- TẠNG THƯ SỐNG-CHẾT
- THE TIBETAN BOOK OF LIVING
AND DYING
Sogyal Rinpoche
PHẦN
MỘT
SỐNG
1. TRONG TẤM GƯƠNG CỦA CÁI CHẾT
Kinh nghiệm đầu tiên
của tôi về sự chết xảy đến vào lúc tôi khoảng chừng bảy tuổi.
Chúng tôi đang chuẩn bị rời vùng cao nguyên miền đông để du hành đến
vùng trung tâm của Tây Tạng. Samten, một trong những thị giả của
thầy tôi, là một thầy tu kỳ diệu rất tử tế đối với tôi lúc tôi
còn bé. Ông có gương mặt sáng tròn mủm mĩm luôn sẵn sàng nở nụ cười.
Ông được mọi người trong tu viện yêu mến vì tính tình ông thật tốt.
Hàng ngày thầy tôi thường giảng dạy, làm phép quán đảnh, dẫn đầu những
buổi lễ hay những thời khóa tu tập. Đến cuối ngày, tôi thường họp
chúng bạn để đóng tuồng, diễn lại những công việc làm trong ngày, Thầy
Samten luôn luôn cho tôi mượn tạm những bộ y phục mà thầy tôi đã
mặc hồi sáng. Thầy chả bao giờ từ chối tôi việc gì.
Rồi bỗng Samten
ngã bệnh, và điều rõ rệt là thầy sẽ không sống được nữa. Chúng
tôi phải trì hoãn cuộc hành trình. Tôi không bao giờ quên được hai tuần
lễ kế tiếp. Mùi hôi thối của chết chóc đang lơ lửng như đám mây phủ
trên mọi sự. Mỗi khi tôi nhớ về khoảng thời gian ấy, thì cái mùi đó
lại trở lại trong tôi. Tu viện ngập tràn một ý thức mãnh liệt về
cái chết. Tuy vậy, điều này tuyệt nhiên không có gì ghê gớm hãi hùng;
vì với sự hiện diện của thầy tôi, cái chết của thầy Samten
mang một ý nghĩa đặc biệt. Nó trở thành một bài học cho tất cả
chúng tôi.
Thầy Samten nằm
trên chiếc gường cạnh cửa sổ trong một điện thờ nhỏ tại tư dinh của
thầy tôi. Tôi biết thầy đang từ từ chết. Thỉnh thoảng tôi đi vào
phòng, ngồi bên thầy. Thầy không nói được nữa, và tôi kinh ngạc trước
sự đổi thay của gương mặt thầy, bây giờ đã xệ xuống trông thật hốc
hác. Tôi nhận ra rằng thầy sắp từ giã chúng tôi, và chúng tôi sẽ
không bao giờ còn gặp lại thầy. Tôi cảm thấy vô cùng buồn bã cô
đơn.
Samten không chết
dễ dàng cho lắm. Hơi thở khó khăn nặng nhọc của thầy luôn ám ảnh
chúng tôi, và chúng tôi có thể ngửi thấy cả cái mùi thân xác thầy
đang tàn tạ. Tu viện hoàn toàn im lặng, không một tiếng động ngoại trừ
tiếng hơi thở của thầy. Mọi sự đều tập trung vào thầy Samten.
Nhưng, dù cơn hấp hối kéo dài của Samten thật đau đớn, chúng tôi
vẫn thấy được rằng, tự trong thẳm sâu của con người thầy, đang có
một niềm bình an và tin tưởng. Lúc đầu tôi không thể giải thích được
điều này, nhưng rồi tôi hiểu tại sao. Đó là nhờ ở đức tin của thầy,
công phu tu tập của thầy, và sự hiện diện của thầy chúng tôi. Mặc
dù buồn bã, tôi cũng biết rằng khi có thầy tôi đó thì mọi sự sẽ
yên ổn, vì thầy sẽ giúp cho thầy Samten đạt giải thoát. Về sau
tôi được biết rằng, bất cứ hành giả mật tông nào cũng đều mơ ước
được chết trước thầy mình, và có cái diễm phúc được thầy tiếp dẫn
trong lúc chết.
Trong lúc thầy tôi
bình tĩnh hướng dẫn thầy Samten trải qua cái chết, ngài chỉ cho thầy
biết từng giai đoạn một của tiến trình chết mà thầy sẽ gặp. Tôi rất
ngạc nhiên trước sự hiểu biết rõ ràng minh bạch của thầy tôi, trước
vẻ tin tưởng và bình an nơi ngài. Khi có sự hiện diện của thầy tôi,
người cả lo nhất cũng phải an tâm. Bây giờ Jamyang Khientse đang chứng
tỏ cho chúng tôi thấy đức vô úy ngài đối với sự chết. Không phải
ngài coi thường nó: Ngài thường bảo chúng tôi rằng ngài sợ nó, và cảnh
cáo chúng tôi đừng có ngây ngô tưởng chết là dễ. Nhưng cái gì đã khiến
thầy tôi đối diện cái chết với thái độ nhẹ nhàng lãnh đạm, thực
tiễn mà lại thoải mái lạ lùng như thế? Câu hỏi ấy đã thâm nhập
trong đầu tôi, làm tôi đầy kinh ngạc.
Cái chết của Samten
đã làm tôi chấn động. Thế là mới bảy tuổi đầu, tôi đã thoáng thấy
năng lực rộng lớn của truyền thống tôn giáo trong đó tôi dự phần,
và tôi chợt hiểu được mục đích của sự tu hành. Nhờ tu hành, mà Samten
đã chấp nhận được cái chết cũng như hiểu rõ rằng nỗi đau đớn có
thể là một phần của quá trình thanh luyện rất tự nhiên và sâu xa. Nhờ
tu hành, mà thầy tôi đã có một hiểu biết trọn vẹn về sự chết, và
một kỹ thuật minh bạch để hướng dẫn người khác đi vào cõi chết
Sau khi thầy Samten
chết, chúng tôi khởi hành đi Lhasa, thủ đô Tây Tạng. Đấy là một
cuộc hành trình gian nan suốt ba tháng trên lưng ngựa. Từ đấy chúng tôi
tiếp tục cuộc hành hương đến những thánh tích ở trung ương và miền
nam Tây Tạng, những di tích của các bậc thánh, vua chúa và học giả đã
có công du nhập đạo Phật vào Tây Tạng từ thế kỷ thứ bảy trở đi.
Thầy tôi là hiện thân của nhiều bậc thầy thuộc đủ mọi truyền thống,
và vì thầy nổi tiếng như thế nên chúng tôi đi đến đâu cũng được
đón tiếp rất rộn ràng.
Đối với tôi, cuộc
hành trình ấy rất hấp dẫn và đã để lại trong tôi nhiều hoài niệm tốt
đẹp. Người Tây Tạng quen dậy sớm để sử dụng tối đa ánh sáng
thiên nhiên. Chúng tôi đi ngủ vào lúc trời sập tối và thức dậy trước
bình minh, và khi tia sáng đầu tiên vừa ló dạng thì những con trâu yaks
chở hành lý đã bắt đầu di chuyển. Những lều trại được nhổ lên, căn
lều của thầy tôi nhổ sau chót. Một thanh niên sẽ đi trước để chọn
chỗ tốt cho việc cắm lều trại, nơi chúng tôi sẽ dừng khoảng giữa trưa
để nghỉ ngơi đến hết ngày. Tôi thường thích cắm trại cạnh một con
sông để nghe tiếng nước chảy, hoặc để ngồi trong lều mà nghe mưa tí
tách trên mái.
Đoàn người chúng
tôi có tất cả khoảng chừng ba mươi căn lều. Suốt ngày tôi cỡi một
con ngựa màu vàng bên cạnh thầy tôi. Trong khi chúng tôi cỡi ngựa, thầy
tôi giảng dạy cho tôi, kể chuyện, niệm chú, và đặt ra một số phương
pháp cho tôi thực hành giáo lý. Một ngày kia, khi chúng tôi tiến gần đến
hồ thiêng Yamdrok và thoáng thấy bóng mặt nước ngời sáng như xa cừ
của nó, thì một vị Lạt ma trong đoàn lữ hành, Lạt ma Tseten, bắt
đầu chết.
Cái chết của Tseten
là một bài học sống động khác nữa đối với tôi. Ông là thầy của
bà vợ tâm linh của thầy tôi, Khandro Tsering Chodron, hiện nay vẫn
còn. Bà được xem như nữ hành giả mật tông xuất sắc nhất của Tây Tạng,
một bậc thầy mai danh ẩn tích mà đối với tôi là một hiện thân của
đức hy sinh tận tụy. Nội một sự hiện diện đầy trìu mến của bà cũng
đủ dạy cho tôi rất nhiều. Lama Tseten là người có lòng nhân ái
vô biên, Ông tuổi ngoại lục trần, khổ người khá cao và tóc đã hoa
râm. Ông tỏa ra một sự dễ thương không chút nào gắng gượng. Ông cũng
là một thiền giả tu chứng cao, chỉ cần ở cạnh ông cũng đủ đem lại
cho tôi một cảm giác thanh bình và trong sáng. Một đôi khi ông rầy la
tôi, và tôi cũng khá sợ hãi; nhưng mặc dù thỉnh thoảng ông có hơi nghiêm
khắc, ông vẫn luôn luôn đầy tính nhân hậu.
Lama Tseten chết
một cách phi phàm. Mặc dù có một tu viện gần đấy, ông không chịu đến,
bảo rằng ông không muốn để lại cho người ta một cái xác phải thu dọn.
Bởi thế chúng tôi dựng lều trại thành vòng tròn như thường lệ. Khandro
săn sóc đều dưỡng cho Lama Tseten, thầy giáo đạo của bà. Chúng
tôi là hai người duy nhất có mặt trong lều của ông, khi ông cất tiếng
gọi. Ông thường gọi là Khandro là "a-mi" tiếng nói địa
phương ông, có nghĩa là "con ta".
- Này con, hãy lại đây.
Nó đang đến. Ta không còn gì để khuyên bảo con thêm nữa. Con rất tốt,
ta lấy làm sung sướng vì con. Hãy phụng sự bậc thầy của con như bấy lâu
con đã làm.
Lập tức bà khởi sự
chạy ra khỏi lều, nhưng ông đã nắm lấy tay áo bà lại.
- Con đi đâu thế?
Bà trả lời:
- Con sẽ đi gọi Rinpoche.
Ông mỉm cười:
- Chớ làm phiền ông
ta, không cần thiết. Đối với bậc thầy, vốn không bao giờ có khoảng
cách nào giữa chúng ta.
Với những lời lẽ
ấy, ông đưa mắt nhìn lên trời rồi chết. Khandro thoát được khỏi
tay ông và chạy vội ra để gọi thầy tôi. Tôi ngồi yên bất động tại
chỗ, kinh ngạc khi thấy một người nhìn thẳng mặt cái chết với thái
độ bình thản như vậy. Lama Tseten đáng lẽ có thể nhờ thầy mình
thân hành đến giúp - một điều mà bất cứ người nào khác đều mong mỏi
– nhưng ông ta lại không cần. Bây giờ tôi đã hiểu tại sao: Tại vì
ông đã trực nhận sự hiện diện của bậc thầy ở trong tâm mình. Jamyang
Khientse vẫn luôn luôn ở bên ông, trong đầu óc và trái tim của ông;
ông không bao giờ cảm thấy có sự ngăn cách nào cả.
Khandro đã đi mời
thầy tôi, Jamyang Khientse. Tôi không sao quên được cái lúc ông khom lưng
để bước vào căn lều. Ông đưa mắt nhìn vào mặt của Lama Tseten
rồi nhìn sâu vào đôi mắt, và khởi sự cười khúc khích. Ông thường gọi
Lama Tseten là "La Ghen", vị lạt ma già, một cách gọi
âu yếm của ông. Ông bảo:
- La Ghen, đừng
có ở trong trạng thái đó.
Bây giờ tôi hiểu rằng,
lúc đó thầy tôi đã thấy Lama Tseten đang nhập vào một thứ định
trong đó hành giả tan hòa bản chất của tâm mình với không gian của
chân lý.
- Ông biết chứ, La-Ghen,
nếu ông nhập định này, thì một đôi khi có vài chướng ngại vi tế có
thể phát sinh. Nào, ta sẽ hướng dẫn ông.
Sửng sốt, tôi ngắm
nhìn những gì xảy ra kế tiếp, và nếu không phải chính mắt tôi trông
thấy thì tôi sẽ không bao giờ tin được. Lama Tseten sống lại. Rồi
thầy tôi ngồi một bên ông ta, hướng dẫn thần thức ông đi vào cõi chết.
Có nhiều cách làm việc này, và cách mà thầy tôi đang sử dụng lúc đó
kết thúc với ba lần thầy thốt lên âm “A”. Khi thầy tôi thốt tiếng
“A” đầu tiên, chúng tôi có thể nghe Lama Tseten nói theo khá
rõ. Lần thứ hai, giọng ông không rõ nữa, và lần thứ ba thì hoàn toàn
im lặng: Ông đã chết.
Cái chết của Samten
đã dạy cho tôi mục đích của sự tu hành, cái chết của Lama Tseten
cho tôi thấy rằng những hành giả thuộc tầm cỡ như ông lúc sinh thời vẫn
ẩn giấu những khả năng kỳ diệu của mình, và đôi khi chỉ bày tỏ
chúng một lần mà thôi, vào lúc chết. Mặc dù còn bé xíu, tôi cũng đã
hiểu rằng có một sự khác nhau rõ rệt giữa cái chết của Samten
và của Lama Tseten, đó là sự khác nhau giữa cái chết của một thầy
tu tử tế có hành trì lúc sinh thời, và cái chết của một hành giả có
nội chứng tâm linh sâu xa hơn nhiều. Samten chết một cái chết bình
thường và chết trong đau đớn, nhưng với sự bình an của đức tin; còn
cái chết của Lama Tseten là một sự thi triển thần thông của sự
làm chủ tâm ý.
Ngay sau tang lễ Lama
Tseten, chúng tôi di chuyển lên tu viện Yamdrok. Như lệ thường, tôi
ngủ cạnh thầy tôi trong phòng ông, và tôi còn nhớ đêm ấy tôi đang ngắm
những cái bóng của những ngọn đèn thắp bằng bơ nhảy múa trên vách tường.
Trong lúc mọi người ngủ say, tôi đã nằm thức và khóc suốt đêm trường.
Điều ấy tôi hiểu rằng cái chết là một sự thật, và cả tôi nữa cũng
sẽ phải chết. Khi tôi nằm đấy suy nghĩ về sự chết và về cái chết
của chính tôi, qua tất cả nỗi đau buồn đó, trong tôi một ý thức sâu
xa dần dần ló dạng, đó là ý thức rằng "mình phải chấp nhận
nó". Và với ý thức ấy, tôi quyết định cống hiến cuộc đời mình
cho sự tu tập tâm linh.
Thế là tôi đã khởi
sự giáp mặt cái chết và những hàm ẩn của nó khi tuổi còn rất nhỏ.
Lúc ấy tôi không bào giờ tưởng tượng được rằng ta phải trải qua biết
bao nhiêu là cái chết dồn dập, hết cái chết này tới cái chết khác.
Cái chết mất nước Tây Tạng sau khi Trung quốc xâm chiếm. Cái chết lưu
đày. Cái chết mất mọi thứ mà gia đình tôi và tôi đã sở hữu. Gia đình
tôi, Lakar Tsang, đã từng là một trong những nhà giàu nhất xứ Tây
Tạng. Từ thế kỷ thứ mười bốn, gia đình tôi đã nổi tiếng là một
trong những thí chủ quan trọng nhất của Phật giáo, bằng cách hỗ trợ sự
hoằng dương chánh pháp và giúp các bậc thầy vĩ đại trong những công
trình của họ.
Nhưng cái chết tàn
phá tôi hơn tất cả thì chưa xảy tới, đó là cái chết của thầy tôi, Jamyang
Khientse. Khi ngài mất, tôi cảm như nền móng cuộc đời tôi đã sụp
đổ. Đấy là vào năm 1959, năm mà nước Tây Tạng sụp đổ. Đối với
người Tây Tạng, cái chết của thầy tôi là một số ác liệt thứ hai,
và đối với xứ Tây Tạng, cái chết ấy đánh dấu sự cáo chung của một
thời đại.
CÁI CHẾT TRONG THẾ GIỚI TÂN TIẾN
Khi mới đến Tây phương
lần đầu, tôi hoàn toàn kinh ngạc vì sự trái ngược giữa những thái độ
đối với cái chết ở đây với những gì tôi đã quen thuộc từ bé. Mặc
dù đã đạt đến nhiều thành quả kỹ thuật, xã hội tân tiến phương tây
vẫn chưa có hiểu biết thực sự nào về cái chết hoặc những gì xảy
ra trong khi chết hay sau khi chết.
Tôi được biết rằng
người ngày nay được dạy phải phủ nhận cái chết, xem nó không có ý
nghĩa gì ngoài ra là sự hoàn toàn hủy diệt, tiêu vong. Điều đó có nghĩa
rằng phần đông người trên thế giới ngày nay hoặc sống trong sự phủ
nhận cái chết hoặc sợ hãi nó. Ngay cả việc nói về cái chết cũng được
xem là điềm gở, nhiều người tin rằng nhắc đến cái chết thì cũng gần
như là mong nó xảy đến cho mình.
Nhiều người khác
nhìn cái chết với một sự vui vẻ ngây ngô thiếu suy nghĩ, tưởng chừng
như vì một lý do bí ẩn nào đó, cái chết sẽ đến với họ một cách
êm thấm, không có gì phải lo ngại. Khi nghĩ đến những người này, tôi
nhớ lời một bậc thầy của Tây Tạng nói:
- Người ta thường
khinh suất về sự chết và cứ nghĩ: "Ôi! Hơi đâu mà lo cho mệt,
ai rồi cũng phải chết, chuyện đó tự nhiên quá mà. Tôi thì khỏi lo.”
Nhưng đấy chỉ là lý thuyết, đến khi sắp chết mới biết không phải
là chuyện đơn giản.
Trong hai thái độ nói
trên về cái chết, thì một thái độ xem chết như chuyện gở cần né
tránh, một xem chết là một điều sẽ xảy đến tự nhiên không cần lo
nghĩ. Nhưng cả hai đều hoàn toàn cách xa sự am hiểu ý nghĩa đích thực
của cái chết.
Mọi truyền thống
tôn giáo lớn nhất của nhân loại, dĩ nhiên trong đó có Ki tô giáo,
đều nói rõ cho ta biết rằng chết không phải là hết. Các tôn giáo ấy
đều nói đến một viễn ảnh về đời sắp đến, khiến cho cuộc đời
hiện tại ta đang sống mang đầy ý nghĩa thiêng liêng. Nhưng mặc dù có những
giáo lý như vậy, phần lớn xã hội tân tiến vẫn là một sa mạc tâm
linh ở đấy đa số người tưởng chừng như cuộc đời này là tất cả.
Vì thiếu một đức tin chân chính về đời sau, họ sống mà không có một
mục đích tối hậu nào cả.
Tôi đã nhận ra rằng
thái độ chối bỏ cái chết có những hậu quả khốc hại vượt ngoài phạm
vi cá nhân, nó ảnh hưởng tới hoàn thể hành tinh này. Vì tin tưởng chỉ
có cuộc đời này mà thôi, không có đời nào khác, cho nên người thời
nay không phát triển một tri kiến sâu xa nhắm đến trường kỳ. Do đó
không có gì để ngăn cản họ khỏi cướp bóc quả địa cầu vì những mục
tiêu cấp thời, hoặc ngăn họ sống một cách ích kỷ gây tai họa cho tương
lai. Chúng ta còn cần bao nhiêu lời cảnh cáo khác nữa, giống như lời sau
đây của ông Bộ trưởng xứ Brazil về Môi sinh, người chịu trách
nhiệm bảo vệ rừng Amazone.
- Xã hội kỹ nghệ
tân tiến quả là một thứ tôn giáo cuồng tín. Chúng ta đang phá hoại,
làm nhiễm độc, hủy diệt tất cả mầm sống trên hành tinh này. Chúng ta
đang ký những giấy nợ mà con cháu chúng ta sẽ không thể trả... Chúng ta
đang làm như thể mình là thế hệ cuối cùng trên hành tinh này. Nếu
không có một biến cải tận gốc về tâm, trí và lối nhìn, thì trái đất
sẽ kết thúc như Vénus, cháy thành than và chết.
Sự sợ chết và
không biết đến đời sau quả đang cung cấp nhiên liệu cho sự thiêu hủy
sinh môi đe dọa tất cả đời sống chúng ta. Vậy có phải là sự thể
càng phiền phức hơn nếu người ta không được học tập về chết là
gì, hoặc làm thế nào để chết? Nếu người ta không được thấy vài hy
vọng vào những gì nằm sau cái chết, và bởi thế, biết được những gì
thực sự nằm sau sự sống? Có gì mỉa mai hơn, khi giới trẻ được học
đầy đủ mọi môn ngoại trừ môn học duy nhất chứa đựng chìa khóa mở
ra toàn thể ý nghĩa cuộc đời, và có thể là mở đến chính sự sinh tồn
của chúng ta?
- Bạn có tin có đời
sau không?
Không phải hỏi họ
có tin ở một lý thuyết triết học về đời sau không, mà hỏi họ có cảm
thức niềm tin ấy một cách sâu xa trong tim họ không. Bậc thầy biết rằng
nếu người ta tin có đời sau, thì toàn bộ nhân sinh quan của họ sẽ
khác, họ sẽ ý thức rõ về trách nhiệm cá nhân và về đạo đức. Những
gì các bậc thầy phải hoài nghi là, với những người không tin có đời
sau, thì có nguy cơ là họ sẽ kiến tạo một xã hội chỉ nhắm đến những
kết quả đoản kỳ, không cần suy nghĩ nhiều về hậu quả hành động.
Phải chăng điều này có thể là lý do chính tại sao chúng ta đã tạo nên
một thế giới tàn bạo như hiện nay, một thế giới ít có lòng bi mẫn
thực sự?
Đôi khi tôi nghĩ rằng
những nước giàu mạnh nhất của thế giới đã phát triển thật giống
như những cõi trời mô tả trong kinh. Trong kinh mô tả loài chư thiên sống
cực kỳ xa hoa, hưởng đủ mọi lạc thú, không lo lắng gì về chiều hướng
tâm linh của cuộc đời. Mọi sự xảy ra thật tốt đẹp cho đến khi cái
chết đến gần, với những suy tưởng bất ngờ xuất hiện. Khi ấy những
bà vợ và tình nhân của họ không dám đến gần họ, chỉ đứng từ xa mà
tung hoa tới, với lời cầu nguyện chiếu lệ rằng mong cho họ được sanh
làm trời trở lại. Không một hoài niệm nào về những hạnh phúc hay tiện
nghi đã qua có thể làm nơi trú ẩn cho họ khỏi cái khổ trước mắt, trái
lại càng làm cho nó bi đát hơn. Cứ thế những vị trời bị bỏ rơi cho
chết trong cô đơn khốn khổ.
Số phận những vị
trời ấy làm tôi nhớ đến cách người ta đối xử với những người lớn
tuổi, người bệnh và người sắp chết hiện nay. Xã hội chúng ta bị ám
ảnh bởi tuổi trẻ, dục tính, quyền lực, và chúng ta tránh né tuổi
già, tránh né sự tàn tạ. Có phải thật kinh khủng, khi ta bỏ rơi người
già vì cuộc đời hoạt động của họ đã chấm dứt, họ không còn ích
lợi nữa? Có phải thật ray rứt khi ta tống họ vào nhà dưỡng lão, ở
đấy họ phải chết trong cô độc, bị ruồng bỏ?
Phải chăng cũng đã
đến lúc ta phải nhìn lại cách ta đối xử với những người mắc bệnh
nan y như ung thư và AID? Tôi biết một số người đã chết vì bệnh AID,
và đã thấy họ thường bị cả đến bạn bè cũng xem họ như những tiện
dân. Dấu ấn gắn liền với cơn bệnh đã đưa họ tới chỗ tuyệt vọng,
làm cho họ cảm thấy đời mình thật ghê tởm, và dưới mắt người khác
thì đời họ coi như đã chấm dứt.
Ngay cả khi một người
ta quen biết hay thương mến sắp chết, nhiều người cũng không biết phải
làm sao để giúp đỡ họ; và khi họ chết, không ai khuyến khích ta nên
có một ý niệm gì về tương lai của người chết, họ sẽ ra sao, làm sao
ta có thể tiếp tục giúp đỡ họ. Quả thế, mọi ý nghĩ tương tự đều
dễ bị xua đuổi xem là lố bịch, vô nghĩa.
Tất cả điều này
cho ta thấy rõ rằng, hơn bao giờ hết, chúng ta đang cần một sự thay đổi
căn để trong thái độ đối với cái chết và người sắp chết.
May thay, những thái độ
đã bắt đầu thay đổi. Phong trào Tiếp dẫn đường chẳng hạn, đang làm
những công việc kỳ diệu là đem lại sự săn sóc thuộc phạm vi thực tiễn
và tình cảm. Tuy nhiên, sự săn sóc thực tiễn và tình cảm chưa đủ; dĩ
nhiên người hấp hối cần được săn sóc yêu mến, song họ còn cần một
cái gì sâu sắc hơn nữa. Họ cần khám phá một ý nghĩa thực thụ cho cái
chết và sự sống. Không thế thì làm sao chúng ta có thể đem lại cho họ
niềm an lạc tối hậu? Bởi vậy, giúp đỡ người hấp hối còn cần đến
khả năng tâm linh, vì chỉ nhờ có kiến thức về tâm linh mà chúng ta mới
có thể thực sự hiểu và đối mặt với cái chết.
Tôi lấy làm phấn chấn
tinh thần khi những năm gần đây, toàn bộ vấn đề chết và hấp hối đã
được mở ra ở Tây phương nhờ những nhà tiên phong như Elizabeth Kubler-Ross
và Raymond Moody. Khi nhìn kỹ cách thức chúng tôi săn sóc người sắp
chết, Elizabeth Kubler Ross đã chứng minh rằng, với một tình yêu vô
điều kiện, và một thái độ có tuệ giác, thì cơn hấp hối có thể trở
thành một kinh nghiệm an lành, chuyển hóa. Những nghiên cứu khoa học về
nhiều phương diện khác nhau của kinh nghiệm cẩn-tử (khi cần chết) ra đời
tiếp theo tác phẩm của Raymond Moody đã cho nhân loại thấy một hy vọng
mãnh liệt sinh động rằng cuộc đời không phải chấm dứt với cái chết,
và quả thực còn có một đời ở sau cuộc đời.
Rủi thay, có vài người
không thực hiểu ý nghĩa trọn vẹn của những khám phá ấy về sự chết.
Họ đi đến cực đoan thi vị hóa cái chết, và tôi đã nghe những trường
hợp bi đát về những thanh niên đã tự sát bởi vì họ tin rằng chết
là tốt đẹp và là một lối thoát khỏi những đau buồn trong đời họ.
Nhưng cả hai thái độ, sợ chết và ưa chết, đều là một kiểu trốn
tránh. Chết không đáng buồn cũng không đáng vui, đó chỉ là một sự kiện
hiển nhiên của cuộc đời.
Thật đáng buồn, là
phần đông chúng ta chỉ bắt đầu thưởng thức được hương vị đời sống
khi chúng ta sắp sửa chết. Tôi thường nghĩ về lời nói của bậc đạo
sư Padmasambhava (Liên Hoa Sanh):
- Những người tin rằng
họ còn có nhiều thời gian chỉ chuẩn bị lúc cái chết đến. Khi ấy thì
họ ân hận vô cùng. Nhưng có phải là đã quá muộn hay không?
Về thế giới hiện
nay, có lời bình luận nào rùng rợn hơn nhận xét rằng đa số người chết
mà không chuẩn bị cho cái chết, cũng như họ đã sống mà không chuẩn bị
cho đời sống?
CUỘC HÀNH TRÌNH QUA SỐNG CHẾT
Theo sự minh triết
của Phật, thì chúng ta có thể thực sự dành cả đời mình để chuẩn bị
cho cái chết. Chúng ta không cần chờ đến khi có người thân đang chết một
cách khó nhọc, hoặc khi gặp bạo bệnh bất ngờ, mới miễn cưỡng nhìn
lại đời mình. Chúng ta cũng không buộc phải đi tay không vào lúc chết
để gặp cái điều xa lạ mình chưa biết. Ta có thể khởi sự ngay tại
đây và bây giờ, tìm ra ý nghĩa cho đời mình. Ta có thể biến mọi lúc
thành một cơ hội để cho ta thay đổi và chuẩn bị - một cách nhiệt
tình, minh bạch, và an tâm – cho cái chết và vĩnh cửu.
Theo đạo Phật, sống
và chết được xem như một toàn thể, ở đây chết chỉ là khởi đầu của
một chương mới. Chết như một tấm gương trong đó phản chiếu tất cả
ý nghĩa cuộc đời.
Quan điểm ấy là cốt
tủy trong những giáo lý thuộc trường phái cổ xưa nhất của Phật giáo
Tây Tạng. Nhiều độc giả có lẽ đã nghe nói về quyển Tử thư của
Tây Tạng. Điều tôi định làm trong tác phẩm này là giải thích và
khai triển cuốn Tử thư ấy, để bao gồm không những cái chết mà
cả đến sự sống nữa, bổ túc chi tiết toàn thể nền giáo lý trong đó
Tử thư chỉ là một phần. Trong nền giáo lý vi diệu này, chúng ta
tìm thấy toàn bộ sự sống chết được trình bày song hành như một chuỗi
dài những thực tại thoáng chốc luôn luôn biến chuyển được biết dưới
danh từ Bardos, sự mờ mịt, danh từ này thông thường dùng để mô
tả trạng thái trung gian giữa chết và tái sanh, nhưng kỳ thực, Bardo
đang xảy ra liên tục suốt cả trong đời sống lẫn trong cái chết, và
là những giao thời cao điểm mà nếu biết vận dụng, nó có thể đưa đến
giác ngộ giải thoát.
Những Bardos là
cơ hội ngàn năm một thuở để giải thoát bởi vì, theo giáo lý, có một
vài thời điểm có mãnh lực hơn những lúc khác rất nhiều, đầy tiềm
năng hơn, vào lúc ấy bất cứ gì ta làm đều có một ảnh hưởng quan trọng
sâu xa. Tôi nghĩ Bardo giống như lúc mà bạn bước qua lề của một
vực thẳm; chẳng hạn như lúc bậc thầy khai thị cho đệ tử thấy bản
lai diện mục của y. Nhưng một trong những thời điểm lớn lao nhất, đầy
tiềm năng nhất, đó là lúc chết.
Theo Phật giáo Tây Tạng,
ta có thể chia toàn thể hiện hữu của mình thành bốn thực tại liên tục
nối tiếp nhau:
- Đời sống,
- Hấp hối và chết,
- Sau khi chết, và
- Tái sinh.
Bốn giai đọan này
được gọi là bốn Bardo:
- Thứ nhất là Bardo tự nhiên của đời
này,
- Thứ hai là Bardo đau đớn của sự
chết,
- Thứ ba là Bardo chiếu sáng của
dharmatta hay pháp giới tánh.
- Thứ tư là Bardo nghiệp lực đưa đến
tái sinh, trở thành.
Vì giáo lý về Bardo
có tính chất lớn lao bao trùm toàn diện như thế, nên sách này đã được
cấu trúc khá kỹ lưỡng. Bạn đọc sẽ được hướng dẫn từ giai đoạn
này đến giai đoạn khác trong quá trình khai mở tri kiến về cuộc hành
trình sinh tử. Cuộc thám hiểm của chúng ta đương nhiên phải khởi sự bằng
một sự suy nghiệm chân xác để biết chết nghĩa là gì, và nhiều mặt
khác nhau của sự thật về vô thường. Đó là loại tư duy có thể giúp
ta tận dụng đời sống này trong khi chúng ta còn có thời gian, để bảo
đảm khi chết sẽ không còn gì ân hận hay tự trách đã uổng phí một đời.
Như Milarepa bậc thánh thi sĩ nổi tiếng của Tây Tạng đã nói:
- Tôn giáo của tôi
là sống và chết làm sao để khỏi ân hận.
Khi quán chiếu sâu xa
về thông điệp của vô thường – cái gì quả thực đang nằm bên kia vô
thường và sự chết – chúng ta đi thẳng tới trong tâm của giáo lý cổ
xưa và đầy quyền năng của Tây Tạng, đó là bản chất tinh túy của
tâm, hay tự tánh của tâm. Sự trực nhận bản chất của tâm (trực ngộ
bản tâm) – mà ta có thể gọi là tinh túy sâu xa nhất của chúng ta,
cái sự thật mà tất cả chúng ta đều mong tìm đạt – chính là chìa
khóa của sự thấu hiểu về sống chết. Vì vào lúc chết, điều thực sự
xảy ra là, chỉ có cái tâm thường ngày (tức là ý thức do năm giác quan
đem lại) và những vọng tưởng của nó chết đi, và trong khoảng hở
này, bản chất vô biên của tâm ta, như một bầu trời bao la vô hạn, được
hiển lộ. Bản chất tinh túy này của tâm, hay tâm bản nhiên, chính là bối
cảnh cho toàn thể sự sống và chết, giống như bầu trời ôm trọn cả vũ
trụ.
Giáo lý dạy rõ
rằng, nếu chúng ta chỉ biết về tâm như là cái phần phải tan rã khi ta
chết (nghĩa là ý thức thuộc năm giác quan – ND),
thì chúng ta sẽ không biết gì về những gì sẽ tiếp tục, không có một
ý niệm nào về một "chiều không gian mới", nghĩa là về
cái tâm bản nhiên, một thực tại sâu xa hơn nhiều. Bởi thế, điều
tối cần với chúng ta là phải làm quen với tâm bản nhiên trong khi
ta còn sống. Có vậy chúng ta mới sẵn sàng để đón nhận nó khi nó hiển
lộ một cách tự nhiên và mãnh liệt vào lúc ta chết; có vậy ta mới có
thể nhận ra nó "một cách tự nhiên như một đứa trẻ chạy đến
nấp vào gối mẹ”, như giáo lý đã nói. Và khi ta an trú trong trạng
thái đó, cuối cùng sẽ được giải thoát.
Sự mô tả về tâm bản
nhiên đương nhiên dẫn đến một nền giáo dục đầy đủ về thiền định,
vì thiền là cách duy nhất, giúp ta có thể hé thấy, rồi dần dần trực
nhận và an trú cái tâm bản nhiên ấy. Kế tiếp sẽ đến phần giải thích
bản chất của tiến hóa nhân loại, tái sanh, nghiệp, để bạn đọc có một
ý niệm đầy đủ về ý nghĩa cuộc lộ trình của chúng ta qua sinh tử.
Ngang đây có lẽ bạn
đọc đã có đủ tri kiến để có thể đi vào trọng tâm của quyển sách
này: Một trình bày bao quát về cả bốn Bardos và các giai đoạn khác
của sự chết, rút từ nhiều kinh điển. Giáo lý, lời khuyên thực tiễn,
những sự luyện tâm, được trình bày chi tiết để giúp chúng ta và những
người khác kinh quá cuộc sống, kinh quá giai đoạn hấp hối, cái chết
và giai đoạn sau khi chết. Sách này kết thúc bằng một viễn tượng về
giáo lý Bardo có thể giúp ta hiểu thấu bản chất thâm sâu nhất của
nhân tâm và vũ trụ như thế nào.
Nhiều sinh viên thường
hỏi tôi:
- Làm sao ta biết được
những Bardos ấy là gì, từ đâu có được giáo lý minh bạch một
cách lạ lùng về Bardo, trí kiến khúc chiết về từng giai đoạn một
của quá trình chết, về sự chết và tái sinh ấy?
Đối với nhiều độc
giả, câu trả lời mới nghe dường như khó hiểu, bởi vì khái niệm về
tâm mà tây phương hiện có, là một khái niệm hết sức hẹp hòi. Mặc
dù những năm gần đây có những sự vượt rào đáng kể, nhất là về
khoa học tâm sinh lý và về tâm thức siêu việt, đại đa số các nhà khoa
học vẫn tiếp tục xem tâm chỉ là những quá trình vật lý trong não bộ,
điều này đi ngược lại chứng cứ của hàng ngàn năm kinh nghiệm của các
nhà thần bí và các thiền giả thuộc mọi truyền thống tôn giáo.
Vậy thì từ nguồn thẩm
quyền nào mà một quyển sách như thế này được viết ra? Một học giả
Hoa kỳ đã viết:
- Nội minh của đạo
Phật được căn cứ trên một tri kiến bao quát về thực tại, trên một
tuệ giác sâu xa về tự ngã và hoàn cảnh xung quanh; nghĩa là, trên sự
toàn giác của đức Phật (*).
Nguồn gốc của giáo
lý về Bardo là tâm giác ngộ, cái tâm đã hoàn toàn tỉnh thức của
Phật được chứng nghiệm và giảng giải bởi một dọc dài những bậc
đạo sư kể từ đức Phật Nguyên ủy trở về sau. Những khám phá tỉ mỉ
và thận trọng – có thể bảo là rất khoa học - của các ngài, và cách
lập thành công thức những khám phá ấy về tâm linh qua nhiều thế kỷ,
đã cho ta một bức tranh đầy đủ nhất có thể có về cả sự sống lẫn
sự chết. Chính bức tranh toàn diện này mà, được cảm hứng từ Jamyang
Khientse thầy tôi và những bậc thầy vĩ đại khác, lần đầu tiên
tôi đang cố truyền đạt lại cho người tây phương.
Trải qua nhiều năm
thiền quán, giảng dạy và thực tập, thỉnh vấn những bậc thầy để sáng
tỏ vấn đề, tôi đã viết ra quyển Tạng thư về sống chết này,
như một đúc kết tinh hoa những lời khuyên tâm huyết của các bậc thầy
tôi, để trở thành một Tử thư Tây Tạng và một Sinh thư Tây Tạng
mới. Tôi muốn nó sẽ là một sách dẫn, một sách tham khảo, và một nguồn
cảm hứng thiêng liêng. Chỉ nhờ đọc đi đọc lại nhiều lần, tôi xin gợi
ý, bạn mới có thể khám phá được nhiều tầng ý nghĩa sâu xa của nó.
Bạn sẽ thấy rằng càng sử dụng nó bao nhiêu, bạn càng thấy những hàm
ẩn của sách này bấy nhiêu, và càng nhận thức được chiều sâu của sự
minh triết đang được truyền đạt đến bạn qua nền giáo lý này.
Giáo lý Bardo chứng
minh cho ta thấy rõ những gì sẽ xảy đến nếu ta có chuẩn bị cho cái chết
và những gì sẽ xảy đến nếu chúng ta không chuẩn bị. Thật không thể
có chọn lựa nào minh bạch hơn. Nếu bây giờ chúng ta không chịu chấp nhận
cái chết trong lúc ta đang sống, thì chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt
suốt cuộc đời, vào lúc chết, và sau khi chết. Hậu quả sẽ là, ta tàn
phá cả cuộc đời này và tất cả những đời sắp tới. Ta sẽ không thể
sống cuộc đời mình một cách viên mãn, ta sẽ cứ bị giam hãm trong cái
phần phải chết của ta. Sự vô minh này sẽ cướp đi của ta cái căn bản
của cuộc hành trình tiến đến giác ngộ, và khiến chúng ta mãi mãi vướng
vào cái bẫy của ảo tưởng, vào chu kỳ sống chết không được kiểm soát,
cái biển khổ mà Phật tử thường gọi là luân hồi.
Nhưng thông điệp chính
của giáo lý Phật là, nếu ta có chuẩn bị, thì có hy vọng tràn trề ở
trong đời sống cũng như vào lúc chết. Giáo lý đó cho ta thấy cái khả
tính về một sự giải thoát vô giới hạn, mà ta phải đạt đến ngay bây
giờ trong đời này, sự giải thoát làm cho chúng ta có thể chọn lựa cái
chết của mình và bởi thế, chọn lựa sự sinh ra của mình. Đối với một
người có chuẩn bị và thực tập, thì cái chết đến với họ không phải
như một chiến bại mà là một chiến thắng, cái giờ phút vinh quang nhất
của cuộc đời.
Mục lục
| Lời
giới thiệu của Đức Dalai Lama | Lời nói đầu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | Phụ
lục 1: Vấn đáp về sự chết | Phụ lục 2: Hai mẫu
chuyện | Phụ lục 3: Hai bài thần chú |
Chúng tôi chân thành cảm
ơn hai vị Phật tử Hải Hạnh và Ngọc Sương đã phát âm đánh máy gởi
sách này về cho ban biên tập.