉ
bày cách khắc chế các cảm thọ đau khổ của thân xác. Đức Phật đã dạy
10 pháp quán niệm, đó là: (1) quán vô ngã, (2) quán vô thường, (3) quán bất
tịnh, (4) quán bệnh khổ, (5) quán từ bỏ, (6) quán ly tham, (7) quán tịch tịnh,
(8) quán yểm ly, (9) quán các hành, (10) quán hơi thở ra vào. Tôn giả A-nan-đa
đã vâng lời Phật dạy trùng tuyên lại mười pháp quán niệm trên cho thầy
Gi-ri-ma-nan-đa. Thầy này đã chuyên tâm thực tập các pháp quán niệm và
an trú trong niềm an lạc của tâm thức, quên đi các cảm giác đau khổ của
thân xác.
4. Kinh
dụ ngôn bọt nước
Bản kinh này do cư sĩ Phan Khắc Nhượng chuyển thơ từ
kinh Tương Ưng V, bản dịch của HT Thích Minh Châu, Đại tạng Kinh Việt
Nam. Bài kinh này được đức Phật giảng cho các vị tỳ-kheo nhân đi ngang
qua sông Hằng, nhìn thấy các bọt nước trồi lên mặt sóng rồi bổng chốc
vở tung và tan biến. Đức Phật dạy mọi người nên quán sát tổ hợp gồm
năm yếu tố (ngủ uẩn) tạo nên sắc thân và tâm thức của con người
cũng vô thường, chóng vánh và vô ngã như bọt nước. Năm tổ hợp tạo nên
con người là (1) thân thể, (2) cảm thọ, (3) ý niệm hóa, (4) sự vận
hành, và (5) thức phân biệt.
Đức Phật đã dùng 5 hình ảnh để sánh ví tính vô thường
và vô ngã của hợp thể con người tâm vật lý. Thân thể con người như
bọt nước, có đó rồi tan biến đó. Cảm thọ (đau khổ, hạnh phúc và
trung tính) như các bong bóng nước khi trời mưa rơi xuống đất, tạm bợ,
thay đổi, không dừng. Ý niệm hóa của con người cũng như rán trời, như
mây tụ tán. Sự vận hành hay sự sống của chúng sanh cũng như thân cây
chuối, tưởng chắc thật nhưng vốn không có lỏi bên trong. Thức phân biệt
như sự ảo thuật, vốn không có thật. Đức Phật khẳng định rằng ai
tu tập quán chiếu về tổ hợp tâm vật lý vô thường và vô ngã nhất định
sẽ thoát khỏi các sự sai đắm đời sống năm dục lạc thấp kém, hướng
tâm đến thiền vị cao hơn, xã bỏ các chấp mắc về ngã và pháp, chứng
đạt sự an lạc và giải thoát.
5.
Kinh quán niệm hơi thở
Bài kinh này do thiền sư Nhất Hạnh dịch và xuất bản
trong nghi thức tụng niệm của Làng Mai. Bài kinh được đức Phật giảng
dạy tại vườn cây Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ. Nội dung của kinh nhằm
giới thiệu 16 cách quán niệm hơi thở ra và vào, trong sự chánh niệm và
tỉnh giác. 16 cách quán niệm hơi thở đó là:
- Thở vào / ra một hơi dài, người ấy biết: ta đang thở vào / ra một hơi
dài.
- Thở vào / ra một hơi ngắn, người ấy biết: ta đang thở vào / ra một
hơi ngắn.
- Ta đang thở vào / ra và có ý thức về toàn thân ta.
- Ta đang thở vào / ra và làm cho toàn thân an tịnh.
- Ta đang thở vào / ra và cảm thấy mừng vui.
- Ta đang thở vào / ra và cảm thấy an lạc.
- Ta đang thở vào / ra và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta.
- Ta đang thở vào / ra và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta được
an tịnh.
- Ta đang thở vào / ra và có ý thức về tâm ý ta.
- Ta đang thở vào / ra và làm cho tâm ý ta hoan lạc.
- Ta đang thở vào / ra và thu nhiếp tâm ý ta vào định.
- Ta đang thở vào / ra và cởi mở cho tâm ý ta được giải thoát, tự do.
- Ta đang thở vào / ra và quán chiếu tính vô thường của vạn pháp.
- Ta đang thở vào / ra và quán chiếu về tính không đáng tham cầu và vướng
mắc của vạn pháp.
- Ta đang thở vào / ra và quán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn
pháp.
- Ta đang thở vào / ra và quán chiếu về sự buông bỏ.
Đức Phật khẳng định 16 pháp quán niệm hơi thở này có
mối liên hệ mật thiết với bốn pháp quán niệm. Nhờ chánh niệm và tỉnh
giác trong hơi thở ra vào, hành giả an trú trong (1) pháp quán thân trong
thân, (2) quán cảm thọ trong cảm thọ, (3) quán tâm ý như tâm ý, (4) quán
đối tượng tâm ý trong trạng thái vượt thoát mọi tham đắm ở đời.
Thông qua việc thành tựu bốn lãnh vực quán niệm, 16 pháp quán niệm hơi
thở này cũng dẫn đến thành tựu bảy yếu tố đưa đến giác ngộ, đó
là: chánh niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ lạc xuất thế, khinh an, định,
hành xã và giác ngộ. Như vậy phương pháp quán niệm hơi thở ra vào trong
chánh niệm tỉnh giác không chỉ có công năng khắc chế các cảm thọ đau
khổ của thân xác mà còn hướng đến sự giải thoát ngay hiện tại và
bây giờ.
6. Kinh
bốn lãnh vực quán niệm
Kinh này là bản dịch của Thiền sư Nhất Hạnh từ kinh Niệm
Xứ, Trung A Hàm 98, bản Hán của Tăng Già Đề Bà (Gautama Sanghadeva, 317-420
AP), có tham khảo các bản Pàli tương đương là kinh Nhất Nhập Đạo thuộc
Tăng Nhất A Hàm 12, do Dharmanandi, 317-420 AD, dịch.
Bốn lãnh vực quán niệm là (1) pháp quán thân trong thân,
(2) quán cảm thọ trong cảm thọ, (3) quán tâm thức như tâm thức, (4) quán
đối tượng tâm ý như đối tượng tâm ý.
Quán thân trong thân là thái độ chính niệm tỉnh giác
trong từng cử chỉ vận hành của thân như đi, đứng, nằm, ngồi, ngước
lên, cuối xuống, duỗi ra, co vào, thở ra vào và bản chất duyên khởi và
vô ngã của tổ hợp tâm vật lý v.v… để đối trị các tâm niệm xấu
ác, bất thiện bằng các tâm niệm an lạc và lợi ích. Pháp quán này còn
bao gồm các pháp quán khác như quán vô ngã, vô thường, bất tịnh, thi ma
để từ bỏ các tham đắm về ngủ dục lạc thấp kém.
Quán thọ trong các cảm thọ là trạng thái chánh niệm và
tỉnh giác trong từng cảm giác hạnh phúc, đau khổ hay trung tính, để làm
chủ các giác quan, hướng tâm đến sự an trụ hỷ lạc siêu thế.
Quán tâm thức như tâm thức là trạng thái chánh niệm và
tỉnh giác trong từng tâm lý thiện và ác của chúng ta. Khi tâm bị tham,
sân, si, bỏn xẻn, kiêu mạn v.v. . . chế ngự thì phải nhận thức rõ
chúng để khắc chế chúng bằng các tâm lý đối nghịch là rộng lượng,
hoan hỷ, sáng suốt, ban cho, khiêm hạ v.v… Sự khắc chế tâm ý như vậy
là một quá trình sàn lọc và thanh tẩy, từ xấu thành tốt, từ bất thiện
thành thiện và do đó từ phàm phu tục tử thành thánh.
Quán đối tượng tâm ý như đối tượng tâm ý là thái độ
chánh niệm và tỉnh giác trong từng ảnh niệm của các giác quan sau khi tiếp
xúc với các cảnh trần của chúng. Phải nhận chân những hình ảnh, khái
niệm, ý niệm lưu lại trong tâm tư: cái nào là thiện, bất thiện, cái
nào là nội kết và tháo mở, cái nào đã phát sanh, chưa phát sanh, cái
nào đã tiêu diệt và chưa tiêu diệt. Trên cơ sở đó, hành giả từ bỏ
các cảm giác xấu, tháo mở các nội kết của tâm, phát triển các tâm niệm,
khái niệm, ý niệm thiện và có lợi cho sự tu tập.
Bốn pháp quán niệm này là con đường mà các đức Phật
quá khứ, hiện tại và vị lai đã đang và sẽ đi qua, có công năng đem lại
hỷ lạc khắp châu thân, tâm niệm, thanh lọc các cấu uế của tâm, hướng
đến tuệ giác. Người an trụ trong bốn lãnh vực quán niệm này sẽ có
thể chứng được thánh quả hay trí tuệ cứu cánh ngay hiện đời.
7.
Kinh biết sống trong hiện tại
Bản dịch của Thiền sư Nhất Hạnh mang tên là Kinh người
biết sống một mình. Chúng tôi đổi lại tên kinh theo chủ đề của nó
là kinh biết sống trong hiện tại. Kinh này gồm 2 phần: phần I dịch từ
kinh số 1071, Tạp A Hàm và phần II dịch từ Bhaddekaratta Sutta, thuộc
Majjhima Nikàya, 131.
Phần một là cuộc đối thoại giữa đức Phật và vị tỳ-kheo
tên là Thượng Tọa chuyên tu hạnh sống một mình. Vị tỳ-kheo này hành
trì và ca ngợi hạnh sống một mình trong khất thực, ăn uống, đi đứng
nằm ngồi và trong tu tập thiền quán. Đức Phật một mặt ca ngợi về hạnh
viễn ly đó, mặt khác dạy phương pháp sống có ý nghĩa tích cực và lợi
ích lớn hơn. Đó là cách sống chánh niệm và tỉnh giác trong hiện tại.
Nói cách khác, sống một mình mà không có chánh niệm và tỉnh giác thì
không có lợi ích gì cả. Người sống chánh niệm trong từng phút giây của
hiện tại sẽ xa lìa các tham đắm, từ bỏ mọi lo âu, hối hận, sầu khổ,
cắt đứt mọi ràng buộc của cuộc đời, an trụ vào thánh trí, giải
thoát.
Phần hai là phần đức Phật giải thích một cách chi tiết
về hạnh sống trong hiện tại. Sống trong hiện tại là thái độ sống tỉnh
thức trong từng tích tắc của thời gian, không tìm về quá khứ, không hướng
vọng tương lai. Nó còn là thái độ sống tinh tấn trong chánh pháp ngay
bây giờ và tại đây, không trông chờ một cái gì khác. Khi tâm không vướng
bận về quá khứ, hành giả sẽ thoát khỏi những cảm giác vui buồn của
những kinh nghiệm hạnh phúc hay đau khổ trong quá khứ. Khi tâm không hướng
đến tương lai, hành giả sẽ không bị các cảm giác "sẽ thế nào? sẽ
ra sao? sẽ làm sao? v.v…" chi phối, khống chế. Tâm hành giả sẽ trở
nên thơi thái, an tịnh, không bị buộc ràng. Nhờ an trú một cách có
chánh niệm vào hiện tại, hành giả sẽ nhận chân được rằng các hợp
thể tâm vật lý như thân thể, cảm thọ, nhận thức, sự vận hành và thức
phân biệt đều không phải là ngã, không thuộc về ngã và chúng ta không
lệ thuộc vào chúng. Nhờ quán chiếu như vậy, hành giả an lạc và giải
thoát hiện đời.
8. Kinh
tâm từ
Đây là một bài kinh được chuyển thơ từ kinh Tăng Chi
III, 11-14, bản dịch của HT Thích Minh Châu, năm 1988. Bản kinh chứa tải
nhiều giá trị đạo đức rất cao, nhất là hạnh ban rãi tình thương đến
con người và các loài động vật một cách không phân biệt. Tình thương
hay từ bi trong Phật giáo là một thứ tình thương siêu vượt khỏi giới
tính, thân sơ, bạn thù, ta người. Nó là một thứ tình thương vượt biên
giới của tình cảm và tâm lý nhị nguyên. Tình thương như vậy chỉ có
thể phát xuất từ một tấm lòng bao la, vô ngã, không vị kỷ, để cứu
giúp tất cả chúng sanh đang đau khổ.
Đức Phật khẳng định rằng người tu tập và phát triển
tâm từ như vậy sẽ hưởng được an lạc hiện đời và về sau. Về phương
diện hiện tại, người tu tâm từ sẽ có giấc ngũ an lành, không có mộng
mị khiếp đảm. Khi đi đứng và lúc nằm ngồi, tâm tư luôn thắm nhuần
an lạc. Người tu tâm từ như vậy sẽ được mọi người đem lòng kính mến
và tin phục, hộ trì, giúp đỡ. Về phương diện đời sau, người có tâm
từ sẽ được sanh về cảnh giới tốt. Nếu sanh làm người thì không có
kẻ thù, không bị ai hiềm khích, hảm hại, sống trong sự an lành và hạnh
phúc. Nói chung hạnh từ tâm không chỉ làm thanh tịnh thân tâm hành giả
mà còn có tác dụng chuyển hóa cuộc đời đau khổ, phân chia, tranh chấp,
hiềm hận, thù hằn, thành an lạc, không phân chia, không tranh chấp, không
hiềm hận và không thù hằn. Nói cách khác nơi nào có tình thương vô ngã
nơi đó có hình bóng của hòa bình, an lạc và giải thoát.
9. Kinh
phước đức
Kinh này là bản kinh ngắn do Thiền sư Nhất Hạnh dịch từ
Mahamangala Sutta,Sutta Nipata II. Nội dung của kinh đề cập đến 10 phương pháp
tạo nên một đời sống hạnh phúc cho mình và tha nhân và nói chung cho
toàn thể nhân loại.
Phương pháp thứ nhất là lánh xa môi trường xấu, thân cận
bậc hiền đức, tôn kính và cầu học ở bậc đạo đức. Phương pháp thứ
hai là tận dụng cuộc sống hiện tại để gieo trồng các hạt giống
lành mạnh và đạo đức. Phương pháp thứ ba là ổn định nghề nghiệp
chân chánh, sống cuộc đời thanh bần đạo đức, lời nói ôn hòa, ái
kính. Phương pháp thứ tư là hiếu kính mẹ và cha, thương yêu và bảo hộ
gia đình bằng sức mạnh của đôi tây và trí khôn chân chính, hợp pháp.
Phương pháp thứ năm là sống cuộc đời thanh liêm, chính trực, không khuất
phục gian tà, biết mở lòng thương, giúp đỡ người nghèo khó và thân bằng
quyến thuộc. Phương pháp thứ sáu là từ bỏ vĩnh viễn các hành vi xấu
ác và phi pháp, không đam mê rượu chè, hút sách, cờ bạc, ăn chơi sa đọa,
sống tinh cần và làm việc lành trong từng phút giây của cuộc sống. Phương
pháp thứ bảy là biết khiêm cung, lễ độ, kính trên nhường dưới, biết
tiết kiệm để phòng hờ về sau, biết ân và trả ơn người đã giúp và
dạy dỗ mình và không bỏ quên việc học đạo, trao dồi đạo đức và
trí tuệ. Phương pháp thứ tám là biết kiên trì, nhẫn nại trước gian khó,
thân cận và học hỏi các bậc thầy, phục thiện khi sai lầm và trau dồi
phẩm cách, đạo đức cho hoàn thiện hơn. Phương pháp thứ chín là sống
chánh niệm và tỉnh giác trong từng hơi thở, ra sức học chánh pháp không
mệt mỏi, để thể chứng an lạc và giải thoát. Phương pháp thứ là giữ
tâm bất động trước các ngọn gió khen chê, vui buồn, được mất, thành
bại của cuộc đời; giữ tâm an nhiên trong đời như hoa sen trong bùn mà
không hôi tanh mùi bùn. Sống trong đời ô trược nhưng tỏa ra thanh tịnh và
giải thoát.
10.
Kinh cư sĩ tại gia
Kinh này do Thiền sư Nhất Hạnh dịch từ kinh Ưu Bà Tắc,
số 128, thuộc Trung A Hàm, có tham khảo Anguttara Nikàya, III. 211. Bản dịch
nguyên thủy mang tựa đề "kinh Người Áo Trắng." Chúng tôi đổi
lại thành "Kinh Cư sĩ tại gia" cho phù hợp với bản dịch chữ
Hán và nội dung của kinh hơn.
Kinh này đức Phật dạy cho tôn giả Xá-lợi-phất, cư sĩ
Cấp Cô Độc và 500 vị Phật tử khác. Nội dung kinh giới thiệu nếp sống
đạo đức thanh cao của người Phật tử tại gia, trong việc góp phần kiến
tạo một con người gương mẫu, một gia đình hạnh phúc, một đất nước
an bình và thịnh vượng và một thế giới an lạc, không còn chiến tranh.
Nếp sống đạo đức đó bao gồm 5 nguyên tắc đạo đức và bốn pháp
quán tưởng song hành với bốn tâm cao thượng.
Trước nhất về năm nguyên tắc đạo đức. Nguyên tắc thứ
nhất là người Phật tử từ bỏ sự giết chóc, buông bỏ khí giới, tu tập
tình thương đối với con người và loài vật và sinh thái. Nguyên tắc thứ
hai là từ bỏ sự trộm cướp, không cho mà lấy, các hình thức bóc lột,
tham nhủng, biến của công thành của riêng v.v… Đồng thời phát triển
tâm rộng lượng, ban giúp tài sản, vật chất và tình thương cho người
khác. Nguyên tắc thứ ba là từ bỏ quan hệ tình cảm phi pháp và bất
chánh. Tôn trọng và bảo vệ hạnh phúc lứa đôi của kẻ khác. Nguyên tắc
thứ tư là xa lìa các hình thức nói dối, nói lời độc ác, nói lời gây
chia rẽ, nói lời vô ích; đồng thời phát triển lời chân thật, từ ái,
hài hòa, xây dựng đoàn kết và có ích cho người nghe. Nguyên tắc thứ năm
là từ bỏ các hình thức uống rượu, hút thuốc, sử dụng các kích
thích tố có hại cho sức khỏe và tâm trí. Đồng thời góp phần tuyên
truyền một đời sống lành mạnh.
Để có được bốn tâm cao thượng là tâm thương người
và vật, tâm cứu khổ ban vui, tâm hoan hỷ và tâm xã bỏ mọi chấp thủ,
người Phật tử nên tu bốn pháp quán niệm sau đây. Quán niệm thứ nhất
là quán tưởng với chánh kiến rằng đức Phật là bậc giác ngộ viên
mãn, đạo đức và trí tuệ toàn vẹn, là bậc thầy nương tựa và học hỏi
của nhân loại và chư thiên. Nhờ quán tưởng như thế, hành giả an trụ
vào tâm cao thượng thứ nhất là tâm từ. Bởi lẽ trí tuệ và đạo đức
của đức Phật là để phục vụ cho sự an lạc và lợi ích cho con người.
Quán niệm thứ hai là quán tưởng với chánh kiến rằng lời Phật dạy
(chánh Pháp) rất thực tiễn, đem lại lợi ích hiện tại và tương lai,
được người trí khen ngợi và học hỏi, có khả năng hướng thượng. Nhờ
quán niệm như vậy, hành giả an trú vào tâm cao thượng thứ hai là tâm
bi. Nói cách khác, giáo pháp của đức Phật có công năng thanh tẩy ác, bồi
dưỡng thiện, giúp cho chúng sanh hết khổ được vui. Quán niệm thứ ba
là quán tưởng với chánh kiến rằng đoàn thể quý thầy cô tu tập Phật
đạo là đoàn thể thanh tịnh, với quyết tâm đạt được thánh quả,
thành tựu đạo đức, thiền định và trí tuệ, có khả năng cứu giúp cuộc
đời, đáng được cung kính, cúng dường và noi gương học hỏi. Nhờ quán
sát như vậy, hành giả an trụ được tâm cao thượng thứ ba là hoan hỷ.
Nói cách khác, cung kính và hỗ trợ sự tu học và làm Phật sự của quý
thầy cô xuất gia là một hạnh tùy hỷ hay hoan hỷ với các thành tựu về
đạo đức và trí tuệ. Quán niệm thứ tư là quán tưởng với chánh kiến
rằng giới luật của Phật là hoàn hảo, có khả năng giúp chúng ta an trụ
vào đạo đức của Như Lai. Nhờ quán tưởng như vậy, hành giả an trụ
được tâm cao thượng thứ tư là tâm xả, xả bỏ tất cả các chấp thủ
về bản thân như ngã và thế giới như thường còn.
Nói tóm lại, người tu tập và tuyên truyền 5 nguyên tắc
đạo đức, bốn pháp quán tưởng Phật, Pháp, Tăng và Giới luật và bốn
tâm cao thượng sẽ từng bước sống an lạc và hạnh phúc ở đời này.
Người như vậy là người xây dựng tịnh độ tại nhân gian, biến đau khổ
thành an lạc.
11.
Kinh thiện sanh
Kinh này do cư sĩ Phan Khắc Nhượng phỏng dịch theo thể
thơ từ bản tiếng Anh, có tham khảo Trường A Hàm I, 555-547, ĐTKVN và đối
chiếu kinh Thọ Giáo Thi-Ca-La-Việt, Trường Bộ II, 529-548, ĐTKVN.
Nhân sự kiện bà-la-môn Thi-ca-la-việt đảnh lễ sáu phương
vào mỗi buổi sáng mà không hiểu ý nghĩa của việc mình làm, đức Phật
đã giảng dạy về các mối quan hệ đạo đức xã hội, thông qua sáu phương.
Phương đông tượng trưng cha mẹ. Phương nam tượng trưng cho thầy cô
giáo. Phương tây tượng trưng cho đạo vợ chồng. Phương bắc tượng
trưng cho bạn bè. Phương trên tượng trưng cho các bậc tu hành. Phương dưới
tượng trưng cho quan hệ chủ thợ.
- Về quan hệ giữa cha mẹ và con cái đức Phật dạy 5 nguyên tắc đạo
đức cho cha mẹ và 5 nguyên tắc đạo đức cho con cái. Phàm làm cha mẹ phải
thương yêu con cái theo 5 nguyên tắc đạo đức: (1) ngăn chận con làm việc
ác, (2) khuyên dạy con làm việc thiện, (3) tạo dựng nghề nghiệp chân
chánh cho con, (4) xây dựng gia đình xứng đáng cho con, (5) truyền trao gia
tài cho con đúng thời. Ngược lại phần làm con phải đối xử với cha mẹ
theo năm cách: (1) nuôi dưỡng mẹ cha, (2) làm tròn bổn phận, (3) giữ gìn
danh dự và truyền thống gia đình, (4) bảo vệ tài sản thừa tự, (5) chu
toàn tang lễ cho cha mẹ.
Về đạo vợ chồng, đức Phật dạy mỗi bên cũng có 5 bổn
phận như nhau. Chồng đối với vợ phải: (1) trọng nể vợ, (2) chung thủy
với vợ, (3) tin tưởng khả năng của vợ, (4) giao quyền hạn cho vợ, (5)
sắm nữ trang cho vợ. Ngược lại, người vợ phải đối xử với chồng
theo 5 cách: (1) làm tốt trách nhiệm, (2) cư xử tốt đối với bên nội
và bên ngoại, (3) chung thủy thương yêu chồng, (4) giữ gìn và bảo quản
tài sản gia đình, (5) siêng năng và khéo léo trong giao tế.
Về đạo bằng hữu, đức Phật dạy năm điều sau đây:
(1) giúp đỡ bạn, (2) nói lời từ ái với bạn, (3) vì lợi ích của bạn,
(4) xem bạn như mình, (5) thành thật và giữ lời hứa với bạn. Ngược lại
người bạn cũng nên đối xử với ta như sau: (1) không để bạn sa ngã,
(2) không làm cho bạn sợ hãi (3) bảo vệ bạn hoạn nạn, (4) giúp bạn
trong gian khó, (5) ca ngợi tánh tốt của bạn.
Về đạo chủ thợ, đức Phật dạy như sau. Chủ phải đối
với thợ: (1) giao công việc cho thợ đúng với khả năng và sức khỏe,
(2) trả lương và tặng quà thích đáng, (3) chăm lo sức khỏe, khi thợ bị
bệnh, (4) chia xẻ thức ăn cho thợ, (5) cho thợ nghỉ ngơi hợp lý. Ngược
lại, thợ cũng phải đối với chủ: (1) dậy trước chủ, (2) ngủ sau chủ,
(3) hài lòng với những gì chủ cho, (4) làm tốt công việc được giao, (5)
giữ gìn danh giá và uy tín của chủ.
Về đạo cư sĩ và tu sĩ, đức Phật dạy như sau. Người
cư sĩ phải xử sự với người tu sĩ: (1-3) từ ái bằng lời nói, ý nghĩ
và việc làm đối với người tu, (4) cung kính và chào đón tu sĩ, (5) cúng
dường và ủng hộ tu sĩ. Ngược lại, người tu cũng đối lại: (1) khuyên
cư sĩ từ bỏ ác, (2) khuyến khích cư sĩ làm việc thiện, (3) trải lòng từ
ái đối với cư sĩ, (4) dạy cho cư sĩ những gì chưa được học hỏi,
(5) hiệu chỉnh và thanh tịnh những gì chưa hoàn thiện ở cư sĩ, (6) chỉ
dạy cho cư sĩ cách tái sanh về cõi trời.
Trên nền tảng các mối quan hệ đạo đức như vừa nêu,
kinh này được xem là giường mối đạo đức của gia đình và xã hội.
IV. Kết luận
Với 11 bài kinh căn bản của hai truyền thống Nam tông và
Bắc tông, nghi thức cầu an không chỉ là lời kinh giúp cho người bệnh
vượt qua được cơn đau đớn và hành hạ về thân xác trong lúc đau ốm,
mà còn chứa đựng nhiều triết lý sâu sắc của Phật giáo về cách quán
tưởng và nhìn đời đúng với bản chất duyên khởi, vô ngã, vô thường
của mọi sự vật hiện tượng trên thế gian này. Nghi thức cầu an này
còn cung cấp cho người đọc tụng những tấm bản đồ tu tập thiền định,
an tịnh thân tâm, xây dựng hạnh phúc và an lạc cho mình và người khác
ngay bây giờ và tại đây.
Một nghi thức giàu tính đạo đức, trí tuệ và thiền định
như vậy rõ ràng không chỉ là kim chỉ nam cho người bệnh mà còn là phương
châm không thể thiếu đối với tất cả những người khỏe mạnh về thể
chất nhưng chưa phát triển toàn diện về tinh thần. Nghi thức cầu an do
đó đã trở thành thức ăn tinh thần và thuốc bổ dưỡng cho sự sống đạo
đức của tất cả chúng ta và tha nhân hôm nay và mai sau.