- Đạo Phật Đi vào Cuộc
Đời
- Và Các Tiểu Luận Khác
- Thiền Sư Nhất Hạnh
- 3
- ĐỨC PHẬT CỦA THẾ KỶ
CHÚNG TA
1
Phật tử khi gặp những bước khó
khăn và những cảnh tượng bất như ý trên con đường hành đạo, thường
hay thở than "đời mạt pháp mà" với một ý thức cam chịu tiêu cực,
đôi khi chán nản nữa. Đời mạt pháp có nghĩa là giai đoạn Chánh pháp
đã suy vong, suy vong từ nội dung đến hình thức, suy vong từ nhận thức
đến hành trì. Mạt pháp có nghĩa là giáo pháp đã đến lúc cùng mạt. Ý
thức rằng giáo pháp đã đến thời cùng mạt, ai mà chẳng buồn, ai mà chẳng
nản ? Nhưng chúng ta không đau xót mấy vì ý thức ấy, bởi vì chúng ta
còn mang một niềm hy vọng chan chứa trong tâm hồn: đó là niềm hy vọng
ở đức Phật tương lai, đức Phật Di Lặc. Đức Phật Di Lặc sẽ ra đời
và chánh pháp lại sẽ được tỏ rạng. Mỗi khi nghĩ đến Đức Di Lặc,
tôi cứ tưởng tượng đó là một vị Phật có hào quang sáng ngời bao
quanh thân thể phương phi đẹp đẽ, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi
vẻ đẹp, đang phóng quang thuyết pháp cho đại chúng nhân thiên nghe. Ngài
ngự trên pháp tòa cao rộng, và tôi, tôi đang được quì dưới chân Ngài,
tai nghe lời Ngài, mắt thấy thân Ngài và mũi ngửi hương áo cà sa của
Ngài. Tôi thích quá. Và tôi đã chờ đợi. Tôi vẫn cứ nghĩ rằng Ngài sẽ
ra đời vào khoảng năm 1950 hay là 1960, hay muộn lắm là năm 1970. Ai biết
được đích là năm nào Ngài sẽ ra đời nhưng hồi đó, tôi đã quyết chắc
như vậy, nghĩa là sẽ ra đời muộn lắm là vào khoảng năm 1970, tức là
năm tôi 44 tuổi, nhiều hơn tuổi "bất hoặc" bốn năm. Ai cũng
than van đời này là đời mạt pháp thế thì Ngài còn sung sướng gì mà nấn
ná mãi ở nội viện Đâu Suất, không chịu hạ sinh để đốt đuốc chánh
pháp ở cõi Ta Bà ?
Ra đời ở đây có nghĩa là thành
đạo và bắt đầu thuyết pháp, chứ không phải là đản sinh. Nếu đản
sinh, thì tôi phải đợi Ngài xuất gia, thành đạo nghĩa là phải đợi ít
nhất 30 năm nữa ! Tôi đã 43 + 30 = 73 tuổi, già quá còn gì ! Lúc đó mà lại
phải khóc sướt mướt như đạo sĩ A Tư Đà nữa thì thật là nản quá.
Trên đây là những điều tôi mong
ước, suy nghĩ, tưởng tượng và dự đoán trong thời gian tôi còn ấu thơ.
Các bạn định hỏi tôi rằng hiện giờ tôi còn có tin như vậy nữa thôi,
có phải không ? Vâng, tôi còn tin như vậy, nhưng mà dưới một nhận thức
khác hơn, và tôi nghĩ, gần với đạo Phật hơn. Tôi thấy hình dung đức
Phật Di Lặc mà tôi phác họa trong trí tôi dạo ấy có vẻ công thức
quá, và ngây thơ nữa. Hình dung ấy, tôi đã cấu tạo nên bằng những đoạn
tả đức Phật thuyết pháp trong các kinh điển, bằng những bức họa về
Phật của người Trung Hoa và bằng những tưởng tượng quy ngưỡng của
riêng tôi. Tôi nghĩ rằng không lý đức Phật lại xuất hiện ở thế kỷ
chúng ta với một hình thức cổ điển và có tính cách hình thức như vậy.
Đức Phật của thế kỷ chúng ta sẽ là bực Chánh biến tri, thông hiểu văn
hóa sử nhân loại trên trái đất chúng ta, thấu đạt mọi ý thức hệ hiện
hữu soi rõ mọi tình tiết và tâm niệm của chúng ta. Ngài sẽ tạo nên nền
văn hóa tổng hợp của nhân loại, vạch con đường giải thoát cho nhân loại.
Chúng ta đang bị tắc lối, chúng ta đang bị ràng buộc bởi bao sợi dây
khổ đau, vô minh, phiền não, những thập triền thập sử mà thế kỷ
đã tạo nên và chúng ta đã dùng để tự buộc chúng ta. Trong kinh điển mới,
sẽ có những danh từ mới. Trong công cuộc hoằng pháp mới sẽ có những
phương thức mới. Trong sự tu tập giải phóng con người - ta và kẻ khác
- sẽ có những phương pháp mới. Làm sao những cái hết sức hiện đại
như vậy có thể biểu dương trong một hình thức cổ điển và ngây ngô
như tôi đã tưởng tượng mười mấy năm về trước ?
Có một hôm, tôi đọc kinh Kim
Cương đến các câu "bất khả dĩ tam thập nhị tướng kiến Như
Lai" (không thể nhận thức đức Như Lai qua một sắc thân có ba mươi
hai tướng đẹp) và "nhược dĩ sắc kiến ngã dĩ âm thanh cầu ngã, thị
nhân hành tà đạo bất năng kiến Như Lai" (kẻ nào muốn thấy Ta qua
hình sắc và âm thanh, kẻ ấy hành tà đạo, chẳng bao giờ thấy được
Ta), bất giác chợt hiểu rằng đức Phật của thế kỷ chúng ta sẽ không
dễ mà nhận biết được đâu. Ngài có thể không mang tên Từ Thị Di Lặc;
Ngài có thể không mang sắc thân tam thập nhị tướng; Ngài có thể không
tự xưng là Phật đà gia (Buddhaya); Ngài có thể không cần hai vị đứng hầu
hai bên; Ngài có thể không khoác y màu vàng; Ngài có thể… ôi tôi biết
nói làm sao cho hết, chỉ biết nói rằng Ngài có thể xuất hiện trong bất
cứ một hình thức nào, miễn Ngài là bậc Chánh biến tri, miễn Ngài là bậc
giải nguy cho nhân loại trong thế kỷ đấu tranh kiên cố, miễn Ngài là bậc
tạo nên văn hóa tổng hợp và dẫn đạo cho loài người về hòa bình, hạnh
phúc, giác ngộ và Niết Bàn. Nói một cách khác, Ngài là bậc đại nhân
có một nội dung tràn đầy Phật chất.
Tôi nói dông dài như trên chẳng
qua chỉ là để trở về với hai chữ mạt pháp. Bởi vì tôi quan niệm rằng
nguyên do của sự mạt pháp là tại ở người Phật tử từ lâu chỉ có
ý hướng bảo bọc sơn thếp một hình thức tôn giáo không còn chứa đựng
nội dung Phật chất.
Mạt pháp có nghĩa là bám víu tôn
thờ chấp chặt hình thức mà để cho nội dung tàn lụi. Nhưng mà các bạn
hãy cho tôi nói thẳng những cảm nghĩ chân thành của tôi. Phật chất cần
thiết mà tôi nói đây là sự chứng đắc, là sự tiếp xúc thường xuyên
giữa tâm linh và chân lý, giữa tâm linh và bản thể, giữa tâm linh và Niết
bàn. Phật chất ấy không biết đến hình thức, không biết đến hưng phế,
không biết đến tổ chức, không biết đến bàn cãi, không biết đến quy
chế, không biết đến lo toan, không biết đến vôi gạch. Không biết, nhưng
mà cái gì cũng biết. Nghĩa là có sự hiện hữu của Phật chất thì tất
cả đều có. Và nghĩa là nếu không có sự hiện hữu của Phật chất
thì tất cả những cái kia đều là vô nghĩa, đều không có.
Vậy thì Pháp mà mạt không phải
là do chúng ta không giữ gìn nó mà chính vì chúng ta đã giữ gìn nó chặt
chẽ quá, ôm ấp nó kỹ lưỡng qua鮼/p>
Và một ngày kia, chúng ta sẽ đau
khổ nhìn thấy, trong vòng tay cứng nhắc và siết chặt của ta, nó chỉ
còn là một cái xác không hồn. Cái xác sơn phết bóng lộn.
Vấn đề là vấn đề thực hiện,
thực hiện liên tục nguồn sinh hoạt Phật chất, chớ không phải
là vấn đề cố thủ, bảo bọc.
Đạo pháp chỉ có sinh lực trong những
thời đại có tu tập, có chứng ngộ. Chúng ta không nên chờ đợi Đức
Di Lặc một cách quá ngây thơ. Chúng ta phải sửa soạn đón tiếp Ngài.
Sửa soạn như thế nào ? Sửa soạn
một khung cảnh nhân tâm hướng thiện, một khung cảnh thực chất của đạo
pháp, xứng đáng làm nơi ngự tọa của một đức Phật. Khung cảnh ấy
được xây dựng bằng cộng nghiệp hướng thượng của chúng ta, của tâm
linh chúng ta. Không còn chỗ nào xứng đáng cho Ngài ngự tọa hơn là ngôi
vị trong sạch của tâm hồn ta. Bằng không, Ngài có thể xuất hiện bất
cứ ở đâu và bất cứ lúc nào mà chúng ta vẫn không hay không biết, bởi
vì mắt chúng ta mù lòa, bởi vì tâm chúng ta vẫn đục, bởi vì hai tay
chúng ta bị trói chặt trong dây xiềng hình thức.
Tôi tin rằng thế giới chúng ta đã
quá đau thương, và Ngài đã hiện về hoặc sẽ hiện về, muộn lắm là
vào cuối thế kỷ. Văn hóa loài người đang đi tới thế tổng hợp. Ngài
sẽ là bậc tướng đạo quang minh cho toàn thể nhân loại. Đừng than phiền
đời này là đời mạt pháp. Hãy buông bỏ hình thức. Hãy phủi sạch hai
tay. Hãy đứng lên, gạt qua những mối tơ vò của thế kỷ. Hãy để tâm
hồn trong sạch lắng đọng. Và hãy tiếp nhận hình bóng tròn đầy của mặt
trăng đêm rằm xuất hiện trong biển lặng tâm linh của mình.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có dạy
rằng giáo pháp của Ngài sẽ rực rỡ an trú ở thế gian này trong một thời
gian thôi, tiếp theo đó nhân loại đi vào thời tượng pháp. Tượng có nghĩa
là na ná, là giống như; tượng pháp có nghĩa là giáo pháp giống như chánh
pháp, nhưng không hẳn là chánh pháp. Tiếp theo thời tượng pháp, là thời
mạt pháp, thời giáo pháp suy đồi và ẩn một. Khi đó, một đức Phật
khác sẽ ra đời để khai mở cho nhân loại một kỷ nguyên chính pháp mới:
đó là đức Phật Di Lặc.
Đức Phật Thích Ca là một bậc
giác ngộ, một đấng Pháp vương. Nhưng Ngài đã nói tiếng nói của con người.
Vì Ngài đã là một con người đã sống trong xã hội loài người, đã
khai thị chân lý vì con người, cho nên ta có thể, trên bình diện con người
của chúng ta, nhận thức được nội dung của tiếng nói Ngài một cách
chân xác. Khi Ngài nêu lên một khoảng thời gian phỏng định cho sự lưu hành
của chính pháp Ngài, Ngài đã căn cứ trên những nhận định lúc bấy giờ
của Ngài về xã hội, về thời gian. Quan niệm về năm tháng của Ngài, cũng
như của bất cứ một người nào đã sống cách đây hơn hai ngàn năm
trăm năm, không thể giống như quan niệm về năm tháng của chúng ta, những
con người sống trong thời đại mới. Nhân loại xã hội trong thời đại
chúng ta đã và đang đi những bước khổng lồ về tương lai chứ không phải
đã và đang trôi một cách chậm chạp lững lờ như vào khoảng sáu trăm
năm trước Tây lịch. Như vậy, ta không nên lấy 5.000 năm ước định để
làm khoảng thời gian chia cách hai đức Phật, đức Phật Thích Ca và đức
Phật Di Lặc. Chỉ nên nhớ rằng: Khi Phật pháp đã tới thời cùng mạt,
nói một cách khác hơn, khi nhân loại đã đi đến giai đoạn cùng cực nhất
vì loạn lạc, vì phân tán, vì khổ đau, thì chính pháp là lúc đức Phật
Di Lặc phải xuất hiện để mở một con đường mới cho xã hội loài người.
Như chúng tôi đã trình bày trong phần
trước, pháp mà mạt là do chúng ta đã không cố gắng thực hiện dòng
sinh hoạt Phật chất ở bản thân và ở những hình thái sinh hoạt của
xã hội chúng ta. Chúng ta chỉ lo bảo tồn những hình thái sinh hoạt cũ không
đáp ứng được với căn cơ của xã hội và do đó không thể hiện được
những nguyên lý Phật học. Những nguyên lý ấy hết sức linh động, và
ta chỉ có thể nói rằng những sinh hoạt nào muốn khế lý bao giờ cũng
phải khế cơ. Vì sao ? Khế lý là để khế cơ. Mục đích của đạo Phật
là phụng sự con người, nếu không khế hợp con người thì sao gọi là đạo
Phật, sao gọi là khế hợp với chân lý đạo Phật ?
Mà căn cơ của con người mới, của
xã hội mới là những căn cơ hết sức phiền toái, phức tạp. Ai cũng nhận
thấy rằng con người mới có những ao ước, những đòi hỏi, những thao
thức… nói tóm lại, những sinh hoạt tâm lý hết sức phiền tạp. Con người
mới lại sống trong một thời đại mới, một thế giới mới, một xã hội
mới với những sinh hoạt kinh tế, chính trị, tôn giáo, văn học… không
còn giống gì với xã hội cũ cách đây hàng ngàn năm. Làm gì có thể khế
cơ được (ít nhất là khế cơ một cách hoàn toàn), những hình thức sinh
hoạt của hai ngàn năm trăm năm về trước ? Trong kinh có chép chuyện một
vị Thiền sư vì lòng từ bi không muốn dẫm đạp lên các sinh vật cho
nên mỗi khi đi đâu đều có cầm một cây chổi, quét một lát chổi, đặt
một bước chân. Vào thời xưa, trong khung cảnh nên thơ của thôn làng,
hành vi đó được nhận định là đẹp như một bài thơ nhân ái, nói lên
được tâm niệm từ bi của một con người thấm nhuần đạo lý. Nhưng giá
bây giờ có một vị Tăng bắt chước làm y hệt như thế trên con đường
của thủ đô Saigon như con đường Tự Do hay Lê Lợi chẳng hạn, ta thử
đoán xem quần chúng sẽ nghĩ như thế nào về vị Tăng đó ? Quần chúng sẽ
cho đó là một người điên, cảnh sát có thể điệu người đó về bót:
hành động đó đã không khế hợp với căn cơ của con người bây giờ (kể
cả căn cơ của người chủ động), lại cũng không còn khế hợp với những
nguyên lý Phật học, mà trái lại, có thể làm mai một các nguyên lý ấy
nữa. Không khế lý, không khế cơ con người, những lề lối sinh hoạt
như trên làm sao được gọi là đạo Phật và đã không phải là đạo Phật,
tại sao chúng ta cố thủ chặt chẽ như thế ?
Vậy thì sự xuất hiện của đức
Phật Di Lặc phải được nhận định như là một cuộc vận động mới
để làm sống dậy dòng sinh hoạt Phật chất trong những sinh hoạt vừa khế
hợp căn cơ nhân loại, vừa khế hợp với những nguyên lý Phật giáo. Nếu
không khế hợp căn cơ con người, những sinh hoạt được mệnh danh là của
Đạo Phật chỉ có thể còn là những xác cũ không còn chứa đựng Phật
chất; nếu không khế hợp với những nguyên lý Phật học, những sinh hoạt
kia sẽ có thể chỉ là ma nghiệp phục vụ cho lòng dục vọng và óc u mê
của ma vương, của chúng sinh. Lịch sử đạo pháp đã ghi những nét son của
những cuộc biến cải cần thiết để làm sống dậy rạt rào những khí
lực của Phật giáo: Mã Minh, Long Thọ, Vô Trước v.v… đều là những
nhà đại cách mệnh của Phật giáo. Gia sản văꮠhóa hiện hữu mà chúng
ta được thừa hưởng của Phật giáo ở Á Đông một phần lớn chính là
do công trình tạo dựng của những bậc trượng phu như thế.
Các bậc vĩ nhân kia đều là những
nhà đại văn hóa, những nhà đạo học đã thấu hiểu được con người
của thời đại họ, đã thấu hiểu xã hội của thời đại họ, và đã
đáp ứng được những nhu yếu của những khu vực văn hóa riêng biệt
trong đó họ đang sống. Nhưng bây giờ thì khác. Chúng ta không có những
khu văn hóa riêng tư nữa. Những khu vực văn hóa đều đã mở cửa rộng
rãi. Những ranh giới văn hóa đã được tháo tung. Nhân loại đang tiến tới
nền văn hóa tổng hợp. Công cuộc tổng hợp vĩ đại này phải do một
con người đầy đủ kiến thức về con người, đầy đủ nhận định về
xã hội con người, đầy đủ trí năng và tâm thức để có thể hướng dẫn
loài người, đứng ra lãnh đạo. Một nhà văn hóa có đầy đủ chánh biến
tri, có đủ đại hùng, đại bi, đại lực, đại nguyện như thế, ta phải
gọi đó là một đức Phật. Đó là đức Phật Di Lặc, con người cấp
thiết của thế kỷ chúng ta.
III
Đạo Phật đã xuất hiện trên thế
giới trong nhu cầu của nhân loại để tạo dựng nên một sức sống rào
rạt trong huyết quản nhân loại. Một nhận định, một niềm tin, một sức
phấn đấu để tự thực hiện và để xây dựng một đời sống an lành
chung cho mọi người: đó là những gì căn bản và cốt yếu của đạo Phật.
Thực thể sinh hoạt linh động của
đạo Phật được biểu hiện trong những cố gắng không ngừng của các
thế hệ Phật tử. Những giai đoạn u trầm nhất của lịch sử Phật giáo
là những giai đoạn mà trong đó sự cố gắng tu chứng và hành đạo không
được biểu lộ. Thiếu tu chứng, người Phật tử không xúc tiếp được
với nguồn sống đạo pháp, không nắm được những nguyên lý căn bản của
Phật pháp. Đã không nắm được những nguyên lý thì sẽ cố chấp vào những
hình thức sự tướng, và đó là nguyên nhân của sự sa đọa, của sự
suy đồi. Trí tuệ thực chứng là nguyên lý dẫn đạo cho mọi sinh hoạt
đạo pháp, sử dụng đạo một cách linh động mọi căn cơ, mọi phương
tiện. Không có trí tuệ thực chứng ấy, mọi sinh hoạt đạo pháp đi dần
đến hình thức, đến cố chấp, đến mê tín dị đoan, làm cho đạo Phật
(tôi nói những hình thức sinh hoạt của Phật giáo) phản lại với đức
Phật, làm cho đạo Phật bị lấm láp, bị lợi dụng, làm cho quần chúng
tri thức ruồng bỏ đạo Phật. Ai cũng biết rằng khả năng dung hóa của
đạo Phật thật là rộng rãi và mạnh mẽ. Với sự dẫn đạo sáng suốt
của thực chứng, của những nguyên lý Phật học, đạo Phật khi đến đâu
liền thích nghi ngay với xã hội, phong tục, tập quán, chính trị, kinh tế
và nhân tâm ở đó để mà hoằng hóa và phát triển. Ở Trung Hoa và Việt
Nam chẳng hạn, những hình thức thờ cúng tổ tiên, thờ cúng đức Quan Thánh,
đức Trần Hưng Đạo, những ngày Tết, ngày giỗ, chế độ tự viện, chế
độ ruộng nương hương hỏa, cả đến việc đoán xâm, làm thuốc v.v…
đều được Phật giáo chấp nhận. Thờ cúng Tổ tiên là tỏ lòng tri ân
tiền nhân, giúp cho con người có ý thức luân hồi nhân quả; thờ cúng đức
Quan Thánh, đức Trần Hưng Đạo là tỏ lòng ái quốc; theo chế độ tự
viện ruộng nương hương hỏa là để quy tụ tăng đoàn sinh hoạt tập thể;
đoán xâm là để nương vào lòng tin của con người mà khuyên người bỏ
ác làm thiện; làm thuốc là để thực hiện giúp đỡ người để cảm hóa
người… Mỗi thời đại, mỗi địa phương cần có những phương tiện
để hành đạo như thế, những phương tiện ấy thích hợp với trình độ
con người và không trái chống với nguyên tắc tự hành hóa tha của đạo
Phật. Nhưng ai cũng biết những hình thức sinh hoạt ấy là những con dao
hai lưỡi, có công dụng tốt mà cũng có thể có công dụng xấu. Có sự
hiện diện của tu chứng, có sự ý thức về những nguyên lý Phật học
thì những hình thức sinh hoạt ấy sẽ phục vụ cho đạo Phật và cho con
người một cách tốt đẹp an lành. Nhưng vắng mặt tinh thần đạt đạo
kia thì những hình thức sinh hoạt này lập tức biến thành nguy hại, những
phương tiện được chấp chặt và coi như là cứu cánh. Cúng thờ tổ
tiên để mà sát sinh ăn uống rượu thịt, thờ đức Quan Thánh và đức
Trần Hưng Đạo để mà tế lễ cầu đảo mê tín, ruộng chùa giàu có để
mà nhàn cư vi bất thiện, đoán xâm để mà kiếm tiền và gieo thêm sự sợ
hãi mê tín, làm thuốc để mà buôn bán cầu lợi… đó là những hiện tượng
suy đồi tất yếu phải xảy ra nếu không có tinh thần dẫn đạo của tu
chứng, của nguyên lý. Đạo Phật trong trường hợp đó đã không đồng hóa
được thế pháp mà lại bị đồng hóa bởi thế pháp. Thế cho nên ta
không lấy làm lạ mà thấy rằng có những giai đoạn lịch sử mà đạo
Phật không thực hiện được hoài bão của vị giáo chủ sáng lập nữa.
Đạo Phật, khi ra đời, vốn nhắm
mục đích phục vụ cho sự sống của nhân loại nhưng trong thế
kỷ gần đây đã suy đồi cho đến nỗi chỉ biết phục vụ cho sự chết
của nhân loại. Nói ra ai cũng thấy đau xót cho cái tình trạng vừa bi thảm
vừa khôi hài đó, nhưng kỳ thực ở Trung Hoa, ở Việt Nam, ở cả Nhật Bản
nữa, trong thế kỷ này, Phật giáo đã hiện hữu để lo cho cái phần ấy
- phần cái chết, nhiều hơn. Chùa nào mà không tổ chức kỳ siêu, đi đám
ma, nhập liệm, làm tuần, làm thất, cúng thí thực cô hồn, cúng linh thì
chùa ấy không sống. Bổn đạo không tới chùa, không ai cúng tiến cúng gạo
cho nhà chùa. Cho nên chùa nào đi đám nhiều nhất là chùa đó sung túc nhất,
chùa nào có nghĩa địa lớn và đẹp nhất là chùa đó giàu nhất. Có những
ngôi chùa đứng vững được là nhờ ruộng ký linh, hương hỏa, hoặc là
có vườn rộng rãi để an táng. Con cháu có mộ phần ông bà phải thường
trực cúng kiến trong chùa. Số lượng tín đồ thuần cẩn nhất là số lượng
của những ông bà lớn tuổi, niệm Phật để dọn "đường về cực
lạc." Có những vị Tăng lo xây tháp xây mộ trước cho mình.
Không ai nhận thức rõ rệt rằng
đó là những sự thực. Đã đành vấn đề cái chết cũng là một vấn đề
to lớn của sự sống, nhưng tại sao chú trọng quá đến cái chết như vậy?
Vị năng sự sinh, yên năng sự tử ? Hướng đi của đạo Phật mà như thế
thì thử hỏi sinh khí của đạo Phật còn gì ? Đức Phật có ngờ đâu rằng
giáo lý siêu việt và thực dụng của mình đã bị hướng về một mục
đích quá nghèo nàn và khô héo như thế ?
Sự thực mà tôi vừa đưa ra đã
có thể chứng minh rõ rệt rằng mọi hình thức và phương tiện nếu không
được hướng dẫn để thực hiện đúng nguyên lý Phật học, để hợp
thời cơ phục vụ cho con người, đều có thể biến thành sai lạc và phản
lại đạo Phật. Cho nên ở thế kỷ chúng ta, người Phật tử không thể
không thâm nhập kinh tạng, thâm nhập hành trì để thể hiện tu chứng và
nắm lấy những nguyên lý căn bản của nền triết học Phật giáo; người
Phật tử không thể không buông bỏ những hình thức mệnh danh là đạo Phật
mà kỳ thực tác hại không ít cho đạo Phật; người Phật tử không thể
không xây dựng những hình thức sinh hoạt mới, tuy không được các
nguyên lý Phật học, có thể ứng cơ và ứng lý để phục vụ cho đạo
Phật và cho con người. Nói tóm lại, người Phật tử không thể không lột
bỏ cái xác già cỗi, cái đạo Phật bi thảm phản chiếu trong cái dĩa hát
cải lương vọng cổ kia, cái đạo Phật yếu đuối trốn đời và vô ý
thức kia, không thể không lột xác để làm sống dậy một đạo Phật trẻ
trung đầy sinh lực, tiếp nối được dòng sinh hoạt truyền thống của những
thế hệ Phật tử huy hoàng trong Phật giáo sử. Phải đem Phật giáo trở
về phục vụ sự sống.
Thế hệ chúng ta phải đảm nhiệm
trọng trách hiện đại hóa Phật giáo, thổi những luồng sinh khí mới
vào cho đạo Phật để đạo Phật còn mãi là đạo Phật, nghĩa là còn biểu
hiện được cho dòng sinh hoạt trí tuệ từ bi và đại hùng đại lực mà
đức Phật đã khơi mở hơn hai nghìn năm trăm năm về trước. Tiếp nối
thực hiện và khơi mở려òng sinh lực ấy
là chúng ta thực hiện được hoài bão của chư Phật, được gần gũi với
chư Phật hơn bao giờ hết và như thế chúng ta mới xứng đáng là người
con của đức Phật.
Hãy can đảm nhìn thẳng vào sự thực,
can đảm nhận thức những thực trạng không tốt đẹp, can đảm phát đại
nguyện ly khai danh vọng, quyền lợi, dứt bỏ thành kiến và từ chối tâm
niệm cầu an, để có thể tự nhận sứ mệnh hoằng dương Phật giáo một
cách hăng hái và chân thành.
Những học giả nghiên cứu về Phật
học đã đồng ý với nhau rằng đạo Phật là một đạo lý hướng dẫn
con người trong công việc giải quyết những vấn đề trọng đại của sự
sống, thứ nhất là vấn đề khổ đau. Edouatd Conze, giáo sư triết tại đại
học đường Londre, đã nói tới đạo Phật như một chủ nghĩa thực dụng.
Đức Phật đã từ chối không đưa các đệ tử đi sâu vào những suy luận
siêu hình viễn vông vô ích, và đã đưa mọi người trở về cuộc sống
hiện thực để giải quyết những khổ đau hiện thực. Khổ đau là một
thực tại quá hiển nhiên, quá to lớn; con người không có thể nhắm mắt
phủ nhận nó để đi giải quyết những vấn đề xa xôi bằng một công cụ
trí thức kém cỏi bao phủ bởi những từng lớp vô minh và dục vọng
tích tập bao đời bao kiếp.
Hình ảnh của những vị tăng sĩ sống
một cuộc đời khổ hạnh, tam thường bất túc, mang bình bát đi sâu vào
thôn lạc, vào sự sống của quần chúng, hình ảnh của những đức Bồ Tát
như Trì Địa, Quan Thế Âm, Địa Tạng, Thường Bất Khinh với ý thức rõ
rệt về những khổ đau của kiếp người và về bổn phận phụng sự và
khai thị đạo lý giải thoát giác ngộ cho nhân loại, là những hình ảnh
linh động nhất của đạo Phật trong buổi ban đầu của lịch sử Phật
giáo. Qua sự tôn sùng của quần chúng, những hình ảnh ấy bây giờ đã
trở nên thiêng liêng quá và xa cách con người quá. Các bậc Bồ Tát kia hầu
như đã trở nên những vị thần linh đẹp đẽ với đầy đủ quyền lực
thiêng liêng. Người tín đồ bây giờ nhận thức các Ngài qua những bức
tranh diễn tả những dung mạo tuyệt vời, những xiêm y đẹp đẽ, những
châu ngọc quí giá đeo đầy vai đầy cổ. Cố nhiên tôn sùng hình thức phải
đưa đến chỗ thần quyền hóa và mỹ lệ hóa như vậy. Nhưng kỳ thực,
các vị ấy là những con người giản dị nhất, nghèo nàn nhất và, với
lòng thương và trí tuệ của những con người đã tự thực hiện Phật chất
gần gũi chúng ta nhất. Hãy nghĩ đến đức Trí Địa Bồ Tát với manh áo
nâu giản dị đang bắc lại một chiếc cầu tre vừa bị nước lụt cuốn
đi. Hãy hình dung đức Địa Tạng Bồ Tát sống trong cảnh tối tăm của
thế giới u tối để gần gũi và cứu độ cho những con người khổ đau
sa đọa. Ta hãy liên tưởng đến những người thợ đang cặm cụi làm việc
trong các hầm mỏ, tay cầm đèn, tay cầm dụng cụ. Và hãy liên tưởng đến
những người sống trọn đời trong thế giới của những người đau bệnh
cùi mong làm nhẹ một phần nào những khổ đau to lớn của cuộc đời. Hãy
nghĩ đến hình bóng một con người trì chí, nhẫn nại, đi khắp hang cùng
ngõ hẻm, sơn lâm thành thị, để khai thị cho con người biết khả
năng vô biên sẵn có của họ: "tôi không dám khinh Ngài, Ngài sẽ
thành Phật." Hình ảnh của Bồ Tát Thường Bất Khinh là hình ảnh của
một con người đã tìm ra được kho vàng và hân hoan đi mách bảo cho mọi
người nghèo khổ hãy lấy về chi dụng; dù bị mọi người chửi mắng đánh
đập, vẫn không lấy làm khổ nhục. Hãy nghĩ đến đức Bồ Tát Quan Thế
Âm, một con người luôn luôn có mặt bên cạnh những đau khổ của
con người, có mặt để mà tìm cách an ủi và cứu độ. Những hình ảnh
ấy đẹp tuyệt vời trong giá trị đạo đức và nhân bản của nó, nhưng
chúng ta có thể vì chỉ biết tôn sùng hình thức nên đã không thể nhập
được một cách thâm thiết. Những hình ảnh ấy phải ngự trị trên ngai
vàng của tâm hồn ta, đơn sơ nhưng cao khiết và đẹp đẽ. Có sự hiện
diện của những hình ảnh ấy trong tâm hồn ta, ta sẽ để lòng rung động
theo một niềm cảm thương vô biên; niềm cảm thương này sẽ biến cải
ta trọn vẹn và đưa ta đến vũ trụ cao khiết của thông cảm, của yêu
thương và của hy sinh.
Ở thời đại Phật giáo nguyên thỉ,
hình ảnh các vị Tăng sĩ là hình ảnh cuộc đời đạm bạc, ít nhiều khắc
khổ, để gần gũi con người, để thông cảm nỗi khổ đau của con người,
để thực hiện thoát khổ, tu chứng, cứu độ. Hình ảnh người tăng sĩ
khác hẳn với hình ảnh người quyền quí. Quần chúng nghiêng mình dưới
sự nghèo khổ đơn sơ của các vị, trước sự thông cảm sâu xa về khổ
đau kiếp người của các vị, trước nghị lực hy sinh, nhẫn nại, tinh tấn
của các vị; quần chúng tôn sùng và cúng dường các vị vì những nhận
thức ấy nhiều hơn là để nguyện cầu phước báo ở cõi nhân thiên. Sứ
mạng của các vị là đem ánh sáng trí tuệ giác ngộ cần thiết cho cuộc
đời, diệt trừ những dục vọng, nguyên nhân khổ đau của cuộc đời.
Những hình ảnh ấy, những hình
ảnh của những vị Bồ Tát và những con người có lý tưởng Bồ Tát ấy
phải nói và đã nói lên được mục đích và bản chất của đạo Phật.
Nhưng có thể chúng ta đã tiếp nhận
không thấu đáo những hình ảnh ấy, chúng ta đã tô điểm sơn phết những
hình ảnh ấy theo ý thích của riêng chúng ta, cho nên chúng ta đã không thấu
đạt được đầy đủ bản chất Phật học do những thế hệ Phật tử
trước trao truyền lại. Bỏ những hình ảnh linh động của những con người
thực hiện Phật pháp, chúng ta đi tôn thờ hình ảnh của những thần linh
xa vời chỉ hiển hiện trước lời kinh cầu nguyện. Sự tôn thờ cố
nhiên là cần thiết. Nhưng cần thiết hơn nữa là ý thức tôn thờ và
pháp thức tôn thờ.
"Nam Mô Quan Thế Âm Bồ
Tát," khi tôi chí thành tưởng niệm như thế, hình ảnh đức Quan Thế
Âm tự nhiên hiển hiện trong tôi, không phải như một thiên thần từ
trên trời hiện xuống để ban phép giải ách trừ họa, mà là một niềm
rung cảm vô biên đối với hạnh nguyện của đấng nguyện luôn luôn
có mặt bên cạnh khổ đau của cuộc đời.
Niềm rung cảm ấy làm tôi tiếp nhận
được nguyện lực của Ngài, làm tôi biến cải được bản thân tôi, để
được hiện hữu trong bản thể "từ bi hỷ xả," để được tiếp
nhận giọt nước "cam lộ sái tâm" giúp tôi trở thành thanh khiết
cao cả. Sao tôi lại không thấy ở một nẻo khổ đau hình bóng linh diệu
của Ngài trong cái cảnh áo nâu nghèo khổ, mà tôi lại quan niệm Ngài như
một hình ảnh cao sang ngàn năm một thuở mới xuất hiện trong sự cầu đảo
của loài người ?
Tất cả giáo lý của đạo Phật
đều được xây dựng trên nhận thức về đau khổ của cuộc đời. Khổ
đế là sự thực căn bản trong bốn sự thực cao cả: tứ diệu đế. Tất
cả những ai thao thức thực hiện đạo Phật đều phải có ý thức sáng
tỏ về đau khổ của cuộc đời. Tiếp xúc với khổ đau, thái tử Tất
Đạt Đa mới phát được đại nguyện. Một nền giáo lý phong phú và
thâm uyên đã được đặt trên cơ bản nhận thức về khổ đau để giúp
con người thực hiện giải thoát khổ đau. Những con người bỏ đời sống
vật chất xa hoa, hòa mình trong cuộc sống gian khổ, nuôi dưỡng niềm thao
thức thực hiện tự độ độ tha, những hình ảnh các bậc Bồ Tát lăn xả
vào cuộc đời để độ sinh và hành đạo: tất cả những điều ấy đã
nói với ta những gì ?
Đạo Phật phải hiện hữu trong cuộc
đời thực tại, để giải quyết những vấn đề thực tại. Người Phật
tử, Tăng Ni cũng như Cận sự, phải mang lý tưởng Bồ Tát, đem giáo pháp
đi sâu vào cuộc đời không nại gian lao khổ nhục. Đừng biến đạo Phật
thành một tổ chức có uy quyền thế lực, có giáo đường vàng son, có
điện ngọc thâm u. Đừng biến Tăng sĩ thành những con người sống vô tư
trong sự ưu đãi của một chế độ cúng dường thiếu ý thức, quên lãng
nhiệm vụ tự thực hiện giải thoát và phụng sự con người. Đừng để
người Phật tử hiểu rằng Phật Pháp Tăng là những bảo vật xa vời
không hiện hữu giữa cuộc đời đau khổ. Phải thực hiện tất cả những
hình thức sinh hoạt nào có thể chứng minh rằng đạo Phật hiện hữu
trong cuộc đời để giải phóng cho con người. Người Phật tử lý tưởng
là con người tự nguyện sống đồng lao cọng khổ giữa xã hội loài người,
biết mang hình bóng của vị Bồ Tát mà đi vào cuộc đời để khai thị
chân lý và làm vơi đi những niềm đau khổ.
IV
Khi nói đến "phiền não tức bồ
đề" các vị cao tăng ngày xưa đã nhận thức rằng chính trong khổ
đau con người mới tìm ra an lạc. Nói thế không có nghĩa là cứ để bản
thân trôi nổi trong biển khổ đau rồi một ngay kia sẽ được an lạc hạnh
phúc đâu. Nói thế có nghĩa là phải can đảm nhìn nhận đau khổ, giải
quyết vấn đề đau khổ, không trốn tránh những khổ đau của cuộc đời
một cách hèn nhát. Chán nản cuộc đời, vào cửa Phật để tìm chốn an
thân, điều đó không hẳn là đáng trách; nhưng bản hoài của đức Thế
Tôn khi lập giáo không phải chỉ hướng đến một mục đích tầm thường
và hẹp hòi như thế. Sống cuộc đời người xuất gia không phải là để
trốn tránh đau khổ mà lại là để chiến thắng khổ đau. Mà muốn chiến
thắng khổ đau thì phải can đảm đương đầu với khổ đau, đừng sợ hãi
khổ đau, bởi vì không có ai sợ địch mà thắng được địch bao giờ.
Ở đây, khổ đau lại là nhân duyên tạo nên an lạc và giải thoát, cũng
như hoa sen thơm ngát và tinh khiết đã mọc lên từ bùn lầy tanh hôi. Lý tưởng
đẹp nhất là giải trừ đau khổ cho mọi người mọi loài, giải phóng họ
ra khỏi tình trạng bi thảm đau thương trong đó họ đang sống. Nhưng một
lý tưởng như thế chỉ có thể nuôi dưỡng và thực hiện bằng một
lòng thương. Mà chỉ khi nào con người biết khổ đau thì con người mới
biết thành thực thương nhau để cứu giúp nhau ra khỏi tình trạng đau khổ.
Ca tụng khổ đau không phải là ca tụng cuộc đời trầm luân khổ hải
mà là xác nhận tính cách cần thiết của những chất liệu lý tưởng. Phải
gần gũi khổ đau để được tiếp xúc thường xuyên với "đệ nhất
khổ đế," chân lý căn bản của tứ diệu đế. Có như thế ta mới
hiểu được đoạn văn nầy trong Luận Bảo Vương Tam Muội: "Đức Phật
thiết lập chánh pháp lấy khổ đau làm thuốc hay, lấy hoạn nạn làm
thành công, lấy gai gốc làm giải thoát, lấy ma quân làm đạo bạn, lấy
khó khăn làm sự tác thành, lấy bạn tệ bạn làm người giúp đỡ, lấy
kẻ phản nghịch làm người giao du, lấy sự thi ân như đôi giép bỏ, lấy
xả lợi làm vinh hoa, lấy oan ức làm đà tiến thủ. Thế cho nên, người
Phật tử ở trong chướng ngại mà vượt qua được mọi chướng ngại."
Các bậc Bồ Tát đã lấy cuộc đời khổ đau làm trường rèn luyện, đã
lấy chất liệu khổ đau để nuôi dưỡng lý tưởng, đã làm nở hoa giải
thoát trên miếng đất tam giới nhiễm ô.
Người Phật tử phải tình nguyện
mang đạo Phật đi sâu vào cuộc đời để làm vơi bớt khổ đau cho cuộc
đời, không có quyền tự mãn trong một cuộc sống tầm thường với những
tiện nghi tầm thường để rồi mắc kẹt trong những thỏa mãn tầm thường
mà bỏ quên mất chí hướng.
Mọi khổ đau của cuộc đời bắt
nguồn từ si mê và dục vọng; người Phật tử phải can đảm nhìn nhận
nơi cuộc đời và chính nơi bản thân mình những tính chất si vọng đó
để cương quyết diệt chúng tới tận gốc rễ. Nhưng không phải nhìn nhận
cuộc đời khổ đau si vọng để mà chán nản và buông xuôi hai tay. Phải
phát ý nguyện rộng lớn, phải có ước vọng cao cả. Ý nguyện rộng lớn
ấy, ước vọng cao cả ấy là bản chất của những cuộc đời lý tưởng
Bồ Tát linh động và tích cực, nuôi dưỡng cho ý nguyện ấy và ước vọng
ấy là nhận thức thường xuyên về khổ đau hiện thực của kiếp người.
Một người sống trong nghèo khó,
khong bao giờ được đi xe hơi, phải sống nép bên đường, ngửi bụi, tránh
bùn nước văng vào áo khi xe hơi đi qua, có thể bất mãn thù hằn những
con người ngạo mạn ngồi trên xe hơi kia. Nhưng nếu người nghèo khó ấy
bước lên thang danh vọng, đi đâu cũng đi toàn bằng xe hơi, thì một ngày
kia hắn sẽ có thể thấy rằng ngớ ngẩn nhất và ngu ngốc nhất là những
con người đi bộ, nghênh ngang chẳng thèm coi xe hơi của mình vào đâu cả.
Nhân sinh quan của con người có thể thay đổi, những nhận thức sáng của
con người có thể lu mờ nếu con người tự mãn túc một cách dễ dàng
trong một ít chiều đãi và thỏa mãn của xã hội, của tiện nghi vật chất.
Và như vậy là si vọng thắng cuộc. Ý thức trường cửu về "đệ nhất
khổ đế" giúp cho người Phật tử nhận định chân xác lập trường
của mình và mở một chiến tuyến chống si vọng đừng để si vọng thầm
lén xâm nhập nội tâm làm động cơ cho mọi hành động. Người Phật tử
xuất gia phải sống theo nếp sống "tam thường bất túc" mà đức
Phật đã quy định, lấy cuộc đời khổ đau làm trường rèn luyện, lấy
nhân loại khổ đau làm đối tượng hành đạo. Niềm thao thức giải thoát
phải sống mãi trong tâm hồn để người tăng sĩ không quên bổn phận
mình. Trong lịch sử tăng đoàn Phật giáo, ở những triều đại nào mà chư
tăng được sống trong một chế độ cúng dường sung túc nhất là tăng
đoàn bị suy đồi nhất, các cao tăng ít xuất hiện nhất. Điều đó được
chứng minh ở Ấn Độ, ở Trung Hoa, ở Nhật Bản, ở Việt Nam. Bởi vì một
cuộc sống sung túc quá, một cuộc sống được chiều đãi quá không thể
không đánh mất niềm thao thức quý báu của con người xuất gia, và trong
trường hợp đó, người ta đã quên mất nhiệm vụ cao cả của mình, lý
do vì sự liên lạc với đệ nhất khổ đế đã bị cắt đứt.
Cho nên người tăng sĩ của thế kỷ
chúng ta phải mở rộng nhận thức, đừng tự bưng bít trong tháp ngà chủ
quan, phải tiếp xúc thường xuyên với thực tại đau khổ của cuộc đời.
Như thế người tăng sĩ sẽ không bị chết đuối trong một cuộc sống dễ
dãi, không tự mãn trong một chế độ cúng dường thiếu ý thức, không
lâm vào tình trạng "một đời luống qua, công quả không do đâu mà
thành tựu được" như tổ Qui Sơn đã than vãn.
Tiếp xúc thường xuyên với thực
tại sau khổ người Phật tử vừa nuôi dưỡng được chí nguyện độ
sinh (bởi vì chí nguyện độ sinh căn cứ trên đệ nhất đế) mà cũng vừa
tránh khỏi sự xâm lấn thầm lén của si mê và dục vọng. Như vậy không
những ta nắm được đệ nhất đế, mà ta còn nắm luôn được cả đệ
nhị đế nữa. Chừng nào si vọng hoạt động trong ta mà ta không hay không
biết thì chừng đó ta không phải là người Phật tử nữa. Ta là ma quân,
đội lốt người Phật tử. Ta thất bại vì không phân biệt được bạn
với thù, ta chiến đấu cho mặt trận giải thoát nhưng binh lính trong quân
đội ta lại là si mê và dục vọng. Mặt trận sẽ tan vỡ, và ta thất bại.
Người Phật tử tại gia cũng cần
có ý thức thâm thiết về đệ nhất khổ đế để có đủ sáng suốt mà
định đoạt giá trị của những hành vi luân lý và đạo đức. Hãy để
cho lòng thương làm động lực cho mọi hoạt động Phật sự. Hãy biến
mình thành người bạn giản dị, khiêm nhượng và thân thiết của lớp người
đau khổ. Đừng bao giờ quên rằng khuynh hướng của đạo Phật là đi gần,
đi tới với quần chúng khổ đau để nâng đỡ và giải phóng cho họ. Đừng
ngồi yên tại chỗ chờ họ đến với mình. Hãy đòi hỏi nơi chư Tăng cuộc
sống thao thức của những con người đang luôn luôn hướng về lý tưởng
Phật giáo, bỏ quên đi mọi danh lợi tầm thường. Hãy tôn trọng chư
Tăng như những bậc khất sĩ thanh cao, đừng xem họ như những bậc nhà
giàu có quyền lực cần phải nịnh bợ. Hãy tự mình sống nếp sống Phật
tử để cho bóng hình mình hiển hiện ở đâu thì niềm tin vui hiển hiện
ở đó. Nên nhận định: đạo Phật là đạo của quần chúng khổ đau, không
phải của riêng của một lớp người trưởng giả.