- Đạo Phật Đi vào Cuộc
Đời
- Và Các Tiểu Luận Khác
- Thiền Sư Nhất Hạnh
- 1
- Đạo Phật Đi vào Cuộc
Đời
Nguồn suối phát sinh của đạo Phật
là một sự giác ngộ về sự thật của cuộc đời (tứ diệu đế), vì vậy
đạo Phật có tính cách vượt lên trên cuộc đời. Sự vượt lên ở đây
là một kết quả tất nhiên của giác ngộ, vì mọi giác ngộ đều đưa tới
một sự thức tỉnh và giải phóng. Con người giác ngộ không còn là con
người bị sai sử và chìm đắm trong cuộc đời nữa. Con người giác ngộ
là con người tự do, vượt ra khỏi những tối tăm, quên lãng và phó mặc
của cuộc đời.
Nhưng vượt lên trên cuộc đời không
có nghĩa là phủ nhận cuộc đời, ghét bỏ cuộc đời. Nếu chỉ có một
sự ghét bỏ, xa lánh, trốn chạy thì chưa có thể gọi là vượt lên. Đó
chỉ là một sự chán nản hoặc khiếp sợ. Vượt lên ở đây bao hàm một
ý chí khỏe mạnh, một ý thức giải thoát, một thái độ khinh thường khổ
đau. Và được trang bị đầy đủ những bản lĩnh ấy rồi, con người giác
ngộ đi vào cuộc đời với tất cả can đảm và thiện chí để chuyển hóa
cuộc đời.
Những con người giác ngộ đi vào
cuộc đời bao giờ cũng đem theo tâm niệm giải thoát, không tham đắm, không
cố chấp. Có như thế ta mới thấy được tính chất của sự vượt lên
(transcendance) trong thái độ dấn thân vào cuộc đời (engagement) của
những con người giác ngộ. Tính chất vô trước (détachement) của
hành động là một bằng chứng cụ thể chứng minh cho sự hiện hữu của
giác ngộ.
Vô trước có nghĩa là không bị
dính vào. Cố nhiên con người giác ngộ sẽ không những không bị dính
vào tham vọng, quyền hành và lợi danh mà còn không bị dính vào những cố
chấp có tính cách tri thức như quan điểm và sự phân biệt nhân ngã nữa.
Đó là thái độ tự do, vô tâm, vô trú của các bậc Bồ tát mà kinh Kim Cương
Bát Nhã đã diễn tả trong rất nhiều đoạn (1).
Bàn luận đến đề tài đem đạo Phật đi vào cuộc đời, chúng ta phải
ý thức được những điểm trên của giáo lý tức là các nguyên lý vượt
lên, dấn thân và vô trước, thì mới có thể tránh khỏi
được những sai lạc căn bản.
Ngay cái mệnh đề đạo Phật
đi vào cuộc đời cũng đã không được ổn thỏa, bởi vì phân tích
nó ta sẽ có cảm tưởng đạo Phật là một cái gì đang ở bên ngoài
cuộc đời và vì vậy cần phải đem nó đi vào trong cuộc đời.
Sự thực thì không phải như vậy. Đạo Phật đã được phát sinh từ
trong lòng của cuộc đời, đã được nuôi dưỡng bởi cuộc đời và
đang tồn tại vì cuộc đời. Nếu đạo Phật đã có mặt trong cuộc đời
rồi vậy thì cần phải đem nó đi vào cuộc đời làm gì nữa?
_________________
(1) Ví dụ: Tu Bồ Đề, nếu có một
vị Bồ Tát nói rằng: "Ta phải cứu độ cho vô lượng chúng sanh"
thì vị ấy không phải là Bồ Tát nữa. Vì sao thế Tu Bồ Đề ? Vì thực
ra không có gì có thể được mệnh danh là Bồ Tát cả. Vì vậy Phật thường
nói rằng mọi hiện tượng đều vô ngã, vô chúng sanh, vô thọ giả.
Tuy nhiên nếu ta quan niệm đạo Phật
như những nguyên lý của sự giác ngộ cần được thể hiện trong cuộc
đời thì ta sẽ thấy rằng có những lúc, vì khả năng thể hiện thiếu kém,
ta đã không đích thực làm hiển lộ được đạo Phật trong cuộc đời,
trong sự sống, và như thế thực chất của đạo Phật vắng mặt mà chỉ
có một số những hình thái khô chết của đạo Phật là hiện hữu. Nếu
không có thực chất, thì những hình thái kia (như kinh điển, giáo đường,
nghi lễ…) đều là những hình thái khô chết. Chính đức Phật và các vị
tổ sư thiền tông đã nhắc nhiều đến điều đó.
Vì vậy cho nên đem đạo Phật đi
vào cuộc đời có nghĩa là thể hiện những nguyên lý đạo Phật trong sự
sống, thể hiện bằng những phương thức phù hợp với thực trạng của
cuộc đời để biến cải cuộc đời theo chiều hướng thiện mỹ. Chừng
nào sinh lực của đạo Phật được trông thấy dào dạt trong mọi hình thức
của sự sống chừng đó ta mới có thể nói được rằng đạo Phật đang
thật sự hiện hữu trong cuộc đời.
Sinh lực ấy được nhận thức qua
những dấu hiệu sau đây mà chúng tôi xin lần lượt trình bày:
- 1. Sự hiện diện vô hành của đạo đức
- 2. Sự hiện diện của ngôn ngữ đạo đức
- 3. Sự hiện diện hữu hành của đạo đức
1. Sự hiện diện vô hành của đạo đức
Sự hiện diện vô hành của
đạo đức tức là bản chất của tự thân đạo đức, là nguồn suối của
mọi hình thái đạo đức. Chữ vô hành ở đây tức là không có hình
thái của sự hành động. Kinh Tứ Thập Nhị Chương, cuốn kinh đầu
tiên bằng chữ Sanskrit được dịch ra chữ Hán, có một đoạn nói về điều
ấy: "ngã Pháp hành vô hành hạnh, tu vô tu tu" (1).
Câu kinh này, ngoài ý niệm "vô trước" về nhận thức và về
hành động, còn mang ý nghĩa của sự vô hành của đạo đức. Sự hiện
diện của đạo đức vô hành là một giòng suối an lạc và mầu nhiệm
tuôn chảy vào con người và vào sự sống, tuôn chảy một cách hồn nhiên
và giản dị như sự hiện diện của ánh sáng trong không gian. Dòng suối
ấy được khơi mở do công trình thực hiện tâm linh của người hành giả
trên con đường tu chứng. Ai cũng biết rằng tam tạng giáo điển của Phật
giáo không có giá trị như những lời tuyên bố về chân lý mà chỉ có
giá trị như những kinh nghiệm và những phương pháp hướng dẫn công cuộc
thực nghiệm tâm linh để người hành giả chứng được chân lý. Chứng
ở đây không có nghĩa là một sự nhận thức bằng suy luận mà là một
sự xúc tiếp thẳng với bản thân thực tại, một sự thể nhập thực tại
không cần đến khí cụ tri thức suy luận. _________________
(1) Phương pháp của Ta là phương
pháp thực hành hạnh "vô hành," tu chứng hạnh "vô tu."
Được hướng dẫn bởi kinh nghiệm
và bởi những phương châm diễn bày trong giáo lý, người hành giả cố
quyết thâm nhập (không phải bằng trí tuệ hay tình cảm của mình) vào thế
giới của những nguyên lý sinh động của thực tại. Công phu ấy có khi
kéo dài nhiều năm, nhiều chục năm, và kết quả nhiều hay ít sẽ là tùy
theo khả năng và sự quyết chí. Một khi tiếp xúc thẳng được với bản
thân của thực tại, (có khi gọi là chân như, có khi gọi là thực tính,
có khi gọi là như lai tạng tính…) thì tự nhiên có một sự chuyển đổi
đột ngột nơi con người của kẻ hành giả. Con người hành giả trở
nên một hóa thân của đạo đức, một bông hoa của trí tuệ giác ngộ
và mọi hành động của hành giả tự nhiên phù hợp với nguyên lý của
đạo đức. Lúc ấy ở nơi con người đạt đạo, không có gì mà không phải
là đạo. Ngồi yên không làm gì hết cũng là đạo. Sự hiện diện của
những con người như thế tức là sự hiện diện vô hành của đạo đức.
Sự hiện diện của một con người như thế có thể làm cho núi rừng xanh
hơn, có thể làm cho dòng sông trong hơn. Đứng về phương diện nghiệp lực
cộng đồng, sự xuất hiện của một con người như thế báo hiệu những
ngày mai tốt đẹp cho toàn thể. Ảnh hưởng của một nguồn đạo đức vô
hành như thế sẽ là đáng kể đối với thế giới của những hoạt động
náo nhiệt hữu vi mà động lực thúc đẩy chỉ là sự tính toán thiệt hơn.
Sự hiện diện của một con người đắc đạo, dù là không ai biết tới,
cũng như là sự xuất hiện của một giếng nước thơm trong giữa vùng sỏi
đá khô khan cằn cỗi.
Sự chứng ngộ của một nhà hành
đạo được xem như là một năng xuất đạo đức lớn lao và quý báu nhất
trong phạm vi đạo đức, tôn giáo, và văn hóa nữa. Người đạt đạo có
thể không giảng dạy, không viết lách, không khuyên can, không tổ chức,
không cày bừa, nhưng vẫn đóng góp cho nhân loại những gì quý giá頮hất, hiếm có nhất mà một xã hội ta không thể thiếu
được. Nhà thống kê kinh tế học không thấy được yếu tố quan trọng
đó của sản xuất. Làm thế nào mà biết được rằng bao nhiêu phần trăm
của một hạt lúa là do công trình của một câu ca dao. Ta hãy lấy ví dụ
một đám đông đang hốt hoảng trước tai biến, và sự đóng góp của một
con người giữ được trầm tĩnh. Nhờ sự trầm tĩnh của một người mà
đám đông bớt hoảng sợ và do đó còn đủ sáng suốt tìm ra phương pháp
thoát khỏi tai biến. Hoặc sự có mặt của một người bạn đức hạnh
trong cuộc xung đột gia đình. Người cha ấy, người bạn ấy tuy chỉ ngồi
yên không làm gì cả nhưng sự có mặt của họ có thể tránh được
cho gia đình cảnh xung đột chắc chắn có thể xảy ra nếu họ vắng mặt.
Đạo đức vô hành tuy không hành nhưng quả thực là đã hành một
cách rất có hiệu quả. Đọc Đạo đức Kinh ta chỉ có thể thấy được
cái vỏ khô cứng của Lão học nhưng nếu sống một giờ bên cạnh Lão Tử
chắc chắn là ta thấy được cái bản thân của Lão Học. Đọc nhiều về
thiền học sao cho bằng được nhìn cặp mắt của một vị thiền sư hay
nghe được tiếng cưới của người. Cũng như đọc hết tam tạng kinh điển
Phật giáo chưa chắc đã bằng được sống vài ba phút bên cạnh đức Phật.
Bên cạnh hiện thân của chân như ấy, nghĩa là bên cạnh giòng suối chân
lý ấy, ta thấy được hình ảnh linh động của chân lý tỏa hiện nơi
con người, ta vốc uống được thứ nước trong lành của bản thể. Điều
đó cho ta biết tại sao các vị đệ tử đồng sinh vào thời Phật đã có
thể chứng ngộ dễ dàng như kinh điển thường chép. Trong thời Phật tại
thế, ít có những thắc mắc những nghi vấn về giáo lý bởi vì chính bản
thân Phật đã là một bài giáo lý sống động rồi. Nhìn thấy Ngài, người
nghi mấy cũng phải tin, người ác mấy cũng phải hiền, người yếu mấy
cũng phải mạnh. Cho đến khi Ngài nhập diệt rồi mà hình bóng Ngài, phẩm
cách Ngài cũng còn đủ sức hướng dẫn cho giáo đoàn được thống nhất
và thuần hòa gần suốt một thế kỷ.
Bao nhiêu hoạt động thuộc phạm
vi tôn giáo đạo đức nếu không bắt nguồn cảm hứng từ sự đạt đạo,
từ tâm linh con người, đều có thể là những hoạt động vô bổ phát xuất
từ động cơ danh lợi, tính toán. Thiếu chất liệu đạo đức trong cơ thể,
con người không thể hành chính đạo mà chỉ có thể hành tà đạo. Cho
nên nhân loại phải thắp hương nơi nào có một bậc chân tu xuất hiện.
Cố nhiên bậc chân tu không mọc nhiều như nấm sau cơn mưa. Bậc chân tu
không phải như những dấu tích linh ứng mọi người nghe tiếng tìm tới
dâng hương. Bậc chân tu không phải là người có vài thủ thuật mới lạ
như tiên tri, chữa bệnh, có thể thâu hút được nhiều người ham mộ. Bậc
chân tu là sự hiện diện, trước hết, của đạo đức vô hành. Nhìn vào
người, thiên hạ thấy lòng mình thêm tin tưởng, thêm trầm tĩnh, thêm ý
thức, thêm thương yêu cuộc đời và xây dựng cho cuộc đời một cách
chân thành. Bậc chân tu là một nguồn cảm hứng vô tận cho mọi hoạt động
đạo đức và tôn giáo chân chính. Thắp hương nơi nào có bậc chân tu
xuất hiện có nghĩa là nhận thức được giá trị cao cả của sự chứng
ngộ, của đạo đức chân thực. Người chân tu có thể chưa là bậc
thánh nhưng nhất định không còn là kẻ phàm. Kẻ phàm là kẻ hành sự
trên động cơ danh lợi và tà kiến, chứ không hẳn là kẻ nói dối, uống
rượu và ăn thịt. Người chân tu hiếm có nhưng không phải không thể nhận
thức được. Ngồi với một người nào mà ta thấy tâm hồn thanh tịnh,
an lạc, tin tưởng, ta thấy khởi động trong lòng ta ý hướng trong sạch
hướng về phụng sự thì ta biết ít nhiều người ấy cũng đã là bậc
chân tu. Người chân tu giản dị như ánh sáng như khí trời, cho muôn loài
sự sống mà không ai hay biết. Người chân tu như mạch nước thấm trong lòng
đất, trẻ con hái hoa tím hoa vàng trên thảm cỏ mà không biết đồng cỏ
và bông hoa là tặng phẩm của dòng nước trong. Sự hiện diện của những
bậc chân tu mang lại nhiều an lạc cho cuộc đời, nhưng chính niềm tin mới
thực là phẩm vật quý giá nhất của người chân tu hiến tặng. Sự hiện
diện của người chân tu chứng minh sự hiện diện của đạo đức chân
thực, chứng minh khả năng của con người; chứng minh tính cách khả hành
của giáo lý đức Phật, hoặc nói cho rộng là giáo lý của các bậc hiền
nhân.
Chúng ta không thể sản xuất ra
các bậc chân tu. Chúng ta chỉ tạo nên những điều kiện cho các bậc
chân tu xuất hiện. Vì vậy chúng ta có những tăng viện, nhất là những
viện thiền học để làm nơi sinh hoạt thực tập cho con người muốn quyết
tâm đạt đến sự chứng ngộ bằng phương pháp thiền quán. Thường thường
những người từ hai mươi tuổi trở lên nếu quyết chí từ bỏ mọi ước
muốn về cuộc đời để một tâm một chí đạt cho được sự giác ngộ
thì gọi là những người xuất gia. Ai cũng biết rằng đạo Phật xác nhận
khả năng tính giác ngộ của tất cả mọi người và vì vậy theo nguyên tắc
ai cũng có thể xuất gia được. Tuy nhiên trên bình diện thực tế, người
xuất gia phải có đủ một cách tương đối những điều kiện sức khỏe,
trí tuệ và ý chí, bởi vì con đường xuất gia đạt đạo là một con
đường gian khổ đòi hỏi những chuẩn bị tâm lý và sinh lý rất kỹ lưỡng.
Cố nhiên ở Thiền tông sự thông hiểu chữ nghĩa không được xem như là
tiêu chuẩn đứng đắn nhất để chọn lựa: tuy vậy trường hợp Huệ
Năng là một trường hợp hiếm có trên đời (1).
Trong xã hội xưa, người xuất gia
để gần trọn thì giờ mà tham thiền, và dốc toàn lực vào công việc tiến
tới giác ngộ. Y thực, lương dược và nơi cư trú là do sự cung dưỡng của
những người cư sĩ áo trắng. Những bậc đạt đạo được quần chúng
tôn sùng và học hỏi. Các vị đem nhân phẩm của mình ra làm những bài
thuyết pháp và thường gần gũi với cuộc đời bằng cách du hóa khất thực.
Đoàn thể xuất gia thời Phật giáo nguyên thỉ so với số lượng người
xuất gia ở các nước Phật giáo bây giờ thì quả thực là ít ỏi. Nhưng
sau đó, tự viện phát triển và giới xuất gia càng lúc càng đông. Hãy
nhìn vào xã hội Thái Lan, Cam Bốt, Tây Tạng ta sẽ thấy điều đó. Một
khi đoàn thể xuất gia đã đông đảo, tự nhiên phát sinh ra những vấn đề
như sau :
1) Phải xây cất thêm nhiều tự viện
và phải tổ chức lại giới bạch y để có thể cung cấp đầy đủ các
nhu yếu lương thực, cư trú, thuốc men và y phục cho tăng giới. Giới Phật
tử cư sĩ trở nên quan trọng và các tự viện bắt đầu phải chiều chuộng
những sở thích của người cư sĩ. Trong các kinh điển như Kinh Duy Man,
Kinh Thắng Man, v.v… người cư sĩ không còn được coi như chỉ là những
thí chủ cung dưỡng chư tăng để tạo phước đức nữa mà là những người
có thể hành bồ tát hạnh và đạt tới địa vị khá siêu phàm về tâm
linh. Giới Bồ tát cho cư sĩ cũng phải chiếu điều đó. Mà ta phải công
nhận vai trò ủng hộ đắc lực của người cư sĩ trong công cuộc phát
triển cơ sở giáo hội. Người cư sĩ bây giờ không còn xa cách quá với
người xuất gia về phương diện uy tín đạo đức. Do vai trò đóng góp của
họ trong sự tạo dựng tự viện, ủng hộ hoằng pháp, cung dưỡng tăng
ni, ý kiến và sở thích của họ được tôn trọng hơn lên. Điều này
còn có thể thấy ngay trong hiện tại. Chế độ cúng dường (cung dưỡng)
vẫn còn đang tồn tại, mà phần lớn các trường hợp là cung dưỡng cá
nhân một vị tăng. (Thực ra chữ tăng – sangha – có nghĩa là một đoàn
thể; một vị không thể gọi là tăng được). Sự cung dưỡng đúng chính
pháp là một sự cung dưỡng vô điều kiện. Nhưng ai cũng biết người cư
sĩ bây giờ ít biết thế nào là cung dưỡng đúng chính pháp. Họ cung dưỡng
vì cảm tình riêng với từng vị mà họ mến chuộng, họ cung dưỡng vì
muốn được học hỏi riêng hay được thỏa mãn riêng về các nhu cầu cầu
siêu, cầu an hay về tình thầy trò, tình môn phái huynh đệ. Những bậc chân
tu không chịu các điều kiện ấy thì lại hay bị quên lãng và thiếu điều
kiện để tiến tu. Sức khỏe thiếu kém họ có thể bỏ cuộc nửa chừng.
Còn những vị chiều theo sở thích của người áo trắng thì lại không
có tự do và thì giờ để thực hiện chí nguyện buổi ban đầu.
_________________
(1) Tương truyền thiền sư Huệ
Năng không biết chữ nhưng đã trở nên cao đệ thứ nhất của ngũ tổ Hoằng
Nhẫn.
2) Đã đông đảo thì cố nhiên
khó giữ được tinh túy. Thế rồi xuất hiện những vị hình đồng xuất
gia mà tâm niệm chưa xuất gia. Cùng với nhu cầu tín ngưỡng (chứ không
phải nhu cầu đạo đức) càng ngày càng tăng của quần chúng, nhu cầu cầu
an, cầu siêu, đám ma, đám chay vân vân, một số lớn những người xuất
gia trở nên những nhà chuyên môn về tụng niệm, cầu nguyện. Những vị
này cần thiết cho quần chúng thực, nhưng họ đã bỏ mất ý nguyện ban
đầu (sơ tâm xuất gia) là quyết đạt được giác ngộ. Thêm vào những
nhu yếu tín ngưỡng thuần túy, còn có những nhu yếu mới thuộc phạm vi
tổ chức giáo hội mà xã hội bây giờ đòi hỏi; người xuất gia phải
đem hết thì giờ làm các công việc từ giảng diễn, tổ chức, hội họp,
dạy dỗ, chăm sóc bệnh xá, vân vân… cho đến các công việc rất mới
như làm tuyên úy trong quân đội chẳng hạn. Vì thế mục đích đạt đạo
của người xuất gia hầu như là không còn nữa và đó là một vấn đề
lớn lao cho Phật giáo. Cố nhiên sự hiện diện của người tăng sĩ trong
mọi cơ cấu xã hội là một sự cần thiết không ai không công nhận, nhưng
nếu thiếu mất nguồn cảm hứng của đạo đức vô hành thể hiện nơi
người đạt đạo thì có thể có sự cạn khô của thực chất đạo pháp
nơi chính những hoạt động được gọi là hoạt động cho đạo pháp ấy.
Xã hội ngày nay bắt buộc phải
có mặt của người Phật tử trong các cơ cấu tổ chức của nó, nếu Phật
giáo muốn không bị đứng ngoài. Nhưng đứng trong không những chỉ là đứng
trong với hình thức suông mà phải là với một hình thức chứa đựng nội
dung nữa. Vì vậy vấn đề đặt ra cho chúng ta phải là kêu gọi tất cả
các vị xuất gia trở về tu viện lo chuyện công phu thiền quán mà làm sao
gây dựng lại những cơ sở thật đứng đắn thật vững chãi cho số những
người nguyện chuyên tu đạt đạo. Số người này sẽ ít ỏi, nhưng hết
sức quý giá, bởi vì mỗi khi có một vị tìm tới được nguồn suối đạt
đạo thì tất nhiên cả chúng ta, tất cả dân tộc và nhân loại ta đều
được thừa hưởng. Năm bảy vị như thế đủ để cho chúng ta sung sướng
rồi. Mà có được hàng mấy mươi vị thì đó quả thực là hồng phúc
cho dân tộc. Những bậc hiện đang hoạt động cho Phật giáo trong các cơ
cấu xã hội sẽ như những cành lá tốt tươi bắt gốc từ những bậc đạt
đạo đó, hoặc là những bậc đang cương quyết chí tâm tiến bước trên
con đường đạt đạo đó. Họ sẽ trở về sống mỗi năm ba tháng bên cạnh
những bậc tăng sĩ hoàn toàn xuất thế này để mà nhìn, để mà nghe, để
mà cảm, để mà tĩnh tu, mà võ trang lại tâm hồn mình, ước nguyện mình,
lý tưởng mình, để trong chín tháng dưới núi sẽ giữ vẹn được tâm hồn
và ý chí của những chàng dũng sĩ cần thiết cho cuộc đời (1). Có như thế bản chất của đạo đức vô
hành, của trí tuệ giác ngộ, của những nguyên lý Phật giáo linh động mới
từ nguồn suối của nó chuyền qua người đạt đạo, thấm tới người hành
đạo và cuối cùng được thể hiện trong cuộc đời. Ta hãy tạm gọi
dòng tu của những con người đi sâu hoàn toàn vào địa vức thuần túy
tâm linh là dòng tu thể nhập và dòng tu của những người hành đạo
(hay hóa đạo ? Xin để quý vị xét) là dòng tu tiếp hiện. Thể nhập
nghĩa là thể hiện và thâm nhập những nguyên lý linh động của thực tại,
của Phật học.
_________________
(1) "Cửa Tùng Đôi Cánh
Gài" chuyện ngắn của tác giả. Báo Hải Triều Âm số 11 ngày
2-7-1964.
Cũng có nghĩa là, bằng cách thâm
nhập vào biển giác ngộ tâm linh, thể hiện sức sống của giác ngộ
trên bản thân mình như một hiện thân của đạo đức vô hành. Xin nói
thêm rằng đạo đức đây phải được hiểu như một sự phát hiện của
nghệ thuật sống mà không phải là những hành động được quy định
như "luân lý" hay "công dân giáo dục." Mọi cử chỉ ngôn
ngữ của người đạt đạo đều tự nhiên là đạo đức, không ý thức,
không cố gắng mệt nhọc. Cũng giống như trạng thái "tùng tâm sở dục
nhi bất du củ" của Khổng Khưu khi Ngài đến tuổi sáu mươi. Thành ra
đạo đức là sự sống; sự sống là nghệ thuật và vì vậy đạo đức
là nghệ thuật. Một nghệ sĩ đạt đến nguồn của nghệ thuật rồi thì
nói ra là thơ, vạch ra là họa… Người hành đạo đạt đến nguồn rồi
thì ăn uống nói cười tất cả là đạo. Kẻ phàm phu bắt chước ăn như
thế uống như thế nói như thế cười như thế cũng không thành người đạt
đạo được. Có khi trái với đạo là khác. Cho nên đạo Phật không phải
là một bó luân lý và giáo điều cứng cỏi.
Còn chữ tiếp hiện có nghĩa
là tiếp nhận và thực hiện. Tiếp nhận nguồn sinh lực đạo pháp do những
nhà tu thể nhập khơi mở và đem nó thực hiện trong cuộc đời. Thành thử
giữa các nhà tu thể nhập quần chúng trong cuộc đời, nhà tu tiếp hiện
đóng trách nhiệm của một ngang nối, một trait d’union, và số người
này phải khá đông để có thể cung cấp cho nhu cầu tôn giáo và đạo đức
càng ngày càng tăng của xã hội mới. Những nhà tu trong dòng này sẽ đem
ý chí năng lực và tâm hồn của mình để thực hiện một ít nguyên chất
của đạo Phật trong cuộc đời, và kho tàng của họ là những bậc trong
dòng tu thể nhập mà họ được gần gũi và học tập ba tháng mỗi
năm. Và khi họ đã chắc chắn rằng thời gian phụng sự của họ đã tạm
đủ và muốn cố quyết thực nghiệm sâu sắc chân lý, họ sẽ phát nguyện
trở về tu viện vĩnh viễn để mà hạ thủ công phu cho lý tưởng đạt
đạo. Cố nhiên vì đã dứt khoát chín chắn và đã am hiểu về cuộc đời,
về giá trị của sự chứng ngộ, nên họ sẽ trở nên nhất tâm nhất
chí trên con đường đạt đạo và do đó, dễ đạt được kết quả mau
chóng và tốt đẹp.
Để đạt đến một kết quả như
thế, giáo hội sẽ phải tổ chức trang bị hoặc tu chỉnh năm bảy tu viện
hết sức trang nghiêm trong toàn quốc để làm cơ sở cho những nhà tu dòng
thể nhập. Những vấn đè cư trú, lương thực, y phục, thuốc men,
thư viện… phải được bảo đảm để cho các nhà tu khỏi phải bận
tâm. Chấm dứt vấn đề cúng dường cá nhân trong các tu viện. Chấm dứt
sự lễ bái du ngoạn thính pháp của người bạch y tại tu viện. Không
khí tu viện sẽ trang nghiêm và tự do; tự do ở đây có nghĩa là không bị
uốn nắn theo sở thích và đòi hỏi của bất cứ người cư sĩ bạch y nào
hoặc tổ chức tài chính hay xã hội nào. Các vị trong dòng tu sẽ tạo ra
không khí thuận tiện cho sự thiền quán. Tu viện chỉ mở cửa mỗi năm
ba tháng để tiếp nhận những vị trong dòng Tiếp Hiện. Cố nhiên phải
có cả tu viện cho nữ giới, tuy rằng ta biết số lượng sẽ vào khoảng
một phần ba.
Chúng ta sẽ có dịp trở lại vấn
đề này trong những phần sau. Hiện giờ ta cần đi sang phần thứ hai tức
là sự hiện hữu của ngôn ngữ đạo đức.
2.
Sự hiện hữu của ngôn ngữ đạo đức
Có sự hiện diện của chứng ngộ
tức là có sự cố gắng để diễn tả những chứng ngộ ấy. Ngôn ngữ của
chứng ngộ là một ngôn ngữ mang đầy sinh lực chứ không phải như
ngôn ngữ của suy luận và của giả thiết huyền đàm. Ngôn ngữ là phương
tiện dùng để cảm thông và vì vậy cần phải thích hợp với người
nghe và người nói. Ta hãy hiểu chữ ngôn ngữ ở đây theo nghĩa những
phương thức diễn đạt, những lề lối diễn đạt. Ngôn ngữ thiền
tông chẳng hạn, thực là đặc biệt. Có khi là một cái vẫy tay, có khi
là một cuộc đối thoại mà người ngoại cuộc không hiểu Ất Giáp gì cả,
có khi là một bài kệ hay một câu chuyện đi thẳng vào lòng người không
cần qua trung gian phân tích suy luận. Ngôn ngữ giác ngộ luôn luôn là ngôn
ngữ cho một thời đại nào, cho một lớp người nào, chứ không phải là
ngôn ngữ cho muôn thời và muôn xứ. Ngôn ngữ giác ngộ là một phương tiện
diễn đạt và hướng dẫn sự thực hiện giác ngộ và sự áp dụng giác
ngộ đó trong cuộc đời. Và bởi vì con người của mỗi thời đại một
khác, mỗi xã hội một khác, nên ngôn ngữ giác ngộ phải thích hợp với
thời gian, phương sở, trí tuệ và tâm lý con người.
Trước hết ta phân biệt những
nguyên lý Phật giáo linh động và giàu có mà người đạt đạo có thể
xúc tiếp thẳng tới được, và những phương tiện diễn đạt các nguyên
lý ấy cho hợp thời hợp cảnh, những phương tiện mà ta gọi là
"pháp môn" (cửa đi vào chân lý) hay là những hệ thống giáo lý
thích hợp với từng thời đại, từng phương sở. Các nguyên lý ấy, theo
Thiền Tông, không có thể diễn tả trực tiếp được mà chỉ có thể tự
mình thực nghiệm (thân chứng). Ngôn ngữ chỉ có giá trị hết sức tương
đối và chỉ có thể làm những đồ án chỉ dẫn cho sự thực nghiệm mà
thôi. Thế cho nên qua lịch sử hai ngàn năm trăm năm Phật học đã có biết
bao nhiêu hình thái ngôn ngữ, bao nhiêu hệ thống giáo lý để cố gắng diễn
tả sự chứng ngộ trong cuộc đời. Bao nhiêu tông phái đã thành lập.
Các vị thiền sư ngộ đạo nếu không viết sách thì cũng để lại những
bài thơ bài kệ hay các mẩu đối thoại còn được ghi trong các cuốn ngữ
lục. Ngày nay xã hội đã biến đổi một cách căn bản, những phương thức
diễn đạt cũ, những hệ thống giáo lý cũ có thể không còn thích hợp
hoặc có thể không gây nổi sự cảm thông với con người mới trong xã hội
mới. Cho nên ngôn ngữ Phật học phải hợp với thời cơ, pháp môn của
thời đại phải đáp ứng được với nhu cầu của thời đại. Mà pháp
môn ấy, giáo lý ấy không thể do sự suy tư trong tháp ngà mà sản xuất
ra. Đó phải do sự chứng ngộ đích thực tuôn trào ra, phải được đặt
trên nền tảng khế lý và khế cơ. Khế ly頬à không trái chống với những nguyên lý Phật học,
nói một các khác hơn, là bắt nguồn từ sự giác ngộ. Khế cơ nghĩa là
phù hợp với khát vọng nhu cầu và lề lối nhận thức của con người mới,
của xã hội mới. Có được hai tính chất khế lý và khế cơ rồi thì
ngôn ngữ Phật giáo sẽ tràn đầy sinh lực, sẽ đủ hiệu lực hướng dẫn
được cho con người trong công cuộc thực nghiệm chân lý và thể hiện
chân lý trong sự sống. Chứng ngộ không có nghĩa là nghe và đọc xong giáo
lý bằng lý trí suy luận. Nghe và đọc chỉ mới là giai đoạn đầu của
sự thực nghiệm giáo lý trong quá trình văn, tư, tu, chứng (nghe, suy tư, thực
nghiệm và chứng ngộ). Như đã nói trên, ngôn ngữ giác ngộ chỉ là phương
tiện chỉ dẫn cũng như chiếc bè dùng để qua sông, chiếc bè không phải
là sự sang sông; cũng như ngón tay chỉ mặt trăng, ngón tay không phải mặt
trăng (1). Nếu ôm chặt ngón tay và
cho là mặt trăng thì không bao giờ thấy được mặt trăng. Phải nương vào
ngón tay như một phương tiện để thấy được mặt trăng. Cũng vì không
muốn cho môn đệ chấp chặt rằng kinh điển là chân lý mà thật ra chỉ
là phương tiện chỉ bày chân lý cho nên đức Phật đã nói: "trong bốn
mươi chín năm thuyết pháp ta chưa từng thuyết một chữ." Và chấp lấy
phương tiện làm cứu cánh tức là làm oan ức cho chư Phật, mà bỏ mất
phương tiện đi thì cũng không có cách gì đạt đến cứu cánh (2). Những người không thực tập, không
tham thiền, không đem thân mệnh mình đi vào thế giới thực nghiệm tâm
linh thì sẽ không có chứng ngộ, dù chứng ngộ ít đi nữa, và do đó
không có gì để diễn tả cả. Dù có diễn tả thì cũng diễn tả một mớ
suy tư về huyền học, một mớ tưởng tượng về chân lý hoặc lập lại
những điều ngày xưa các bậc tiền bối đã nói. Nhưng tất cả những cố
gắng đó đều không có hiệu quả. Diễn tả một mớ suy tư về huyền học
thì không thổi được sinh lực vào sự sống; và ngôn ngữ, dù mang danh
là ngôn ngữ đạo Phật, sẽ không chứa đựng sinh khí của sự đạt đạo,
của sự phát minh. Ngôn ngữ ấy không hướng dẫn được thực nghiệm, không
lay chuyển được con người, không đủ sức tạo nên lực lượng cải tạo
nếp sống cá nhân, hướng dẫn sự sống xã hội. Còn lập lại những điều
cổ nhân nói thì chỉ là làm công việc của một chiếc máy hát hay một
con vẹt. Ngôn ngữ đó sẽ không thích hợp, không đi được vào lòng người,
không phù hợp với những nhu cầu mới, băn khoăn mới, thắc mắc mới của
con người. Và cũng do đó, sự vắng mặt của ngôn ngữ đạo đức đích
thực chứng tỏ sự vắng mặt của đạo đức đích thực, nói một cách
khác hơn, chứng tỏ sự vắng mặt của những kẻ đạt đạo.
Nếu có sự hiện diện của những
kẻ đạt đạo thì tự nhiên có tiếng nói của đạo Phật, bởi vì kẻ
đạt đạo không thể thờ ơ với cuộc sống dù là với cuộc sống đầy
dẫy những vấn đề khó khăn hiện tại. Có sự hiện diện của kẻ đạt
đạo tức là sớm muộn gì cũng có tiếng nói của họ, và tiếng nói ấy
là một pháp môn, một giáo lý, một prajnapti cho thời đại. Ta vẫn còn
tin tưởng rằng dòng giống của người đạt đạo chưa tuyệt diệt. Ta phải
sửa soạn tâm hồn cho thanh tịnh để có thể nghe tiếng nói của ngôn ngữ
giác ngộ, lắm lúc đơn giản vắn tắt nhưng là cứu tinh của thế hệ
chúng ta.
Nếu pháp môn của thời đại phải
khế lý và khế cơ thì pháp môn ấy phải do người của thời đại khai
thị. Khai thị nghĩa là mở bày, chỉ dẫn. Mà người của thời đại có
công phu thực nghiệm tâm linh, có nhận thức thâm thiết về trạng huống
và những vấn đề cấp thiết của cuộc đời, thì chỉ có những vị
trong hai dòng tu Thể Nhập và Tiếp Hiện. Một bên thì tràn đầy
giác ngộ (lý), một bên thì thông hiểu căn cơ (cơ). Công trình của một
ngôn ngữ đạo đức của thời đại, như thế, phải là một công trình của
cả hai bên cùng chung một thao thức là đem đạo Phật đi vào cuộc đời.
_________________
(1) "Nhất thiết tu đa la giáo
như tiêu nguyệt chỉ."
(2) "Y kinh giải nghĩa tam thế
Phật oan, ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết."
Ngày xưa những vấn đề xã hội
và con người đơn giản hơn bây giờ nhiều. Ngày xưa, chỉ có nhu yếu về
sự hiện diện của một số người đạt đạo và dạy dỗ luân lý đạo
đức cho quần chúng. Ngày nay sự dạy dỗ thuyết pháp thiếu hẳn hiệu lực.
Tâm lý con người vô cùng phức tạp, trí tuệ con người vô cùng thắc mắc,
sự sống con người vô cùng đau ốm, xã hội con người trình bày nhiều vấn
đề vô cùng rắc rối. Pháp môn không còn có thể chỉ là những pháp môn
chỉ dẫn cho cá nhân tu tập và dạy dỗ cho người bạch y biết pháp thức
cúng dường, giữ tam qui ngũ giới. Pháp môn phải là một pháp môn đáp
ứng lại được những nhu cầu giáo dục, văn hóa, kinh tế, xã hội,
chính trị, vân vân… Và vì, đạo Phật phải có mặt trong mọi cơ cấu xã
hội, người Phật tử phải có lý thuyết (pháp môn) của thời đại về
giáo dục, văn hóa, kinh tế, xã hội, chính trị…
Không có lý thuyết ấy, không có
pháp môn ấy, nói tóm lại, không có ngôn ngữ chính thức của đạo đức
thời đại thì người Phật tử biết nương vào đâu, nương vào đường
lối nào, vào sự hướng dẫn nào mà thể hiện Phật pháp vào cuộc đời
? Không tiếp thì làm sao có thể hiện ?
Cho nên muốn đạo Phật có mặt
trong cuộc đời thì phải có ngôn ngữ mới, pháp môn mới. Trí tuệ đạt
đạo phải quán chiếu vào tình trạng tâm lý, sinh lý và xã hội của con
người mới trên con đường thực nghiệm thiền quán để chứng ngộ. Trí
tuệ đạt đạo phải phối hợp với kiến thức chuyên môn về giáo dục
và về hiện tình giáo dục để cấu tạo nên pháp môn hướng dẫn nền
giáo dục mới. Trí tuệ đạt đạo phải phối hợp với kiến thức chuyên
môn về văn hóa và về hiện tình văn hóa để có thể cấu tạo nên một
pháp môn hướng dẫn nền văn hóa mới. Trong các địa vực kinh tế, xã hội,
chính trị, nông thôn, vân vân… cũng phải có những hoạt động tương tợ.
Nói tóm lại, căn cứ trên những nguyên lý Phật giáo, nói đúng hơn, trên
sự chứng đạt những nguyên lý Phật giáo, người Phật tử phải xây dựng
những lý thuyết về giáo dục, văn hóa, kinh tế, xã hội, chính trị, vân
vân… để ngôn ngữ của đạo Phật được có mặt trong cuộc đời, làm
điều kiện cho sự có mặt của mọi hoạt động đạo pháp trong mọi cơ
sở của cuộc đời. Chừng nào chưa có những lý thuyết cho thời gian và
phương sở hiện tại về các vấn đề ấy, chừng đó đạo Phật vẫn
chưa hoàn toàn có mặt. Cũng nên nhắc lại rằng các lý thuyết đó, các
pháp môn đó không phải chỉ là những xây dựng căn cứ trên suy luận
suông. Phải có nền tảng trên sự thực chứng, tức là phải khế lý. Và
cũng không được lý tưởng quá để xa lìa sự thực, tức là phải khế
cơ. Cố nhiên Pháp môn sẽ là pháp môn của thời đại của phương sở mà
không phải là của muôn thời và muôn xứ.
Thực tế mà nói, ta chưa thấy Giáo
Hội Phật Giáo sắp đặt sự gặp gỡ giữa các bậc cao tăng chân tu với
các nhà giáo dục chuyên môn của xứ sở. Như vậy là ta chưa có pháp môn
về đường lối và kế hoạch giáo dục. Về văn hóa và về chính trị
thì còn khả khứ. Còn về kinh tế, xã hội, thì quả thực chưa có gì. Chưa
có một đường lối một kế hoạch kinh tế và xã hội nào cả. Bao giờ
đạo Phật có thể tham dự vào việc hướng dẫn phong trào của sự phân
phối hợp lý và công bình lợi tức sản xuất, có thể gây niềm tin cho
quần chúng về một đường hướng kinh tế nhân bản, đạo đức, thiết
lập trên quan điểm tứ diệu đế ? Bao giờ hoạt động xã hội mới vượt
được cái phạm vi nhỏ bé và mệt nhọc của công tác từ thiện, nhỏ giọt
từng giọt trên cái thiếu thốn khát khao vô biên của những kẻ đau khổ
để hướng dẫn một phong trào cách mạng xã hội căn cứ trên tình thương
và trên nguyên lý bất bạo động ? Giáo hội cần phải cố gắng nhiều hơn
nữa và Phật tử cần phải ý thức nhiều hơn nữa.
Như trên đã nói, pháp môn bao giờ
cũng được thích hợp với thời đại và phương sở để có thể được
gọi là một pháp môn. Căn cứ trên nguyên lý đạt đạo, có thể thiết lập
tám vạn bốn ngàn pháp môn, nghĩa là rất nhiều pháp môn. Tất cả
các pháp môn ấy trong thời gian và không gian mang màu sắc dị biệt, nhưng
trên phương tiện bản chất vẫn được căn cứ trên cùng những nguyên
lý, cùng phát xuất từ một nguồn suối đạt đạo nhiệm mầu. Bởi vậy
sự khác biệt và có khi trái chống giữa các pháp môn với nhau chỉ là sự
dĩ nhiên, không có gì đáng để ta ngạc nhiên cả. Thời đại mới, địa
phương mới, điều kiện xã hội mới bắt buộc phải có những pháp môn
mới. Luân lý và tập tục cổ truyền, nói một cách khác hơn, những pháp
môn đã được ứng dụng trong quá khứ không thể là một sự cản trở,
một chướng ngại cho sự tinh luyện và xây dựng nên những pháp môn mới.
Ví dụ ngày xưa người tu sĩ không được đi vào nơi quân trung, nhưng ngày
nay nhu cầu xã hội với tư cách những nhà tuyên úy. Ví dụ ngày xưa người
tu sĩ sinh hoạt trên nền tảng cung dưỡng, ngày nay người tu sĩ cần tự
túc để thoát khỏi những ràng buộc vô lý của những kẻ bạch y chưa hiểu
đạo. Ví dụ thời đại Long Thọ cần giáo lý không tuệ để phá
chấp Hữu bộ, và thời đại Thế Thân cần giáo lý Duy thức để tổng
hợp Hữu bộ và Không bộ. Trong lịch sử giáo lý Phật giáo đã có bao
nhiêu sự chuyển mình của đạo Phật để hình thành những hệ thống
giáo lý mới. Mà mỗi lần chuyển mình để hình thành được một hệ thống
khế lý khế cơ như thế, sinh lực của đạo Phật lại được thổi vào
từng luồng mạnh mẽ. Nhờ đó mà đạo Phật phát triển mạnh mẽ không
cần đến kế hoạch truyền giáo. Và cũng do đó mà đạo Phật được xem
như là một nền văn hóa tư tưởng hoàn toàn tự do chứ không phải là một
hệ thống những giáo điều cứng cỏi. Những giáo lý căn bản của đạo
Phật phải được nhận thức như những nguyên tắc hành động chứ không
phải những giáo điều. Ví dụ giáo lý Tứ diệu đế và Bát chánh đạo.
Trong giáo lý Tứ diệu đế ta thấy đức Phật đặt nguyên tắc và chỉ
bày phương pháp để giải quyết bất cứ mọi vấn đề nào. Trước hết
là sự trình bày trạng huống thực tại, với những vấn đề mà con người
phải xác nhận sự hiện hữu để mà giải quyết. Những đau thương, khó
khăn và thắc mắc của con người cần được trình bày minh bạch và
chính xác trong phần đệ nhất đế ấy. Và sang đến phần thứ hai,
đệ nhị đế, con người phải đi sâu vào sự khảo sát các nguyên
nhân, khảo sát một cách khách quan và kỹ lưỡng tất cả những nguyên do
nào đã làm phát sinh ra trạng huống được trình bày trong phần thứ nhất.
Phần thứ ba, đệ tam đế, là sự xác định rằng nếu có những
nguyên do trình bày trong phần thứ hai thì chắc chắn là sự cải biến trạng
huống trình bày tiêu diệt những nguyên do trình bày trong phần thứ hai ấy.
Và trong phần thứ tư, đệ tứ đế, con người đi tìm phương pháp
thích hợp, con đường thích hợp để thực hiện sự cải biến được trình
bày nơi phần thứ ba. Ta không thấy giáo điều nào cả mà chỉ có những
nguyên lý hành động.
Về Bát chính đạo cũng vậy. Bát
chính đạo nêu rõ tầm liên hệ giữa thân khẩu ý và giới định tuệ trên
quá trình hành đạo và chứng đạo. Ta chỉ thấy kiến giải chân chính, tư
duy chân chính, ngôn thuyết chân chính v.v…, mà không thấy quy định kiến
giải những gì thì mới chân chính, tư duy những gì thì mới chân chính,
ngôn thuyết những gì thì mới chân chính. Thì ra đó chỉ là nguyên lý mà
không phải là luân lý. Nếu đạo Phật chỉ là luân lý thì khỏe cho người
hành đạo biết bao ! Chỉ cần đọc trong một cuốn kinh xem ta phải làm những
gì và tránh những gì, cuốn kinh sẽ như một bản liệt kê thật dài những
điều phải làm và những điều không nên làm. Trái lại, giáo lý chỉ hướng
dẫn phương pháp thực hiện, chỉ nói rằng nên làm theo nguyên lý này và
thực nghiệm theo phương pháp kia, mà thôi.
Cho nên học Phật là đào sâu vào
kinh nghiệm tâm linh để nắm lấy nguyên lý, để thực hiện nguyên lý và
để đạt đạo. Đạt đạo rồi thì không cần một bộ luật nào cả,
không cần một sách chỉ nam nào cả, không cần một nền luân lý nào cả.
Người đạt đạo ăn ngủ là đạo, thuyết pháp là đạo, ăn rau cũng là
đạo mà ăn thịt cá cũng là đạo nữa. Những người chưa đạt đạo thì
không thể bắt chước họ được (1).
Cho nên ta thấy rất rõ tầm quan trọng
của sự thực chứng. Có sự thực chứng thì tất nhiên có sự lưu nhuận
của sinh lực đạo đức còn nếu chỉ có sự truyền bá và ca tụng về
những giáo lý mà thôi thì xã hội và con người vẫn không được thay đổi.
Ngôn ngữ và ý tưởng đạo đức của một thời đại không có thực chứng
chỉ là ngôn ngữ và ý tưởng vay mượn ở một thời đại khác. Đó chỉ
là cặn bã của thực chứng mà không phải là thực chứng. Đó là những
lời chế, những ý chết, không đủ sức và không thể làm khơi dậy trong
tâm tư con người thời đại một nguồn cảm hứng mới, một sinh khí mới.
Lịch sử văn hóa cho biết rằng bất cứ nguồn sinh lực tinh thần nào của
nhân loại cũng bị tàn hoại bằng cách trở nên những di sản hình thức
khô cứng, những ý chết và những lời chết không còn có tác dụng tâm
lý và xã hội nữa. Muốn duy trì nguồn sinh lực ấy, con người không thể
chỉ duy trì ngôn ngữ của nói. Phải giữ cho nguồn sinh lực kia được thể
hiện liên tục nơi tâm linh con người để đừng làm khô chết. Bất cứ
cuộc cách mệnh tinh thần nào của nhân loại cũng là một nỗ lực chống
lại những ngôn ngữ và tư tưởng khô chết đóng cứng trong óc người
như những chiếc vảy cá nguy hại và vô ích. Muốn cho ngôn ngữ và tư tưởng
đừng là những vật khô chết thì chỉ có một đường: đừng truyền bá
chúng và tiếp nhận chúng như những vật khô chết. Tất cả vấn đề là
ở đây: làm thế nào cho dòng thực chứng tâm linh được tiếp nối bất
đoạn, truyền sẽ là truyền tâm mà không chỉ là truyền ý. Ngôn ngữ một
ngày nào đó sẽ phản lại nội dung bởi lý do không còn phù hợp với thực
trạng của thời đại.
_________________
(1) Có một hôm Tuệ Trung Thượng
Sĩ (Trần Quốc Tảng) được thỉnh thọ trai trong cung Ngài gắp cả thịt
cá trên bàn mà không ý thức Hoàng hậu em Ngài hỏi: "anh tu mà còn ăn
mặn làm sao thành Phật ?." Ngài cười trả lời: " Phật là Phật,
anh là anh, anh không cần thành ra Phật, Phật cũng không cần thành ra
anh."
Có một dòng thực chứng tâm linh nối
tiếp thì sẽ luôn luôn có những ngôn ngữ những pháp môn dị biệt được
sử dụng để nhắm đến sự thể hiện thực chứng ấy trong cuộc đời.
Cho nên lý thuyết hành động của đạo Phật (pháp môn) luôn luôn được
phát xuất từ nguồn thực chứng và được dựng trên căn bản những điều
kiện thực hiện trong hiện tại của xã hội và của con người. Thiếu một
trong hai điều kiện ấy thì bất thành. Và cũng vì thế pháp môn phải
luôn luôn biến đổi để có thể đi sát với thực tại, sự biến đổi
đó cố nhiên cũng không có thể phản lại căn bản thực chứng. Sở dĩ tôi
phải nhấn mạnh đến điểm này hoài vì chính đây là điểm căn bản cho
mọi nhận định.
Cũng vì hai yếu tố quán lý (thực
chứng) và quán cơ (xúc tiếp với bộ mặt thực của cuộc đời) là hai yếu
tố căn bản của ngôn ngữ đạo Phật cho nên chúng ta phải đặt cho hai
nguồn nhận thức gặp nhau. Trong thời gian còn học tập ở các Phật học
viện, người sinh viên phải được học kỹ về những môn họ cần thiết
có thể giúp họ nhìn rõ được thực trạng xã hội, như giáo dục, văn hóa,
kinh tế chẳng hạn.
Cố nhiên cái học ấy phải được
đi đôi với cái học chuyên môn về tư tưởng Phật học, và mỗi người
nên đi sâu vào một khía cạnh của nếp sống xã hội để sau này dùng
trí tuệ Phật học quán chiếu khía cạnh ấy. Trong khi tinh luyện thành một
pháp môn hành hóa. Ví dụ như khi ta muốn đem đạo Phật xây dựng cơ cấu
gia đình thì ta phải có kiến thức về những khía cạnh sinh hoạt gia đình:
nào vấn đề lứa đôi, nào vấn đề giáo dục con cái, nào vấn đề nhân
quỹ gia đình, nào vấn đề sức khỏe gia đình, v.v… Thiếu những kiến
thức như thế thì không tài nào Phật hóa gia đình được. Hẳn nhiên ta
có thể cầu cứu đến những nhà chuyên môn về vấn đề khảo sát thực
trạng sinh hoạt toàn diện của tổ chức gia đình, nhưng ít ra ta cũng phải
có những kiến thức căn bản và xác thực. Phật học không phải là một
môn học có thể tách rời khỏi những vấn đề của sự sống. Trái lại,
ta chỉ có thể hiểu được Phật học qua những vấn đề của sự sống.
Phật học không phải là một nền huyền học. Những phương pháp để
áp dụng các nguyên lý Phật học chỉ có thể tìm thấy trong sự khảo
sát những vấn đề của sự sống. Cho nên ta không thể nói rằng đi vào
những vấn đề của sự sống là không còn thì giờ để học cái học
chuyên môn về Phật học. Có thể là trong một viện Phật học, môn học
về những vấn đề của sự sống, không đóng vai trò chủ yếu nhưng phải
đóng một vai trò khá quan trọng.
Với lại, cái học giúp cho ta có
nhận thức chính xác về cuộc đời là một cái học thực dụng, không
làm mất thì giờ như cái học chuyên môn để trở thành bác học. Nếu người
sinh viên Phật học cần phải học về kinh tế chẳng hạn, thì chỉ những
nét quan trọng và thực dụng của kinh tế học mới là cần thiết mà
thôi. Những gì có thể giúp cho người sinh viên có một cái nhìn chính
xác về thực trạng kinh tế, và về những vấn đề kinh tế được đặt
ra cho xã hội hiện giờ, mới chính là những kiến thức cần thiết. Người
sinh viên Phật học không còn tìm học những đề tài xa xôi có tính cách
bác học nhưng thiếu tính cách thực dụng như tư tưởng kinh tế của xã
hội Do Thái ngày xưa hoặc lịch sử kinh tế Bắc Phi chẳng hạn. Cố nhiên
những kiến thức như thế rồi cũng có lợi, nhưng ai cũng biết chúng
không quan trọng lắm đối với người sinh viên Phật học.
Về kinh tế đã vậy thì về giáo
dục, văn hóa vân vân cũng thế, cho nên một Viện Phật học phải là một
cơ sở cung cấp hai nguồn kiến thức căn bản sau đây :
- Kiến thức về Phật học và phương pháp (pháp
môn) thể nghiệm chân lý Phật học bằng bản thân, bằng tâm linh.
- Kiến thức về các vấn đề quan trọng của sự
sống và phương pháp (pháp môn) giải quyết những vấn đề ấy bằng các
nguyên lý Phật học. Phần thứ nhất không nên được giảng giải như một
triết học khô khan như ở trường đại học khác mà phải được giảng
dạy bằng ngôn ngữ và thái độ của người muốn thao thức trao truyền
sinh lực đạt đạo. Cũng vì thế, cũng vì tránh sự khô khan và nguy hại
của cái học bằng ngôn ngữ khô chết mà các sinh viên và các nhà tu Tiếp
hiện phải được gần gũi các nhà tu phái Thể nhập trong một mùa an cư
ba tháng mỗi năm. Họ cần được thấy, được nghe, được cảm và được
thực tập công việc thể nghiệm.
Rút từ nhận thức trên ta thấy
các môn học về những vấn đề của sự sống, những môn học thuộc
tâm lý, giáo dục, y tế, kinh tế, văn hóa vân vân, phải được tổ chức
và giảng dạy ở các viện Phật học một cách thiết thực, khác hẳn với
sự giảng dạy chuộng tính cách bác học khô khan ở các trường đại học
khác. Điều này đòi hỏi sự giác ngộ và nỗ lực của giới trí thức
hiện đại, một giới biết rất nhiều chuyện nhưng còn cách xa cuộc đời
một cách đáng kể. Những sinh viên Phật học không nên ghi tên ở các chứng
chỉ văn hóa, kinh tế, xã hội, giáo dục ở các trường bên cạnh bởi
vì sẽ phải học nhiều quá những điều không đóng góp thiết thực vào
sự nhận thức các vấn đề thực tại của sự sống. Các môn học như
thế phải được tổ chức tại các viện Phật học một cách có phương
pháp với một tinh thần đích thực cách mạng. Một sinh viên Phật học thực
ra không cần biết giải một phương trình bậc tư hay không thuộc những
thành ngữ những điển tích trong truyện Kiều. Người sinh viên Phật học
cần dồn năng lực và thì giờ vào những vấn đề trọng yếu và thiết
thực nhất của sự sống hiện tại.
Kiến giải xác thực về tâm lý
và ước vọng người dân nông thôn cũng như người dân thành thị, những
nhu cầu của họ, những điều ấy cần phải được liệt kê trong chương
trình Phật học (và trong số những đề tài tham thiền nữa) chứ không thể
được coi như là những môn học phụ của chương trình. Những môn như tôn
giáo tỷ giảo, tôn giáo sử, triết học Duy thức, triết học Bát nhã, Thiền
vân vân…, phải được xếp cạnh các môn học kia với ý thức là chúng
có những liên hệ mật thiết. Không nên dạy và học những môn ấy như
những môn cổ học, những nền triết học tuy thâm sâu nhưng không dính
líu đến sự sống. Thực ra tất cả các hệ thống giáo lý đều đã được
thành lập căn cứ trên con người, vì con người, để hướng dẫn sự thể
nhập và thực hiện. Nếu người sinh viên Phật học học xong một chứng
chỉ về triết học Bát nhã chẳng hạn, mà không thấy có chút liên hệ
nào giữa triết học Bát nhã và một vài vấn đề của sự sống, ấy là
môn học không được giảng dạy theo tinh thần khế cơ của đạo Phật.
Cho nên muốn phân biệt ngôn ngữ của một dòng đạo đức sống động với
những cái xác một dòng đạo đức khô cạn thì chỉ cần xét xem các lý
thuyết và pháp môn mà đạo Phật đang truyền bá có hướng đến sự giải
quyết một cách thực tế vấn đề thực chứng (bản thân) và thể hiện
(áp dụng vào sự sống) không, có mang nguồn sinh lực vào cuộc đời, gây
cảm hứng và biến đổi cuộc đời hay không. Và ngôn ngữ đích thực của
đạo đức chứng minh sự hiện diện đích thực của đạo đức vậy.
3.-
Sự hiện diện hữu hành của đạo đức
Sự hiện diện hữu hành của đạo
đức tức là sự hiện diện của những hoạt động nhằm thể hiện sức
sống của đạo pháp trên những khía cạnh khác nhau của cuộc đời. Trên
các phương diện giáo dục, kinh tế và văn hóa những hoạt động ấy phản
chiếu ngôn ngữ của chứng ngộ và góp phần vào sự xây dựng một nếp
sống xã hội tốt đẹp, và sự giải quyết những vấn đề khổ đau của
thời đại và của địa phương. Cố nhiên bản chất của những hoạt động
này phải được bắt nguồn từ thực chứng và những hoạt động này phải
thể hiện được thực chứng. Nếu không, những hoạt động này sẽ chỉ
là những gì được phát khởi do ý niệm danh lợi và như thế chỉ gây ra
rối loạn cho xã hội mà không giải quyết được gì cho xã hội. Đứng về
phương diện lý thuyết, những vọng tưởng của con người về chân lý
có thể khiến cho con người tin đó là chân lý tuyệt đối và trở nên cuồng
tín trong lúc náo nức muốn thực hiện những điều do các vọng tưởng
ấy phác họa. Sự hiện diện hữu hành của đạo đức không thể phát khởi
từ vọng tưởng và những suy tư huyền học. Có thực chứng thì mới có
bản chất của đạo đức, và như thế cái hành mới mang theo nó
sinh khí và thực giá của đạo đức. Nếu không, dầu có hành bao nhiêu
đi nữa thì cái hành ấy cũng không thể cải biến được thực tại
mà chỉ gây rối thêm cho thực tại. Thế giới rối loạn chính không phải
vì thiếu người hành mà chính vì có quá nhiều người hành.
Cái hành không phát xuất từ nguồn suối của thực chứng.
Khi người Phật tử nắm được những
nguyên lý hành đạo, người Phật tử sẽ đi vào cuộc đời với tinh thần
vô trước để mà hành đạo, nói một cách khác hơn, để mà chứng tỏ sự
hiện diện hữu hành của đạo trong cuộc đời. Và cố nhiên những nhãn
hiệu những hình thức và những danh từ không thể nào chứng tỏ sự hiện
diện đó. Nếu người Phật tử nhắm đến sự phụng sự những nhãn hiệu,
hình thức và những danh từ ấy tức là chưa đạt được tinh thần vô trước
và do đó hoạt động của người kia chưa phải là hoạt động đích thực
của đạo pháp.
Ngôn ngữ đạo đức chỉ là phương
tiện truyền đạt và hướng dẫn sự thực hiện đạo đức. Đó không phải
là những gì cần phải tôn thờ như những tín điều bất khả xâm phạm.
Đó là những phương tiện mà không phải cứu cánh, là "ngón tay chỉ
mặt trăng chứ không phải là mặt trăng." Kinh Kim Cương có nói đến
ví dụ chiếc bè đưa người sang sông, sang sông rồi thì phải rời bỏ
chiếc bè. Những hình thái và những phương tiện hành đạo (hành đạo
quan trọng hơn truyền đạo) kể cả ngôn ngữ, lý thuyết, đều chỉ là
những phương tiện đưa tới thể nhập và thực hiện. Không nên vì những
thứ ấy mà tranh chấp, mưu toan, gây khổ cho nhau. Chỉ có tinh thần thực
chứng của đạo đức là phải được bảo vệ bằng tất cả mọi giá của
sự cố gắng. Bảo tồn được tinh thần Phật giáo thì dù có hy sinh những
chiếc bè cũng không sao. Tóm lại là những hoạt động hành đạo của
người Phật tử trong sự sống xã hội phải bắt nguồn từ thực chứng,
phải nhắm đến sự giải quyết những vấn đề cấp bách đau khổ của
con người, những vấn đề đói khát, bệnh tật, nô lệ và chết chóc của
con người chứ không phải nhắm đến sự bành trướng thế lực và uy quyền
của một giáo hội. Đạo Phật xuất hiện vì con người chứ không phải
vì đạo Phật. Con người thực hành đạo Phật là để làm giảm bớt khổ
đau của chính mình và của những người chung quanh mình, chứ không phải
là vì để làm cho đạo Phật thêm uy quyền thêm thế lực. Nhận định
được như thế, con người mới biết được cách sử dụng chiếc bè cứu
khổ mà không dại dột mang chiếc bè trên vai trong một thái độ tôn thờ.
Đi vào cuộc đời bằng thái độ và tâm niệm ấy, người Phật tử không
mang theo một chiếc vỏ cứng nào cả và sẵn sàng đón nhận hợp tác với
tất cả những ai có thiện tâm thiện chí. Biết bao nhiêu thành kiến và cố
chấp có thể tiêu diệt khi tinh thần vô trước ấy được thực hiện.
Cho nên người Phật tử khi đi vào
cuộc đời phải đừng nghĩ rằng: tôi làm cái này là vì đạo Phật, tôi
làm cái kia là vì đạo Phật. Phải nên quên "đạo Phật" đi, quên
rằng mình là "người Phật tử đi." Có quên như thế thì mình mới
thực là người của đạo Phật, mình mới thực là Phật tử. Hãy hành động
bằng thương yêu, bằng hỷ xả, hành động theo những nguyên lý đạo Phật
để thực hiện an lạc cho cuộc đời, mà đừng hành động vì bản ngã
tôn giáo. Cái bản ngã ấy không có trong đạo Phật và trong bất cứ một
nền đạo đức nào chân chính. Bất cứ một phong trào xã hội nào nếu
muốn thành công cũng phải gây được hứng cảm trong quần chúng trước
đã. Hứng cảm ấy được đi kèm với một đức tin: người Phật tử đi
vào cuộc đời cần gây được niềm tin cần thiết ấy và phát khởi được
nguồn hứng cảm quan trọng ấy. Ít khi một chính quyền có thể gây được
niềm tin và nguồn hứng cảm. Nhưng đạo Phật với một thế hệ người
biết sống đồng lao cộng khổ với quần chúng, biết phụng sự lý tưởng
xã hội vô ngã và vô trước, biết khinh thường địa vị và quyền lợi
thì chắc chắn sẽ gây được niềm tin ấy và khơi mở được nguồn hứng
cảm ấy. Tất cả còn tùy ở sự thấu đạt nguyên lý đạo Phật và ở
động cơ tâm lý của người hành đạo. Ta thấy rằng bản chất đạo đức
và sự gạn lọc tâm hồn quan trọng biết bao.
Trong những thời kỳ suy đồi, đạo
Phật Việt Nam dưới mắt kẻ bàng quan chỉ là một hình thức tín ngưỡng
bình dân. Thực ra, đạo Phật có một nếp sống sinh hoạt tâm linh rất
cao siêu và phong phú, một năng lực sinh hoạt lớn lao tiềm ẩn cần được
thể hiện và phát hiện trong cuộc đời. Trong giai đoạn hiện tại cũng
như trong những thời đại Lý Trần, người trí thức và thanh niên đã hé
thấy được nguồn sinh lực ấy của đạo Phật. Sự thực hiện giờ cho
ta thấy có cả một thế hệ muốn đem năng lực và tuổi xanh của họ để
phụng sự cho lý tưởng đạo Phật, lý tưởng của tình thương, không hận
thù, không cố chấp, không danh lợi. Nhưng họ đang gặp khó khăn. Công cuộc
hiện đại hóa đạo Phật chỉ mới được khởi đầu với những vấn đề
to tát của nó, về cả ba phương diện giáo lý, giáo chế và giáo sản. Đứng
về phương diện giáo lý, ngôn ngữ đạo Phật chưa đủ khả năng
chỉ bày cho người thanh niên thấy rõ con đường thực hiện đạo Phật
trong cuộc đời, nghĩa là trong mọi khía cạnh giáo dục, kinh tế, chính trị
v.v… của xã hội. Phải cần có thêm những trường Cao đẳng Phật học,
phải cần có rất nhiều những cuộc gặp gỡ giữa nguyên lý đạo Phật
và kiến thức chuyên môn về những vấn đề thúc bách của sự sống.
Nói tóm lại, lý thuyết của đạo Phật cho thời đại chưa được tượng
hình rõ rệt và cần có một ý thức xúc tiến đầy thao thức và cố gắng.
Đứng về phương diện giáo chế,
sinh hoạt người Phật tử xuất gia và tại gia chưa thoát được những thể
chế cổ điển không đủ sức để đưa đạo Phật đi hẳn vào trong lòng
cuộc đời. Số lượng các bậc Tăng Ni hướng dẫn quần chúng về sinh hoạt
tín ngưỡng vẫn còn ít ỏi thiếu thốn lắm. Lề lối tổ chức những Phật
Học Viện, chương trình tu học của người xuất gia v.v… vẫn chưa thoát
được thể chế xưa, vì vậy, số lượng Tăng Ni sinh không tăng lên được,
và số người ra trường mỗi năm không có gì đáng kể. Người thanh niên
Nam Nữ không thấy nếp sống tu học ấy thích hợp với những điều kiện,
ít nhất là tâm lý, của họ. Xã hội mới đòi hỏi hàng ngàn hoặc
hàng chục ngàn người Phật tử có chí nguyện đem cuộc đời mình để dâng
hiến cho đồng bào, cho nhân lọai. Họ phải được thu nhận, học tập và
đào luyện một cách hợp lý để có thể thực hiện lý tưởng của họ.
Về sinh hoạt nghi lễ, Giáo hội
cần có một dòng những nhà tu sĩ được đào tạo vững chãi về kiến thức
và khả năng về lễ nghi để đưa lễ và nhạc của đạo Phật tiến đến
những hình thức phù hợp với tâm lý và ngưỡng vọng của con người thời
đại. Lễ và Nhạc Phật giáo ngày xưa đã đạt đến một trình độ khá
cao, điều đó còn có thể thấy qua sự khảo cứu và lễ nhạc cổ điển.
Hình thức và nội dung Lễ và Nhạc bây giờ của đạo Phật quả thật đã
thua kém xa ngày trước và không biểu lộ được nếp sống tâm linh siêu
việt như lễ nhạc cổ điển. Ít có vị Tăng sĩ nào bây giờ có thể xướng
được những bài pháp ngữ tuyệt diệu, cử được một trong hằng trăm
những bài tán kệ mà âm nhạc đã biểu lộ được một sức sống tâm
linh hết sức phong phú của các thiền sư thuở trước. Lễ và Nhạc của
Phật giáo Việt Nam ngày nay chưa được tạo dựng để có thể phản chiếu
tâm lý ước vọng và dân tộc tính của con người. Nền lễ nhạc Phật
giáo ngày nay cần phải được thiết lập một cách nghiêm chỉnh, căn cứ
trên truyền thống cũ, chất liệu bây giờ và kỹ thuật mới. Phải có sự
gặp gỡ giữa nhà kiến trúc với nhà đạo học, giữa nhà âm nhạc và
nhà đạo học. Muốn cho nền lễ nhạc lấy được phong độ và hình thái
xứng đáng, Giáo hội phải đi tới sự thành lập một trường Cao Đẳng
Âm Nhạc Tôn Giáo. Những trường như thế đã hiện hữu từ lâu ở các nước
tiền tiến và cấp đến bằng Tiến sĩ âm nhạc tôn giáo. Ai cũng thấy
vai trò tối ư quan trọng của lễ nhạc tôn giáo. Cố nhiên thành lập một
trường như thế ở Việt Nam là khó khăn và đòi hỏi sự cố gắng của
các nhạc gia hữu tâm. Trong thời gian chờ đợi, ít ra phải có một ban
các nhà nhạc học để nghiên cứu lễ nhạc cổ điển Phật giáo các nước
Á Châu và nhất là Việt Nam để cung cấp chất liệu và kỹ thuật sáng
tác cho lễ nhạc mới. Kết quả của những sưu tầm nên được đem giảng
dạy tại các Viện Cao Đẳng Phật Học trong nước.
Về phương diện cố vấn giáo
lý, Giáo hội hiện đang cần một dòng những tu sĩ được đào luyện
vững chãi về khả năng diễn giảng giáo lý và khả năng áp dụng giáo
lý trong đời sống tâm lý cá nhân và đời sống gia đình. Nhà tu sĩ trong
dòng này sẽ có kiến thức cần thiết về tâm lý học để có thể có đủ
điều kiện khuyên nhủ, cố vấn và giải đáp những vấn đề thuộc phạm
vi tâm lý cho những ai cần đến. Lại cần phải có kiến thức về sinh hoạt
gia đình để gần gũi, hướng dẫn và giải quyết bằng những nguyên lý
và phương pháp đạo Phật những khó khăn cho những gia đình trong địa
phương, khi cần tới. Bằng cách hành đạo này, người tu sĩ mang bình yên
và hạnh phúc đến cho từng cá nhân từng gia đình đang hướng về tìm kiếm
lối thoát trong đạo Phật. Và như thế ít ra phải có những lớp chuyên về
tâm lý học và gia đình học, dạy tại các trường Cao Đẳng Phật Học
để chuẩn bị cho những sinh viên sau này muốn trở nên những nhà cố vấn
giáo lý.
Về phương diện giáo dục,
Giáo hội hiện đang cần một dòng tu sĩ chuyên môn về sự khai mở trí năng
và tâm huệ con người, không gò bó con người trong những mảnh vụn khô
chết của kiến thức. Nền giáo dục Phật giáo nhằm chỉ cho con người
Việt Nam thấy những trạng huống thực tại, những vấn đề cấp thiết
của đờisống xã hội Việt nam để tìm cách giải quyết, để sử dụng
những kiến thức một cách linh động và hữu hiệu trong sự tiến đến sự
giải quyết các vấn đề thiết thực của sự sống ấy, chứ không phải
để thu lượm những kiến thức không có ăn nhập gì vào với sự sống của
chính bản thân mình. Chúng ta biết rằng những trường tiểu học và trung
học Phật giáo đã được thành lập rất nhiều, nhất là ở miền Trung.
Chỉ trừ một số ít được chăm sóc cẩn thận còn ngoài ra đều không
phản chiếu được nền trí dục và đức dục Phật giáo. Giáo sư không
chuyên môn và đôi khi không hiểu được thế nào là tinh thần giáo dục
Phật giáo. Vì vậy sự hiện hữu của các trường ấy không có nghĩa gì,
ngoài cái nghĩa một danh từ trường này là trường Bồ Đề. Cho nên cần
phải có ngay các trường sư phạm Phật giáo, một mặt để đào tạo các
giáo sư mới, một mặt làm nơi tu nghiệp cho những giáo sư thiếu căn bản
về Phật học. Ai cũng biết là nền giáo dục Phật giáo sẽ chú trọng đến
sự khai phóng con người trên mọi mặt mà không chủ trương nhồi sọ con
người để con người trở nên cố chấp và cuồng tín. Biết bao nhiêu trường
học cần phải mở thêm ở thành thị và ở thôn quê theo nhu cầu của quần
chúng, nhất là quần chúng Phật tử. Và hiện nay trong nước lại có rất
nhiều các đoàn thể thanh niên Phật tử, sinh viên Phật tử, học sinh Phật
tử, Hướng đạo Phật tử, Gia đình Phật tử, v.v… Nhu cầu hướng dẫn
tinh thần theo nền giáo dục Phật giáo đã trở nên cấp bách. Dòng tu của
những nhà giáo vì vậy cần được thành lập để đảm nhiệm tương lai
của lớp hậu tiến.
Đứng về phương tiện y tế,
sự có mặt của người Phật tử trong các hoạt động y tế, nhất là y tế
nông thôn, thực là cần thiết hơn bao giờ hết. Những bệnh xá, những trạm
y tế nông thôn, được thiết lập ra nhiều trong tương lai, sẽ không mang
tính cách bố thí từ thiện nữa mà sẽ trở thành những nơi chẩn bệnh
và cung cấp thuốc men cho quần chúng với phí tổn người dân có thể đài
thọ được. Sau này trường y khoa của Viện đại học Phật giáo cũng cần
có bệnh viện riêng, vừa để làm một bệnh viện gương mẫu, vừa làm nơi
thực tập cho sinh viên. Trường cán sự y tế cần được thành lập sớm
hơn hết để đáp ứng với nhu cầu cấp bách hiện nay của ngành y tế
nông thôn của Giáo hội.
Đứng về phương diện kinh tế,
đạo Phật phải tích cực bước ngay vào một cuộc cách mạng xã hội căn
cứ trên tình thương và nguyên lý bất bạo động, để nâng cao mức sống
người dân Việt và san phẳn dần những bất công trong xã hội về phương
diện phân phối lợi tức. Căn cứ trên những điều kiện đặc biệt của
xứ sở, người Phật tử biết rằng xã hội Việt Nam không thể theo một
chính sách kinh tế chỉ huy cũng như không thể một chính sách kinh tế tư
bản tự do. Bao nhiêu hứa hẹn đã chẳng được thành tựu trong quá khứ.
Hiện tại, với lớp người biết sống đồng lao cộng khổ với quần chúng,
biết đi sâu vào xã hội để xây dựng và phù hợp với điều kiện xã hội
Việt Nam và phù hợp với tinh thần liên đới trách nhiệm về những khổ
đau chung của con người Việt Nam, chắc chắn đạo Phật có thể tạo dựng
được niềm tin và nguồn hứng khởi cho quốc dân trong công cuộc phát triển
và xây dựng kinh tế. Chỉ có niềm tin và nguồn hứng khởi mới là chất
liệu cho mọi cố gắng thiết thực ! Những trường cán sự kinh tế, cán
sự xây dựng nông thôn cần được thiết lập để cung cấp số người cần
thiết cho công việc. Hiện giờ đã có một số giáo sư và sinh viên đang
theo đuổi công việc thí nghiệm làm những "làng" kiểu mẫu căn cứ
trên quan điểm và lý thuyết xã hội Phật giáo. Đã có những làng rất
thành công. Sau khi hoàn tất những thí điểm đó, lý thuyết và kinh nghiệm
sẽ được dạy ở trường cán sự xã hội để đào tạo lớp người cần
thiết. Chữ xã hội ở đây có nghĩa một phong trào phát triển xã hội bằng
những lý thuyết có chứng nghiệm và bằng những hoạt động cụ thể để
cải tiến xã hội chứ không có nghĩa là những công tác "từ thiện"
hẹp hòi như lâu nay người ta thường nghĩ khi nghe nói đến những cái
"Ủy Ban xã hội Phật giáo" "công tác xã hội của đoàn"
chẳng hạn. Acharya Vinoba đơn thân độc mã trong xứ Ấn Độ mênh
mông đầy thành kiến, giai cấp, không có sự ủng hộ của một tập đoàn
xã hội đơn thuần nào cả mà đã có thể thành công trong việc thiết lập
ngót hai ngàn khu làng gramdan tượng trưng cho công cuộc cách mạng xã
hội bất bạo động. Ở Việt Nam, đa số quần chúng là Phật tử, biết
hưởng ứng lời kêu gọi của Giáo hội trong mọi công tác ích nước ích
dân chắc chắn tập đoàn Phật giáo sẽ thu hoạch thắng lợi vẻ vang gấp
ngàn lần. Huống nữa chúng ta đi trên một con đường được nghiên cứu
và chứng nghiệm kỹ càng, và sau cùng được sự ủng hộ của quốc dân
đã lao đao qua mấy mươi năm gian khổ.
Trong tất cả các lĩnh vực trên,
người tu sĩ Tiếp Hiện phải có mặt. Cố nhiên trong hiện tại ta đã thấy
xuất hiện ở trường học, nhà trường, nhà giữ trẻ, ở nha Tuyên Úy
quân đội…, hình bóng người tăng sĩ trẻ tuổi. Nhưng số lượng họ phải
được tăng lên cả hàng ngàn hoặc hàng chục ngàn lần mới đủ để thực
hiện công cuộc thể hiện. Nếu chính quyền thiếu phương tiện nhân lực
và yếu tố tâm lý nên chỉ có thể thực hiện được một phần nào những
điều cần thực hiện thì các tôn giáo phải có trách nhiệm gánh vác
chung, mỗi tôn giáo đóng góp với khả năng và phương pháp của riêng
mình. Quần chúng đang kỳ vọng rất nhiều ở đạo Phật. Thế hệ Phật
tử trẻ tuổi cần phải tự hiến cuộc đời mình trong các dòng tu Tiếp
Hiện. Các dòng tu này sẽ là những dòng tu làm việc, chín tháng trong mỗi
năm, và sẽ trở về tu viện để gần gũi các nhà tu Thể Nhập mỗi năm
ba tháng để được võ trang thêm về thực chất đạo đức tâm linh. Vì vậy
giới luật cũng như đời sống các nhà tu Tiếp Hiện sẽ không khắc
khổ như giới luật và đời sống của các nhà tu Thể Nhập chuyên
hiến trọn thì giờ cho thực nghiệm tu chứng. Và các nhà tu Tiếp Hiện,
sau khi tự thấy đã phụng sự vừa đủ trong phạm vi cuộc đời, có thể
phát nguyện để sống đời sống hoàn toàn tâm linh của các nhà tu Thể
Nhập.
Vấn đề người sẽ được giải
quyết nếu có một cuộc cách mệnh thực sự về giáo chế, nghĩa là phải
có thêm những dòng tu mới mà thể chế sinh hoạt phù hợp với khả năng
và lý tưởng của lớp người trai trẻ hiện tại, nam cũng như nữ; những
dòng tu để làm việc và như vậy có đòi hỏi kiến thức và khả năng
chuyên môn. Chừng nào chưa có sự thay đổi về giáo chế thì chừng đó vấn
đề Người vẫn chưa được giải quyết. Còn đứng về vấn đề phương
diện tài chính, ta không nên lo ngại. Từ trước đến giờ, giáo hội làm
được gì, các tăng sĩ làm được gì thì cũng do sự đóng góp cúng dường
của người bổn đạo. Chế độ cúng dường cố nhiên sẽ được duy trì
nhưng phải được thực hiện theo thể chế cúng dường tập thể.
Như thế vừa tránh được nạn phân biệt sư tư, vừa giúp cho sự phân phối
phương tiện tài chính một cách hợp lý trong công việc Phật sự. Lâu nay
chúng ta cứ nghĩ rằng làm một công việc xã hội là làm một công việc
từ thiện mà không nghĩ rằng công việc ấy trước hết phải có giá trị
chuyên môn của nó trước đã. Ví dụ như khi mở một trường mẫu giáo
ta chỉ nghĩ nhiều đến việc làm sao để miễn học phí thật nhiều cho
con nhà nghèo, vì vậy lấy thật rẻ tiền và thâu vào rất nhiều trẻ em.
Như thế, việc dạy không thể nào hay được, lý do là tiền thu vào ít,
cô giáo ăn lương khổ thì thường chỉ có cô giáo không chuyên môn về vườn
trẻ. Như vậy ta nhắm đến phần từ thiện và làm giảm giá trị của
công việc giáo dục, một điều có phương hại đến uy tín của trường
và của đạo Phật. Vậy đừng đặt vấn đề từ thiện là vấn đề
quan trọng nhất: trên các phương diện giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội
v.v… ta phải đi sâu vào chuyên môn và phải nhận thức rằng bằng những
phương tiện từ thiện không thôi, ta không thể đi xa được. Trở về thí
dụ trường mẫu giáo. Ta hãy lấy tiền học cao như các trường danh tiếng
khác, và khi trừ cho sở phí, tiền dư ra sẽ để cấp học bổng cho các
em nghèo. Giáo sư dạy có lương đàng hoàng mới là giáo sư giỏi, và có
thể làm việc lâu dài, còn sự phát tâm thì thường không bền lâu và hay
mệt mỏi. Dù muốn dù không, những vị tu sĩ thuộc các dòng tiếp hiện
đều phải có lương bổng như thường và tùy theo nhu cầu cá nhân, người
tu sĩ sử dụng số lương ấy và nếu có dư thì sẽ gởi về cúng dường
cho quỹ từ thiện trung ương. Các vị tu sĩ Tiếp hiện sẽ là những
sứ giả, những người công chức của giáo hội và sẽ là những bàn tay
phụng sự cho xã hội trên hướng chung của nền Phật giáo thời đại.
Quan niệm hoạt động xã hội như thế, ta thấy vấn đề tiền bạc không
còn khó khăn nữa. Chỉ khi nào làm việc thuần từ thiện bố thí thì ta mới
thấy lại những khó khăn kia mà thôi.
Những ước vọng đem đạo Phật vào
cuộc đời buộc chúng ta phải nghiên cứu mọi vấn đề của cuộc sống.
Đối với những kẻ có đức tin, những điều trình bày trên đây không
phải là những mong ước không thể thực hiện. Đạo Phật dạy: "Tất
cả đều do tâm tạo tác" (kinh Pháp Cú). Nếu toàn thể Phật tử hưởng
ứng đường lối "mang đạo Phật đi vào cuộc đời" do Giáo Hội
đề xướng thì không có trở lực nào mà ta không thể vượt qua.