- TẠNG THƯ SỐNG-CHẾT
- THE TIBETAN BOOK OF LIVING
AND DYING
Sogyal Rinpoche
2. VÔ THƯỜNG
Không một nơi nào trên thế giới mà thần chết
không thể tìm được chúng ta – dù chúng ta có xoay đầu mọi phía để
tránh né. Nếu có một cách nào để tránh được vố đánh của tử thần,
thì tôi cũng không tránh làm gì... Nhưng thật điên rồ nếu nghĩ rằng bạn
có thể thành công...
Con người đến rồi đi, tung
tăng múa nhảy mà không hề đả động đến cái chết. Mọi sự đều êm
xuôi tốt đẹp. Nhưng khi cái chết xảy đến – cho chính họ, vợ con bè
bạn họ – trong lúc bất ngờ không chuẩn bị, thì ôi chao là họ đấm
ngực khóc than, phẫn nộ, tuyệt vọng xiết bao!
Để khởi sự tước đoạt thế
thượng phong của thần chết, chúng ta hãy áp dụng một đường lối hoàn
toàn ngược lại với thế thường; ta hãy coi cái chết như pha không có
gì lạ lùng cả, ta hãy thường lui tới với nó, quen thuộc với nó; ta
hãy để tâm thường xuyên nghĩ tới cái chết hơn bất cứ cái gì khác...
Ta không biết chừng nào thì cái chết chực sẵn để đón ta: Vậy ta hãy
chực sẵn để đón nó ở khắp mọi nơi. Tập chết chính là tập giải
thoát tự do. Một người biết cách làm thế nào để chết thì hết biết
làm nô lệ.
MONTAIGNE
Tại sao thật quá khó để tập
chết, tập giải thoát tự do? Tại sao ta lại sợ chết đến thế, và
hoàn toàn tránh nhìn thẳng vào nó? Tận tâm khảm, đôi lúc ta cũng biết rằng
ra không thể mãi mãi tránh đối mặt với nó. Milarepa nói rằng:
- Cái vật gọi là thây chết mà ta
chúa sợ này, hiện đang sống với ta ở đây.
Càng chậm trễ đối diện với cái
chết, ta càng xa lạ với nó, và nỗi sợ hãi bất an ám ảnh ta càng thêm
lớn. Ta càng cố chạy trốn nỗi sợ hãi ấy, thì nỗi sợ hãi càng thêm
ác liệt.
Chết là một huyền bí lớn rộng,
nhưng có hai điều ta có thể nói về nó: Điều tuyệt đối chắc chắn
là ta sẽ chết, và ta không chắc khi nào hoặc bằng cách nào ta sẽ chết.
Vậy, sự bảo đảm duy nhất mà ta có được, đó là giờ chết bất định,
và ta bám lấy nó làm cái cớ để khỏi trực tiếp giáp mặt cái chết.
Chúng ta như những đứa trẻ tự bịt mắt mình trong trò chơi trốn bắt và
tưởng không ai thấy được chúng.
Tại sao ta lại sống trong nỗi kinh
sợ cái chết đến thế? Bởi vì ước muốn theo bản năng của ta là được
sống và tiếp tục sống. Chết là một chấm dứt tàn bạo của mọi sự
mà ta xem là quen thuộc. Ta cảm thấy khi cái chết đến, ta sẽ rơi vào một
cái gì hoàn toàn xa lạ, hoặc trở thành một người nào hoàn toàn khác hẳn.
Ta tưởng mình sẽ lạc lõng chơi vơi giữa một khung cảnh lạ lùng kinh khủng.
Ta tưởng nó sẽ như lúc ta thức dậy một mình ở nơi xứ lạ, hoàn toàn
xao xuyến lo âu vì không biết ngôn ngữ, không biết đấy là đâu, không
tiền, không có giấy thông hành, không bè bạn...
Có lẽ lý do sâu xa nhất tại sao
ta sợ chết, là vì ta không biết ta là ai. Ta tin tưởng vào một cái thể
riêng biệt, tách rời, độc nhất vô nhị; song nếu dám xét kỹ nó, ta sẽ
thấy cá thể ấy hoàn toàn tùy thuộc vào một tập hợp bất tận gần đủ
thứ để phát sinh ra nó: Tên họ ta, "tiểu sử" ta, vợ hay
chồng, gia đình, tổ ấm, công việc, bè bạn, phiếu nợ... Chính trên những
chống đỡ mong manh tạm bợ ấy, ta đã nương tựa để có được an ninh
bảo đảm. Cho nên khi những thứ ấy đều bị tước khỏi ta, thì ta còn
có ý niệm gì về cái tôi thực sự là ai không?
Nếu không có những cây chống quen
thuộc của ta, thì ta bị đối diện với chính mình, một con người ta không
quen biết, một kẻ lạ gây rối luôn luôn sống chung với ta mà ta không
bao giờ thực sự muốn giáp mặt. Có phải đó là lý do ta cố lấp đầy
mọi giờ phút bằng hoạt động náo nhiệt, dù tầm thường đáng chán
cách mấy cũng xong, miễn là khỏi phải bao giờ bị bỏ lại một mình
trong im lặng với kẻ lạ ấy.
Và phải chăng điều ấy chứng tỏ
có một cái gì thật bi đát trong lối sống của ta? Chúng ta sống dưới một
lý lịch được gán cho mình, trong một thế giới ảo hóa không có thực
tính gì hơn Con Rùa Giả trong truyện Cuộc phiêu lưu của Alice. Bị mê
hoặc bởi lòng ham thích xây dựng, chúng ta đã xây những ngôi nhà cuộc
đời mình ở trên cát. Thế giới này có vẻ chắc ăn một cách kỳ tuyệt
cho đến lúc thần chết giật sập ảo tưởng và đuổi ta ra khỏi chỗ nấp.
Vậy cái gì sẽ xảy đến cho ta nếu ta không có một cái mốc nào của thực
tại sâu xa hơn, để bám víu?
Khi chết ta phải để lại tất cả
sau lưng mình, nhất là thân xác, cái thân xác ta đã nâng niu yêu quý biết
bao, đã nương tựa vào nó một cách mù quáng và cố gắng tối đa để làm
cho nó sống. Nhưng tâm ta cũng không khá gì hơn thân xác để làm điểm tựa:
Thử nhìn vào tâm bạn ít phút mà xem. Bạn sẽ thấy nó như một con rận
luôn luôn nhảy qua nhảy lại. Bạn sẽ thấy những ý tưởng khởi nên một
cách vô lối, không mạch lạc gì cả. Bị cuốn theo chiều gió bởi sự
huyên náo trong mọi lúc, chúng ta chính là nạn nhân của sự bốc đồng của
tâm ta. Nếu đây là cái trạng thái duy nhất của tâm mà chúng ta quen thuộc,
thì sự nương tựa vào cái tâm ấy trong lúc chết quả là một canh bạc
quái gở.
ẢO TƯỞNG LỚN
Sự ra đời của một người
cũng là ra đời nỗi khổ của y. Càng già con người càng ngớ ngẩn, vì nỗi
lo sợ cái chết không thể tránh càng thêm mãnh liệt. Thực cay đắng làm
sao! Y sống để đuổi theo những gì luôn luôn ở ngoài tầm tay. Lòng khao
khát sống còn trong tương lai làm cho y không thể sống trong hiện tại.
TRANG TỬ
Sau khi thầy tôi chết, tôi được
gần gũi Dudjom Rinpoche, một trong những thiền sư, hành giả mật
giáo và Du già sư vĩ đại của thời cận đại. Một ngày khi thầy đang lái
xe hơi xuyên nước Pháp cùng với vợ thầy, ngắm cảnh miền quê, họ đi
ngang một khu nghĩa trang dài vừa mới sơn quét và trang trí hoa tươi. Bà vợ
thầy nói:
- Rinpoche, ngài hãy xem mọi thứ
ở Tây phương thật ngăn nắp sạch sẽ đến thế. Ngay tại những nơi
người ta để thây chết cũng thật sạch không tì vết. Còn ở Đông phương
mình, ngay nhà người ta ở cũng không đâu sạch bằng ở đây.
Thầy nói:
- Ồ! Đúng thế; đây quả thực
là một xứ văn minh. Họ có những ngôi nhà đẹp đến thế cho những xác
chết. Nhưng bà không để ý sao? Họ cũng có những ngôi nhà tuyệt diệu
cho những xác sống nữa chứ.
Mỗi khi nhớ lại câu chuyện ấy,
tôi không khỏi nghĩ rằng cuộc đời thực trống rỗng vô vị làm sao, khi
nó được căn cứ vào một niềm tin sai lạc về trường cửu và tương tục.
Khi sống kiểu ấy thì chúng ta đã vô tình tự biến thành những cái xác
sống, như thầy Dudjom Rinpoche đã nói.
Nhưng đấy là kiểu sống của phần
đông chúng ta; chúng ta sống theo một kế hoạch đã định. Nhỏ thì được
giáo dục. Lớn lên kiếm việc làm, rồi gặp một người nào đó, rồi kết
hôn, rồi có con cái. Chúng ta mua một cái nhà, rán cho làm ăn trúng mánh, mơ
ước có một ngôi nhà ở miền quê hoặc thêm được một chiếc xe hơn. Vào
dịp nghỉ thì đi du lịch xa cùng với bạn bè. Chúng ta dự định kế hoạch
cho lúc về hưu. Những vấn đề trọng đại nhất mà một vài người
trong chúng ta từng gặp phải chỉ là: Không biết nên đi chơi đâu vào kỳ
nghĩ tới, hoặc nên mời ai vào dịp lễ Giáng sinh. Cuộc đời ta thật
đơn điệu, tầm thường, lặp đi lặp lại; ta phí cả một đời để
theo đuổi những chuyện nhỏ nhen, bởi vì dường như ta không biết có
cái gì hơn thế.
Nhịp điệu đời sống chúng ta rộn
ràng tới nỗi ta không có thì giờ để nghĩ đến cái chết. Ta ém nhẹm
những nỗi sợ hãi thầm kín của ta về vô thường bằng cách bao vây
quanh mình thêm nhiều đồ đạc, của cải, tiện nghi, chỉ để tự thấy
mình biến thành tên nô lệ cho chúng. Mọi thời giờ và năng lực của ta
đều kiệt quệ chỉ vì phải bảo trì những thứ ấy. Chẳng bao lâu mục
đích duy nhất của ta trên đời hóa ra chỉ là giữ cho mọi thứ ta sở hữu
càng được bảo đảm an ninh càng tốt. Khi có biến chuyển gì xảy đến,
ta tìm cách đối phó mau lẹ nhất, một giải pháp hiệu nghiệm tạm thời.
Cứ thế đời ta tiếp tục trôi giạt cho đến khi một cơn trọng bệnh
hay tai nạn nào đó lay ta ra khỏi cơn mê.
Cũng không hẳn là ta dành nhiều
thì giờ hay suy nghĩ cho cuộc đời này. Hãy nghĩ đến những người đã
làm việc bao nhiêu năm rồi phải hồi hưu, để thấy không biết mình phải
làm gì cả, vì họ càng ngày càng già và tiến gần cái chết. Mặc dù ta
luôn luôn hô hào phải thực tế, thực tế ở Tây phương có nghĩa là thiển
cận một cách vô minh và thường ích kỷ. Sự tập trung thiển cận của
chúng ta vào đời này và chỉ đời này mà thôi, chính là một ảo tưởng
lớn, nguồn gốc của nền duy vật đen tối và phá hoại của thế giới
ngày nay. Không ai bàn tới sự chết và đời sau, vì người ta có thói tin
rằng chuyện ấy chỉ làm đình trệ cái gọi là "sự tiến bộ" của
ta trên thế giới.
Nhưng nếu ước muốn sâu xa nhất
của chúng ta quả là sống và tiếp tục sống, thì tại sao ta lại cả quyết
một cách mù quáng rằng chết là hết chứ? Ít nhất cũng nên thử thám hiểm
xem có thể có đời sau hay không đã chứ? Nếu quả thực chúng ta có óc
thực nghiệm như ta tuyên bố, thì tại sao ta không khởi sự tự đặt câu
hỏi cho mình một cách nghiêm chỉnh: "Tương lai thực sự của ta nằm
ở đâu?" Chung quy, chẳng có mấy ai sống lâu trên trăm tuổi. Và
sau thời gian đó là cả một thời gian vô tận trải dài, không được giải
thích...
SỰ
LƯỜI BIẾNG NĂNG ĐỘNG
Có một câu chuyện cổ Tây Tạng
mà tôi rất thích, gọi là "Cha của Nổi-Tiếng-Như-Mặt-Trăng":
Một người nghèo kiết xác sau khi
làm lụng khá vất vả đã tích trữ được một bao lúa đầy. Anh ta lấy
làm hãnh diện, treo bao lúa trên xà nhà để đề phòng chuột và kẻ trộm,
rồi để chắc ăn hơn nữa, anh nằm ngay phía dưới. Khi nằm đấy anh bắt
đầu suy nghĩ lan man:
- Nếu đem bán lẻ số lúa này,
mình sẽ lời to, lấy tiền ấy mua thêm và lại bán, cứ mua đi bán lại
như thế chẳng bao lâu ta sẽ giàu, sẽ thành một người quan trọng trong làng
xóm. Con gái theo nườm nượp. Ta sẽ cưới một cô thật đẹp, và chẳng
bao lâu ta sẽ có một đứa con... Có lẽ là một thằng con trai. Ta sẽ đặt
tên nó là gì nhỉ?
Nhìn quanh nhà, tia mắt anh gặp phải
khung cửa sổ qua đó anh thấy ánh trăng đang lên. Anh nghĩ:
- Thật là điềm tốt! Ta đã tìm
được một cái tên hay. Ta sẽ gọi thằng con đó là Nổi-Tiếng-Như-Mặt-Trăng...
Trong khi anh ta đang nghĩ vơ vẩn thì
một con chuột đã trèo lên bao gạo, gặm đứt sợi dây. Vừa khi anh thốt
mấy tiếng đặt tên đứa con, thì bao gạo trên xà nhà rớt trúng làm anh
chết tức khắc. Dĩ nhiên là đứa con ấy không bao giờ được sinh ra.
Biết bao nhiêu người trong chúng
ta, giống như anh chàng nọ, đã bị cuốn trôi bởi cái mà tôi đã gọi
là "sự lười biếng năng động"? Dĩ nhiên có nhiều kiểu lười
biếng khác nhau: Đông phương và Tây phương. Cái kiểu ở phương
Đông là như kiểu thực hành thuần thục ở Ấn: Suốt ngày ngồi giữa trời
không làm gì cả, tránh né mọi công việc hay hoạt động hữu ích, uống
trà hết tách này tới tách khác, nghe nhạc vang lên từ một chiếc máy thu
thanh và tán gẫu với bạn bè. Kiểu lười Tây phương thì khác hẳn: Độn
đầy cuộc sống bằng những hoạt động hấp dẫn, sao cho không còn một
chút thì giờ nào để đối phó với những vấn đề then chốt.
Nếu nhìn vào cuộc đời mình ta sẽ
thấy biết bao nhiêu công việc không quan trọng, những cái gọi là "trách
nhiệm" cứ dồn dập độn đầy cuộc đời ta. Ta tự nhủ là muốn
dùng thì giờ vào những chuyện quan trọng trong đời, nhưng không bao giờ
có thì giờ ấy cả. Thức dậy buổi sáng là đã có bao nhiêu việc: Mở cửa
sổ, làm giường, tắm, chà răng, cho chó mèo ăn, giặt đồ, khám phá đã
hết cà phê hoặc đường, đi mua, làm thức ăn sáng - cả một dọc dài bất
tận. Rồi lại có áo quần phải lựa ra mà ủi và xếp. Rồi còn tóc tai,
trang điểm nữa thì sao? Không còn biết sao hơn, chúng ta nhìn ngày tháng đầy
những cú điện thoại và chương trình, và bao nhiêu trách nhiệm – hay ta
nên gọi là "vô trách nhiệm"?
Cuộc đời ta dường như xâm chiếm
lấy ta, như có một tối hậu thư oái ăm của nó, lôi tuốt chúng ta đi,
để cuối cùng ta cảm thấy mình không có quyền kiểm soát nó nữa. Dĩ
nhiên thỉnh thoảng ta cũng cảm thấy khó chịu về điều này, ta chiêm bao
ác mộng và thức dậy mồ hôi ướt đẫm, tự hỏi: "Ta đã làm chi
đời ta?" Nhưng nỗi kinh hoàng của ta chỉ kéo dài tới bữa ăn sáng,
rồi đâu vẫn hoàn đấy.
Tôi nghĩ đến lời một bậc thánh
Ấn Độ, Ramakrishna, đã nói với môn đệ:
- Nếu các anh chỉ dùng một phần
mười thời gian anh dành cho những môn giải trí như săn đuổi phụ nữ và
làm tiền, để mà tu luyện, thì chỉ trong vòng vài năm có thể giác ngộ.
Có một bậc thầy Tây Tạng sống
vào khoảng đầu thế kỷ, một Leonardo da Vinci của Hy Mã Lạp Sơn, tên
là Mipham. Tương truyền ông ta đã sáng chế một cái đồng hồ treo,
một khẩu đại bác, và một chiếc phi cơ. Nhưng mỗi khi làm xong một thứ,
ông lại phá hủy ngay, bảo rằng nó chỉ tổ gây thêm trò giải trí.
Tạng ngữ chỉ thân xác là lu,
có nghĩa "một cái gì ta để lại sau lưng" như hành lý. Mỗi
khi nói lu, ta nhớ rằng ta chỉ là những lữ khách tạm thời cư trú
trong đời này và thân xác này. Bởi thế ở Tây Tạng người ta không xao
lãng thì giờ vào việc làm cho hoàn cảnh sống thêm tiện nghi. Người Tây
Tạng cảm thấy hài lòng nếu có đủ ăn, mặc và một mái nhà trên đầu.
Nếu cứ tiếp tục như chúng ta – nghĩa là cố cải thiện hoàn cảnh sống,
thì dần dần công việc ấy tự nó trở thành mục đích chính, và đó là
một xao lãng vô lối. Có người nào tâm trí tỉnh táo mà lại cẩn thận
trang hoàng cái phòng khách sạn của mình mỗi khi thuê mướn không? Tôi
thích lời khuyên này của Patrul Rinpoche:
Hãy nhớ noi gương chị bò cái
già
Nàng hài lòng ngủ trong vựa lúa.
Bạn phải ăn, ngủ và bài tiết.
Đó là điều không thể tránh.
Ngoài ra, không việc gì đến bạn.
Đôi khi tôi có ý nghĩ rằng thành
tựu vĩ đại nhất của nền văn hóa tân tiến chính là nó bán Samsara
(sinh tử, luân hồi) một cách xuất sắc và có những lối giải trí trống
rỗng. Xã hội ngày nay đối với tôi dường như là cuộc lễ mừng tất cả
mọi thứ gì dẫn ta đi xa sự thật, làm cho người ta khó mà sống vì
chân lý, và nó lại còn không muốn cho người ta tin rằng có chân lý hiện
hữu. Và tất cả điều này thoát thai từ một nền văn minh tự cho là
tôn thờ sự sống, nhưng kỳ thực đã tước hết ý nghĩa đích thực của
cuộc đời; một nền văn minh luôn luôn nói làm cho người ta "hạnh
phúc," mà kỳ thực đã làm bế tắc con đường dẫn đến suối
nguồn của hạnh phúc chân thực.
Samsara tân tiến được tổ
chức tinh vi, thông bác, nó tấn công ta từ mọi góc cạnh bằng tuyên truyền,
và gây một môi trường nghiện ngập khó gỡ xung quanh ta. Càng cố thoát,
ta dường như càng vướng sâu vào cạm bẫy tinh vi nó đặt ra cho chúng ta.
Bậc thầy Jikmè Lingpa vào thế kỷ 18 nói:
- Chỉ vì bị cách tưởng sai biệt
làm cho mê hoặc mà hữu tình lang thang bất tận, trong vòng lẩn quẩn của
sinh tử.
Bị ám bởi những hy vọng sai lầm,
mộng mị, tham vọng, chúng ta như người đang bò qua một sa mạc bất tận,
đang khát cháy cổ. Và cái duy nhất mà thế giới tân tiến này đưa ra cho
ta uống là một cốc nước muối, chỉ cốt để làm cho ta thêm khá
ĐỐI MẶT CÁI CHẾT
Khi nhận thức điều ấy, có
phải là ta nên nghe lời Gyalseé Rinpoche khi ngài nói:
- Dự tính tương lai cũng giống
như đi câu trong một hố sâu không có nước;
Không bao giờ có gì xảy ra đúng
như bạn muốn, vậy hãy bỏ hết mọi kế hoạch tham vọng của ngươi đi.
Khi bạn phải tính toán một việc
gì.
Thì hãy xem nó không chắc như cái
giờ chết mà bạn chưa biết chắc.
Với người Tây Tạng, lễ hội
chính trong một năm là Năm Mới, như lễ Giáng sinh, Phục sinh, Tạ ơn, và
sinh nhật của bạn, tất cả dồn vào một dịp lễ. Patrul Rinpoché
là một bậc thầy vĩ đại mà cuộc đời đầy những biến cố lạ lùng
có thể làm sống động nền giáo lý. Thay vì ăn tết và chúc mừng năm mới
như mọi người, ngài lại khóc. Khi hỏi tại sao, ngài đáp rằng một năm
nữa lại trôi qua, ai cũng tiến gần cái chết thêm một chút, nhưng nhiều
người vẫn chưa chuẩn bị.
Hãy nghĩ đến cái gì có thể xảy
đến cho tất cả chúng ta một ngày nào đó. Chúng ta đang tản bộ trên
đường, đang suy nghĩ những chuyện làm ta phấn chấn, đang trầm tư về
những vấn đề quan trọng, hoặc chỉ đang nghe máy thu thanh bỏ túi. Bỗng
thình lình một chiếc xe hơi vút qua, suýt cán chết chúng ta.
Hãy bật truyền hình lên hay nhìn
qua một tờ nhật báo: bạn sẽ thấy chết ở khắp mọi nơi. Những nạn
nhân của những tai nạn phi cơ hoặc xe hơi ấy có bao giờ ngờ họ sẽ chết
không? Họ xem sống là chuyện đương nhiên, cũng như chúng ta. Biết bao lần
ta đã nghe những câu chuyện về người quen, bạn bè, chết bất thần, đột
ngột? Ta không cần phải bệnh rồi mới chết, cơ thể ta có thể thình
lình suy sụp, hỏng máy, hệt như chiếc xe hơi của ta. Hôm nay ta có thể
đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau. Milarepa
có khúc hát:
Khi đang khỏe mạnh
Bạn khồng hề nghĩ tới ốm đau
Nhưng bệnh tật thình lình giáng xuống
Nhanh như một tia chớp.
Khi bận những việc thế
gian
Bạn không bao giờ nghĩ đến cái
chết gần kề;
Nó đến nhanh như sấm sét
Bổ xuống đầu bạn.
Ta cần thỉnh thoảng tự dạy mình
mà hỏi: "Nếu đêm nay ta chết thì thế nào?" Ta không biết
ta có thức dậy sáng hôm sau không, thức dậy ở đâu. Nếu bạn thở ra
mà không thể hít vào lại, thế là bạn đã chết. Đơn giản là vậy. Người
Tây Tạng có câu: "Ngày mai hay đời sau, cái gì tới trước, ta không
thể biết".
Một vài bậc thầy nổi tiếng của
Tây Tạng ban đêm mỗi khi đi ngủ, thường rửa ly tách úp bên cạnh giường.
Họ không bao giờ chắc chắn mình có thức dậy để cần tới chúng sáng
hôm sau. Họ tắt hết lửa, không buồn lưu lại đóm mồi cho sáng hôm sau.
Từng sát na họ sống trong ý niệm có thể cái chết đang gần kề.
Cạnh am cốc của Jikmé Lingpa
có một cái ao mà ông phải khó nhọc lắm mới vượt qua. Một số đệ tử
xin xây một cái cầu, song ông bảo:
Xây làm gì? Ai biết được ta còn
sống để ngủ tại đây đêm mai?
Nhiều bậc thầy cố cảnh tỉnh
cho ta thấy rõ tính mong manh của đời sống bằng những hình ảnh mạnh hơn:
Họ bảo mỗi người trong chúng ta hãy nghĩ như mình là một tên tù tội
đang đi đến nơi hành quyết, như một con cá đang vùng vẫy trong lưới,
như một con bò đang đợi vào nhà tế sinh.
Thân thể nằm dài trên giường
lần cuối
Miệng thì thào những lời trăn trối
Tâm ngắm nhìn ký ức lần cuối diễn
ra:
Bi kịch ấy khi nào sẽ đến với
ngươi?
Điều quan trọng là ta phải tư duy
một cách thản nhiên và thường xuyên rằng cái chết thực có, và nó sẽ
tới mà không báo trước. Đừng để như con bồ câu trong ngạn ngữ Tây Tạng,
suốt đêm lăng xăng soạn chỗ ngủ cho đến sáng, và nó không còn thì giờ
để ngủ nữa. Như Drakpa Gyaltsen, một bậc thầy hiện đại, đã
nói:
- Loài người trải qua suốt cả đời
để chuẩn bị hết việc này tới việc khác chỉ để thình lình bắt gặp
đời sau mà họ hoàn toàn không chuẩn bị.
XEM
TRỌNG CUỘC ĐỜI
Có lẽ chỉ có những người hiểu
được tính mong manh của đời sống mới biết được sự sống quý báu
ngần nào. Một lần, khi tôi dự hội thảo ở Anh quốc, phóng viên đài
BBC phỏng vấn những người tham dự. Đồng thời họ cũng nói chuyện với
một người phụ nữ sắp chết. Bà ta vô cùng hãi sợ, vì bà chưa từng
nghĩ cái chết là thực có. Bây giờ bà đã biết. Bà chỉ có một thông
điệp duy nhất cho những người chết sau bà, đó là: Hãy xem trọng sự
sống và cái chết.
Xem trọng cuộc đời không có nghĩa
phải bỏ cả đời mà tĩnh tọa tư duy như thể là ta đang ở trên Núi Tuyết
hay như vào những ngày xưa tại Tây Tạng. Trong thế giới tân tiến, ta phải
làm việc và kiếm sống, nhưng không nên vướng vào kiểu sống "chụp
giật" không nhìn thấy một ý nghĩa sâu xa nào của cuộc đời. Công
việc của ta là tìm một thế quân bình, trung đạo, không quá dấn mình
vào những hoạt động và bận bịu ngoại vi, mà càng ngày càng làm cho cuộc
sống của ta trở thành đơn giản. Chìa khóa để tìm ra một thể quân
bình hạnh phúc cho đời sống hiện nay là tính giản dị.
Đó là ý nghĩa đích thực của giới
luật ở trong đạo Phật. Tạng ngữ gọi giới luật là Tsul trim. Tsul
có nghĩa là thích hợp, chính xác, và trim có nghĩa là quy luật hay
cách thức, con đường. Vậy giới luật là làm cái gì thích hợp hay chính
xác; ở trong một thời đại quá phức tạp như hiện nay, thì đó chính
là sống giản dị.
Chính từ đây mà ta có được sự
an bình trong tâm. Ta sẽ có nhiều thì giờ hơn để theo đuổi sự nghiệp
tâm linh và những hiểu biết có thể giúp chúng ta giáp mặt cái chết.
Buồn thay, đây là điều mà trong
chúng ta ít có ai làm. Có lẽ bây giờ ta nên tự đặt cho mình câu hỏi:
- Thực sự ta đã làm được cái
gì trong đời ta?
Tôi muốn nói là, ta đã thực sự
hiểu được bao nhiêu về sống chết. Điều làm tôi lên tinh thần là sự
xuất hiện những báo cáo về các nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, như những
quyển sách của bạn tôi, anh Kenneth Ring và những người khác. Một
số đáng kể những người sống sót qua tử nạn hoặc qua kinh nghiệm lúc
suýt chết đều mô tả họ có một toàn cảnh cuộc đời họ diễn ra
trong tâm trí vào lúc đó. Một cách sống động và chính xác, họ sống lại
những biến cố quan trọng của đời họ. Đôi khi họ còn thấy sống lại
những hậu quả hành động của họ đối với kẻ khác, và kinh quá những
cảm xúc mà hành động họ đã gây nên. Một người đàn ông kể cho Kenneth
Ring nghe:
- Tôi nhận ra rằng có những việc
mà mỗi người được đưa xuống trần gian để học hỏi và thực chứng.
Chẳng hạn để san sẻ thêm tình yêu thương, lân mẫn đối với nhau hơn.
Để khám phá rằng điều quan trọng nhất là mối tương giao giữa người
với người và lòng nhân ái chứ không phải là những thứ duy vật. Để
thấy rằng mỗi một việc làm của bạn trong đời này đều được ghi lại,
và mặc dù lúc đó bạn không nghĩ tới, nó vẫn xuất hiện lại về sau.
Đôi khi cuộn phim về cuộc đời xảy
ra kèm theo một "thực thể ánh sáng" quang vinh. Điều nổi bật
trong nhiều nhân chứng khác nhau là, sự gặp gỡ "thực thể"
ấy chứng tỏ rằng mục đích thực sự duy nhất trong đời là "tập
sống yêu thương kẻ khác và có được tri kiến".
Một người kể với Raymond Moody:
- Khi ánh sáng xuất hiện, điều đầu
tiên ngài nói với tôi là: "Con đã làm gì để chứng tỏ với ta là
con đã sống trọn vẹn đời con?" hoặc một điều gì tương tự
như thế... Tựu trung suốt buổi, ngài cứ nhấn mạnh về tầm quan trọng
của yêu thương... Ngài dường như cũng rất quan tâm đến những việc liên
hệ tới hiểu biết nữa...
Một người khác bảo với Kenneth
Ring:
- Tôi được hỏi, mà không nghe
thành lời – nó như một giao cảm tâm linh trực tiếp - rằng: "Tôi
đã làm gì để đem lại lợi lạc hay tiến hóa cho loài người?"
Những hành động của ta lúc sống
như thế nào, thì khi chết ta như thế ấy. Và tất cả mọi sự, tuyệt đối
tất cả, đều đáng kể.
MÂY MÙA THU
Ở tu viện của ngài tại Népal,
vị đệ tử già nhất hiện còn sống của thầy tôi là Dilgo Khientse
Rinpoche, đã giảng dạy đến ngày cuối một khóa tu học. Ngài là một
trong những bậc thầy nổi tiếng hiện nay, đã từng dạy cả đến đức Dalai
Lama và nhiều bậc thầy khác, những người xem ngài như một kho tàng bất
tận của trí tuệ và từ bi. Tất cả chúng tôi đều ngước lên mà chiêm
ngưỡng con người vĩ đại như tuyết ấy, một bậc học giả, thi sĩ, và
hành giả mật tông đã trải qua hai mươi lăm năm trong đời để nhập thất
ẩn cư. Ngài dừng lại và đưa mắt nhìn xa xăm, dạy rằng:
- Tôi nay đã già bảy mươi tám tuổi,
đã trông thấy quá nhiều việc trong đời. Bao nhiêu người trẻ tuổi đã
chết, bao nhiêu người bằng tuổi đã chết, bao nhiêu người già đã chết.
Nhiều người ở trên cao đã tụt xuống thấp. Nhiều người ở dưới thấp
đã vượt lên cao. Nhiều xứ sở đã biến đổi. Đã có bao nhiêu biến động
đau thương, bao nhiêu chiến tranh, tật dịch, bao nhiêu tàn phá trên khắp
thế giới. Tuy thế tất cả những biến chuyển kia không thực gì hơn một
giấc chiêm bao. Khi ta nhìn thật sâu xa, ta nhận ra rằng không có một cái
gì trường cửu miên viễn, không một cái gì, cả đến sợi lông măng trên
thân thể ta. Và đây không là một lý thuyết, mà là điều bạn có thể
thực sự chứng nghiệm, thấy biết bằng chính mắt bạn. Tôi thường tự
hỏi: "Tại sao mọi sự đều thay đổi?" Và chỉ một câu trả
lời duy nhất trở lại với tôi: "Đấy là cuộc đời." Không
một thứ gì, tuyệt đối không thứ gì, có một tính chất trường cửu nào
cả. Đức Phật dạy:
Hiện hữu của chúng ta mong manh
như mây mùa thu
Cảnh sống chết như màn nhảy
múa.
Đời người như chớp loáng qua bầu
trời
Vút nhanh như thác trên núi cao đổ
xuống.
Một trong những lý do chính khiến
ta lấy làm khó khăn lo sợ khi đối mặt cái chết là vì ta tảng lờ sự
thật về vô thường. Chúng ta cứ khăng khăng muốn mọi sự tiếp tục
như cũ, đến nỗi ta tưởng rằng chúng vẫn luôn như vậy. Nhưng đấy chỉ
là ảo tưởng. Chúng ta cũng thường thấy rằng lòng tin không ăn nhập gì
với thực tại. Ảo tưởng ấy, cùng với những thông tin sai lạc, ý tưởng,
giả thuyết, là một nền tảng bấp bênh trên đó ta xây dựng cuộc đời
ta. Dù sự thật có xen vào chứng minh ngược lại, chúng ta vẫn cố bám giữ
lấy ảo tưởng của ta.
Trong tâm trí ta, sự biến chuyển
luôn đồng nghĩa với mất mát, đau khổ. Và khi nó xảy tới, ta cố tự
"gây mê" cho mình càng nhiều càng hay. Ta cứ nghĩ một cách
ươn ngạnh phi lý rằng sự trường cửu đem lại an ninh, còn vô thường
thì không. Nhưng kỳ thực vô thường cũng như một vài người ta gặp
trong đời, lúc đầu khó chịu nhưng khi đã quen biết lại rất thân thiện,
không đáng bực mình như ta tưởng.
Hãy suy nghĩ về điều này: Sự thực
chứng về vô thường, ngược đời thay, lại là cái duy nhất ta có thể nắm
chắc, có lẽ đấy là sở hữu bền bỉ duy nhất của ta. Nó giống như bầu
trời hay trái đất. Bất kể vạn vật chung quanh ta đều có thể sụp đổ,
đổi thay bao nhiêu, trời đất vẫn tồn tại mãi. Chẳng hạn chúng ta có
trải qua một cơn khủng hoảng đau đớn ê chề, toàn bộ cuộc đời ta
dường như tan rã thành mảnh vụn... Chẳng hạn người bạn đời của ta
đột ngột bỏ ta không báo trước. Nhưng trái đất vẫn còn đó, bầu trời
còn đây. Dĩ nhiên, thỉnh thoảng ngay cả trái đất cũng chấn động, chỉ
để mà nhắc cho ta nhớ đừng có chắc ăn bất cứ một việc gì...
Ngay cả đức Phật cũng chết. Cái
chết của ngài là một cách giáo hóa, để gây chấn động nơi kẻ ngây
ngô, biếng nhác, tự mãn, để đánh thức cho ta thấy sự thật là mọi sự
đều vô thường, và cái chết là một sự kiện hiển nhiên của cuộc đời.
Khi gần chết, đức Phật đã dạy:
- "Trong các dấu chân, dấu
chân voi là lớn hơn cả. Trong các phép quán niệm xứ, thì niệm vô thường
là hơn cả."
(Kinh Đại bát Niềt Bàn)
Mỗi khi chúng ta đánh mất mục
tiêu của mình, rơi vào lười biếng giải đãi, thì sự quán niệm vô thường
và chết lay ta trở về sự thật:
Cái gì đã sinh ra sẽ chết
Cái gì đã tụ, sẽ tan
Cái gì có tích lũy sẽ cạn kiệt
Cái gì đã xây dựng sẽ sụp đổ
Và cái gì lên cao sẽ xuống thấp.
Toàn thể vũ trụ, theo các nhà khoa
học hiện nay, chỉ là sự chuyển biến, hoạt động, tiến trình, một tổng
thể biến thiên làm nền tảng cho mọi sự vật.
Mỗi tác động hỗ tương trong một
hạt nhân nguyên tử gồm có sự hủy diệt và tái tạo những hạt nguyên
tử (subatomic particles). Thế giới bên trong một nguyên tử là cuộc luân vũ
liên tục của sinh và diệt, vật chất chuyển thành năng lượng và năng
lượng thành vật chất. Những hình dạng phù du thoạt hiện thoạt mất tạo
thành một thực thể bất tuyệt mãi mãi được tái tạo. (*)
Đời chúng ta là gì nếu không phải
là cuộc luân vũ của những hình dạng phù du ấy? Há chẳng phải mọi sự
luôn luôn thay đổi: Lá trên cành cây trong công viên, ánh sáng trong phòng bạn
lúc đang xem sách này, những mùa, khí hậu, thời gian trong ngày, người qua
lại trên đường. Còn bạn thì thế nào: Không phải mọi sự ta làm trong
quá khứ bây giờ chỉ như một giấc mộng đó sao? Những bạn bè thuở
bé, những chỗ ngày nhỏ ta thường lui tới, những quan niệm, ý tưởng mà
có một thời ta đã say mê ấp ủ: Ta đã bỏ lại tất cả sau lưng. Bây
giờ, trong giây phút này, bạn thấy sự đọc những trang sách này dường
như rất thực. Nhưng rồi nó cũng chỉ còn là một ký ức.
Những tế bào trong cơ thể ta đang
chết, những tế bào não ta đang tàn tạ, cả đến sự biểu hiện trên gương
mặt ta cũng luôn thay đổi tùy theo tâm trạng ta. Cái mà ta gọi là tính
tình của ta chỉ là một dòng tâm thức, không gì khác. Hôm nay ta cảm thấy
thoải mái vì mọi sự tiến triển tốt đẹp, ngày mai ta cảm thấy ngược
lại. Vậy thì cái cảm giác thoải mái đi đâu rồi? Những ảnh hưởng mới
xâm chiếm lấy ta, mỗi khi hoàn cảnh thay đổi: Chúng ta đã vô thường,
hoàn cảnh cũng vô thường, không một thứ gì chắc chắn bền bỉ ở bất
cứ đâu, mà ta có thể chỉ ra.
Không gì khó tiên liệu hơn là những
ý tưởng và tình cảm của ta: Bạn có bao giờ biết được bạn sẽ nghĩ
gì, cảm thấy thế nào trong thời gian sắp tới không? Tâm ta quả thực trống
rỗng, vô thường, phù du như một giấc mộng. Hãy nhìn một ý tưởng: Nó
đến, ở và đi. Quá khứ đã qua, tương lai chưa tới, và ngay cái ý nghĩ
hiện tại khi ta cảm nhận nó, nó đã thành dĩ vãng.
- Điều duy nhất ta thực sự có
được là cái bây giờ, là hiện tại.
Có đôi lúc, sau khi tôi giảng dạy
những điều này, một người tiến lên bảo:
- Tất cả chuyện đó rõ ràng quá
rồi. Tôi đã biết. Hãy giảng cho tôi nghe một điều gì mới lạ.
Tôi bảo họ:
- Bạn có bao giờ thực sự hiểu,
thân chứng sự thật vô thường hay chưa? Bạn đã thâm nhập nó trong từng
ý tưởng, hơi thở và động tác, đến nỗi cuộc đời bạn nhờ vậy mà
được đổi mới hay chưa? Hãy tự hỏi bạn hai câu này: Tôi có nhớ vào
mọi lúc, rằng tôi đang chết hay không, và mọi người mọi vật khác cũng
đang chết, bởi thế đối xử với mọi chúng sinh với lòng bi mẫn trong mọi
lúc? Sự hiểu biết về chết và vô thường nơi tôi có thực đã trở
nên bén nhạy, cấp thiết đến độ tôi đang dành mọi giây phút còn lại
của đời tôi để theo đuổi sự nghiệp giác ngộ? Nếu bạn có thể trả
lời "Có" cho cả hai câu hỏi ấy, thì bạn mới thực sự đã
hiểu ý vô thường.
Mục lục
| Lời
giới thiệu của Đức Dalai Lama | Lời nói đầu |
1 | 2 |
3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | Phụ
lục 1: Vấn đáp về sự chết | Phụ lục 2: Hai mẫu
chuyện | Phụ lục 3: Hai bài thần chú |
Chúng tôi chân thành cảm
ơn hai vị Phật tử Hải Hạnh và Ngọc Sương đã phát âm đánh máy gởi
sách này về cho ban biên tập.