- TẠNG THƯ SỐNG-CHẾT
- THE TIBETAN BOOK OF LIVING
AND DYING
Sogyal Rinpoche
8. ĐỜI NÀY: CÕI BARDO TỰ NHIÊN
Ta hãy thám hiểm Bardo đầu tiên, Bardo tự
nhiên của cuộc đời, cùng những hàm ẩn của nó, rồi sẽ tiếp tục
thám hiểm ba Bardo kia theo thứ tự và thời gian thích hợp. Bardo tự
nhiên của cuộc đời này trải dài suốt cuộc đời từ lúc sinh ra cho
đến lúc chết. Giáo lý về Bardo làm ta hiểu rõ tại sao đời này lại
là một cơ may quý báu, được làm người có nghĩa gì, và gì là điều
quan trọng nhất, cốt yếu nhất ta nên làm đối với tặng phẩm vô giá
này, nghĩa là một đời người.
Những bậc thầy cho ta biết có một
khía cạnh làm nền tảng căn để của tâm ta, gọi là "nền tảng của
tâm thường ngày." Longchenpa, bậc thầy Tây Tạng thế kỷ thứ
mười bốn, mô tả nó như sau:
- Đó là một trạng thái trung
tính, không giác ngộ, thuộc về tâm và tâm sở, đã trở thành nền tảng
cho mọi hành nghiệp và dấu vết của sinh tử và niết bàn.
Nó có nhiệm vụ như một cái nhà
kho, trong đó những dấu ấn của các hành vi quá khứ do cảm xúc tiêu cực
gây ra được tích chứa lại như những hạt giống. Khi những điều kiện
thích hợp phát sinh, chúng nẩy mầm và biểu hiện thành hoàn cảnh của đời
ta.
Hãy tưởng tượng cái nền tảng của
tâm ấy giống như một ngân hàng trong đó nghiệp được gửi vào kể như
những dấu ấn của khuynh hướng thói quen. Nếu ta có thói suy nghĩ theo một
mẫu mực đặc biệt nào đó, tiêu cực hay tích cực, những khuynh hướng
ấy sẽ bị kích động dễ dàng, cứ trở lại và tiếp tục trở lại. Với
sự lặp đi lặp lại ấy, những khuynh hướng và tập quán của ta càng
ăn sâu, tăng trưởng, thêm năng lực, ngay cả khi ta ngủ. Đây là cách những
thói quen, khuynh hướng ấy định đoạt đời ta, cái chết và tái sinh của
ta.
Chúng ta thường tự hỏi: "Tôi
sẽ như thế nào khi tôi chết?" Câu trả lời là, như cái tâm trạng
mà hiện thời ta đang là, loại người mà ta đang là:
- Ta sẽ như thế ấy khi ta chết, nếu
ta không thay đổi. Đấy là lý do tại sao thực quan trọng để xử dụng
cuộc đời hiện tại của mình để thanh lọc luồng tâm thức, và do đó
thanh lọc con người và tính tình ta, trong khi ta còn có thể làm việc ấy.
CÁI THẤY DO
NGHIỆP LỰC
Tại sao chúng ta sinh làm người?
Tất cả hữu tình có nghiệp giống nhau sẽ có một cái thấy giống nhau về
thế giới xung quanh, toàn bộ thấy biết mà họ cùng có ấy gọi là "cái
thấy do nghiệp." Sự tương ứng mật thiết giữa nghiệp chúng ta với
hoàn cảnh ta gặp, cũng giải thích được sự xuất hiện những hình tướng
khác nhau: Chẳng hạn bạn và tôi là những con người, là do cái nghiệp căn
để chung mà chúng ta cùng san sẻ. Tuy nhiên ngay trong thế giới người, chúng
ta còn có mỗi người một nghiệp riêng. Chúng ta được sinh ra trong những
xứ sở khác nhau, đô thị, gia đình khác; mỗi người hấp thụ một nền
giáo dục khác, có những ảnh hưởng và niềm tin khác, tất cả những thứ
này gồm chung lại thành nghiệp riêng của mỗi người. Mỗi chúng ta là một
tổng thể những thói quen và hành động quá khứ, do vậy chúng ta chỉ có
thể nhìn thấy sự vật bằng cái lối nhìn riêng biệt độc đáo của ta.
Con người có vẻ giống nhau nhưng nhìn sự vật với cách hoàn toàn khác
nhau, mỗi người sống trong một thế giới độc đáo của riêng mình. Kalu
Rinpoche nói:
- Một trăm người chiêm bao, thì
có trăm cảnh mộng khác nhau. Có thể nói mọi giấc mộng đều thực,
nhưng thật phi lý nếu cả quyết rằng chỉ có một của một người là cảnh
thực, những cảnh mộng khác đều sai sự thật. Mỗi người thấy sự thực
tùy theo nghiệp chi phối những nhận thức của họ.
LỤC ĐẠO
Đời người chúng ta không phải
là nghiệp cảnh duy nhất. Phật giáo phân biệt sáu cõi hiện hữu: Trời,
a tu la, người, súc sinh, quỷ đói, địa ngục. Mỗi cõi là hậu quả của
một trong sáu cảm xúc tiêu cực chính yếu: Kiêu mạn, ganh tị, dục vọng,
ngu si, thèm khát và giận dữ.
Sáu cõi ấy có thực sự hiện hữu
bên ngoài không? Chúng quả có thể hiện hữu vượt ngoài tầm nghiệp thấy
của ta. Đừng bao giờ quên: "Cái gì chúng ta thấy chỉ là do nghiệp,
thấy của chúng ta khiến cho thấy, không gì khác." Cũng như trong hiện
tại, với nhận thức bất tịnh, chưa tiến hóa của chúng ta, chúng ta chỉ
biết được vũ trụ này, một con vi trùng cũng thế, có thể thấy một
ngón tay của ta như cả một phong cảnh. Chúng ta kiêu căng tới nỗi chỉ
tin rằng "thấy là tin tưởng" (nghĩa là, có thấy mới tin.)
Nhưng những giáo lý cao của Phật thường nói đến vô lượng thế giới
trong nhiều chiều không gian khác nhau – có thể có nhiều thế giới rất
giống với thế giới chúng ta – và nhiều nhà thiên văn hiện đại đã
có những giả thuyết về sự hiện hữu những vũ trụ song hành với vũ
trụ này. Làm sao ta có thể cả quyết cái gì hiện hữu hay không hiện hữu
ở bên kia giới hạn tri kiến hẹp hòi của chúng ta?
Nhìn vào thế giới xung quanh ta, và
vào tâm ta, ta có thể thấy quả thực có sáu cõi luân hồi. Chúng hiện hữu
khi chúng ta vô tình để cho những cảm xúc tiêu cực nơi ta chiếu ra và kết
tinh thành những hoàn cảnh sống (cõi, hay y báo), và để cho những cảm xúc
ấy định đoạt mẫu mực, hình dạng, hương vị và toàn thể đời ta
trong những cõi ấy. Sáu cõi cũng hiện hữu trong tâm ta dưới dạng những
hạt giống và khuynh hướng tiêu cực luôn sẵn sàng để nẩy nầm và tăng
trưởng, tùy theo ảnh hưởng bên ngoài và lối sống của ta.
Ta hãy nhìn xem một vài cõi như thế
đã được phản chiếu và cô đọng lại trong thế giới quanh ta như thế
nào. Đặc tính chính của cõi trời chẳng hạn, là vắng bóng khổ đau, một
cõi có sắc đẹp bất biến và mê mẩn theo dục lạc. Hãy tưởng tượng
những vị thiên thần cao ráo, tóc hung đang tản bộ trên bờ biển, trong
những khu vườn ngập nắng, đang lắng nghe bất cứ bản nhạc nào họ ưa
thích, đang say sưa với đủ mọi thứ kích thích, hăng say học yoga
thiền định, luyện thân thể, và tìm đủ cách để cải thiện chính
mình, nhưng không bao giờ động não, không bao giời xúc chạm một sự rắc
rối nào, một hoàn cảnh đau khổ nào, không bao giờ ý thức đến tính bản
nhiên của họ, bị "gây mê" đến độ họ không bao giờ ý
thức được tình huống đích thực của mình.
Nếu một vài vùng ở California
hay úc châu hiện lên trong tâm ta như cõi thiên giới, thì bạn cũng có thể
thấy cõi tu la có lẽ diễn ra hàng ngày trong sự cạnh tranh mưu mẹo
ở vùng Wall Street hay trong những hành lang của Washington và Tòa
Bạch ốc. Còn cõi ngạ quỷ ở đâu? Nó hiện hữu ở bất cứ nơi
nào mà con người, dù đã giàu có vô tận, cũng không bao giờ thỏa mãn,
muốn chiếm lấy công ti này, công ti nọ, hoặc tỏ lòng tham không đáy của
họ tại các vụ án tòa. Hãy bật truyền hình lên bất cứ đài nào, bạn
sẽ đi vào ngay cái thế giới của tu la và quỷ đói.
Tính chất cuộc đời trong cõi chư
thiên có vẻ như thư thản hơn thế giới chúng ta, nhưng các bậc thầy lại
bảo đời người là vô vàn quý báu hơn. Tại sao? Vì chính cái sự kiện
rằng chúng ta có tỉnh giác và thông minh, những nguyên liệu cho giác ngộ.
Và vì sự đau khổ lan khắp cõi người ta chính là cái bàn đạp để cho
ta làm cuộc chuyển hóa tâm linh. Sự đau đớn, buồn phiền mất mát, và
đủ thứ bất mãn vô tận ở trong cuộc đời, thực sự chỉ có một mục
đích đáng kể duy nhất là: Đánh thức chúng ta tỉnh dậy, giúp ta có thể
- gần như bắt buộc ta - phải bứt ra khỏi chu kỳ sinh tử và nhờ thế
bung ra được ánh quang vinh đang bị vây hãm trong ta.
Mọi truyền thống tôn giáo đều
nhấn mạnh rằng đời người là cơ hội duy nhất, và có một tiềm năng
ghê gớm mà thường ta không ngờ tới. Nếu ta để lỡ cơ hội mà cuộc
đời này cống hiến cho ta tự chuyển hóa, thì có thể một thời gian vô
cùng tận nữa ta mới có được cơ hội khác. Hãy tưởng tượng có một
con rùa mù bơi trong đại dương bát ngát. Trên mặt biển có một cái vòng
bằng gỗ nhấp nhô theo sóng. Cứ một trăm năm con rùa mới ngoi lên mặt
biển một lần. Theo ví dụ trong Phật giáo, được sinh làm người còn
khó hơn là con rùa nổi lên và chui được cái đầu của nó vào chiếc
vòng gỗ ấy. Và trong số những người được sinh làm người, thì những
kẻ may mắn được gặp nền giáo lý này cũng rất hiếm; và những người
thực sự để tâm đến giáo lý và thể hiện giáo lý trong đời sống lại
càng hiếm hoi, quả vậy, "như sao mọc ban ngày."
CÁNH CỬA NHẬN
THỨC
Như tôi đã nói, cách chúng ta
nhìn thế giới tùy thuộc hoàn toàn vào nghiệp của ta. Những bậc thầy
có ví dụ sáu loài chúng sinh nhìn dòng sông. Loài người thấy con sông là
nước, để tắm rửa hoặc để uống; loài cá thấy đó là nhà ở của
chúng; loài trời trời thấy đó là vị cam lồ đem lại phúc lạc; loài tu
la thấy đó là khí giới của chúng, loài quỷ đói thấy ra máu mủ
tanh hôi; còn loài địa ngục thì thấy là nước đồng sôi. Nước chỉ có
một, nhưng được trông thấy nhiều cách khác nhau, nhiều khi hoàn toàn
trái ngược.
Sự nhận thức theo nhiều kiểu đa
dạng như thế chứng tỏ rằng tất cả cái thấy do nghiệp đều là ảo tưởng;
vì nếu một chất mà có thể được thấy ra nhiều cách như thế, thì
làm sao có thứ gì thực sự có được một thực hữu nội tại? Và nó cũng
cho ta thấy rằng có thể một vài người cảm thấy thế giới này là
thiên đường, vài người khác cho là địa ngục.
Giáo lý cho ta biết cốt yếu có ba
loại thấy: "Cái thấy bất tịnh, do nghiệp" của phàm phu;
"Cái thấy do kinh nghiệm," mở ra cho những người hành thiền,
mà là con đường siêu việt; và "Cái thấy thuần tịnh" của
những bậc giác ngộ. Một vị Phật hay người đã giác ngộ, sẽ thấy thế
giới này toàn hảo một cách tự nhiên, một cảnh giới hoàn toàn thanh tịnh
sáng chói. Vì đã tịnh trừ những nguyên nhân gây nên cái thấy đầy nghiệp
chướng, nên họ thấy mọi sự trong vẻ thiêng liêng nguyên ủy giản đơn
của nó.
Sở dĩ thấy mọi sự quanh ta theo
kiểu ta thấy bây giờ, là vì ta luôn luôn củng cố kinh nghiệm về thực
tại bên trong và bên ngoài cùng một cách ấy đời này sang đời khác, và
điều này đưa ta đến nhận thức sai lầm rằng cái gì ta trông thấy là
thực hữu một cách khách quan. Kỳ thực, khi ta đi sâu hơn vào sự tu tập,
ta dần biết cách làm việc thẳng với những nhận thức cố chấp của
ta. Mọi khái niệm sai lầm cũ của ta về thế giới, về vật chất và về
chính ta, đều được lọc sạch, tan rã, và một cái thấy hoàn toàn mới,
gần như thiên nhãn mở ra, như Blake nói:
- Nếu cái cửa nhận thức được
lọc sạch
Thì mọi sự sẽ xuất hiện nguyên
vẹn bao la
Tôi không sao quên được lúc thầy
Dudjom Rinpoche cao hứng thân mật bảo tôi qua giọng nói cao và khàn của
thầy:
- Này, con biết chứ, thực sự mọi
vật chung quanh ta đang biến mất, biến mất...
Nhưng với phần đông chúng ta, nghiệp
và những cảm xúc tiêu cực cứ ngăn che chúng ta không cho thấy bản chất
nội tại tự nhiên của mình, và bản chất sự vật. Kết quả là ta bám
lấy hạnh phúc và đau khổ cho là thực có, và một cách ngu si ta cứ tiếp
tục gieo hạt giống cho đời sau của ta. Những hành nghiệp cứ trói buộc
chúng ta vào chu kỳ tiếp nối của sinh tử bất tận. Bởi thế mọi sự
đang bấp bênh, tùy thuộc cách ta sống hiện giờ, ngay giờ phút này. Ta
đang sống như thế nào bây giờ, có thể ảnh hưởng toàn thể tương lai
ta.
Đấy là lý do cấp thiết thực sự
khiến ta phải chuẩn bị để gặp gỡ cái chết với thái độ thông minh,
để chuyển hóa nghiệp vị lai của ta, tránh cái thảm kịch cứ bị rơi
trở lại vào trong vô minh vọng tưởng và lập lại chu kỳ sống chết khổ
nhọc. Cuộc đời này là thì gian và nơi chốn duy nhất cho ta chuẩn bị, và
ta chỉ có thể thực sự chuẩn bị nhờ tu tập tâm linh. Đây là thông điệp
không thể tránh của đời này, một giai đoạn trung gian tự nhiên. Padmasambhava
nói:
- Khi Bardo đời này xuất hiện với
tôi.
Tôi sẽ từ bỏ lười biếng vì
cuộc đời ngắn ngủi
Đi vào con đường thấy, nghe,
nghĩ, quán tưởng không xao lãng
Lấy tâm và nhận thức làm con đường,
để thực hiện ba thân: tâm giác ngộ.
Bây giờ một khi tôi đã được thân
người
Không có thì giờ cho tâm lang thang
trên đường nữa.
TUỆ
GIÁC VÔ NGÃ
Đôi khi tôi tự hỏi một người
nhà quê ở Tây Tạng sẽ cảm thấy thế nào nếu bạn thình lình đưa họ
đến một đô thị tân tiến với đủ thứ kỹ thuật tinh xảo. Có lẽ người
ấy sẽ tưởng mình đã chết và đang ở trong trạng thái Bardo, sẽ há hốc
miệng ra, đầy ngờ vực, mà nhìn những chiếc phi cơ bay trong bầu trời
trên đầu y, hoặc ngắm một người đang nói chuyện bằng điện thoại với
một người khác ở bên kia thế giới. Y sẽ cho rằng mình đang chứng kiến
những phép thần thông. Thế mà tất cả điều đó dường như rất tự
nhiên đối với người sống trong thế giới tân tiến, được nền giáo dục
Tây phương giải thích từng bước một.
Cũng giống như thế, trong Phật giáo
Tây Tạng, có một nền giáo dục tâm linh cơ bản, sơ đẳng, bình thường,
một sự huấn luyện tâm linh đầy đủ về cõi trung gian là cuộc đời này,
đem lại cho bạn ngữ vựng thiết yếu, ABC của tâm thức. Căn bản của sự
huấn luyện này được gọi là "ba dụng cụ của trí tuệ":
Văn tuệ, biết lắng nghe; Tư tuệ, biết tư duy quán tưởng, và
Tu tuệ, biết thiền. Nhờ đấy chúng ta đi đến chỗ đánh thức tự
tính tâm của ta, nhờ đấy chúng ta tìm thấy đư?c sự thật ta là ai, và
thể hiện niềm vui giải thoát - gọi là trí vô ngã.
Tưởng tượng một người thình
lình tỉnh dậy ở bệnh viện sau một tai nạn xe hơi, và thấy mình hoàn
toàn mất trí nhớ. Bên ngoài, mọi sự vẫn y nguyên: Nàng vẫn còn gương
mặt ấy, hình dáng ấy, các giác quan và tâm vẫn ở đấy, nhưng hoàn
toàn không nhớ thực sự mình là ai. Cũng y hệt như vậy, ta không thể nhớ
được bản lai diện mục của mình. Khinh hoàng, sợ hãi, ta nhìn quanh và
đặt bày ra một lý lịch khác, một lý lịch ta bám lấy với tất cả sự
tuyệt vọng của một người đang rơi vào hố thẳm. Cái lý lịch giả tạo,
được bày đặt trong lúc vô minh đó gọi là cái tôi, "tự ngã."
Vậy, ngã là sự vắng mặt
tri kiến chân thực về ta là ai, cùng với những hậu quả của nó: Một sự
bám víu tuyệt vọng, bằng mọi giá, vào một khối chắp vá, một hình ảnh
tạm thời về cái ta, một tự ngã luôn luôn biến chuyển và phải biến
chuyển để duy trì cái ảo tưởng về hiện hữu của nó. Tạng ngữ gọi
ngã là dak dzin, có nghĩa "tóm lấy một cái ngã." Ngã
như vậy được định nghĩa là những di chuyển không ngừng của sự chấp
thủ một quan niệm lừa dối về "tôi" và "của tôi,"
tự và tha, và chấp thủ mọi khái niệm, ý tưởng, dục vọng, và hoạt
động nào sẽ duy trì cái cấu trúc giả tạo ấy. Một sự bám víu như vậy
là vô lối ngay từ khởi thủy, và đương nhiên phải bất mãn, vì không
có cơ sở chân lý nào trong đó, vì những gì ta bám víu tự bản chất đã
không thể nắm bắt. Sự kiện chúng ta cần bám víu và cứ vẫn tiếp tục
bám víu, chứng tỏ rằng tự thẳm sâu trong bản thể ta, ta biết cái
ngã đó vốn không có thực chất nội tại. Từ cái biết âm thầm,
làm ta bực bội đó, phát sinh mọi nỗi bực bội đó, phát sinh mọi nỗi
bất an lo sợ trong ta.
Bao lâu ta chưa lột mặt nạ cái
ngã thi nó còn tiếp tục đánh lừa chúng ta, như một chính trị gia bịp
bợm luôn luôn rêu rao những hứa hẹn giả dối, hay một luật sư không ngừng
phát minh những lời nói dối và biện hộ tinh vi, hay một chuyên viên quảng
cáo cứ tiếp tục ba hoa những lời thuyết phục ngọt lịm mà trống rỗng.
Nhiều đời kiếp vô minh đã đưa
ta đến chỗ đồng hóa toàn diện bản thể mình với cái ngã. Chiến thắng
lớn nhất của cái ngã là thuyết phục được cho ta tin rằng lợi lạc
nhất cho nó cũng là cho ta, và lại còn đồng hóa sự sống còn của ta với
của chính nó. Đây là một mỉa mai to lớn, khi ta xét rằng ngã và sự
chấp thủ của nó chính là gốc rễ mọi đau khổ của ta. Nhưng vì chúng
ta đã bị cái ngã lừa bịp quá lâu, bị nó thuyết phục quá hay, đến
nỗi nội cái ý nghĩ rằng ta có thể trở thành vô ngã làm cho ta sợ
hãi. Cái ngã rỉ tai ta rằng, vô ngã là mất hết tất cả huyền
thoại phong phú của con người, chỉ còn là một người máy vô vị hay một
cây cỏ không óc não.
Cái ngã đánh một đòn xuất
sắc vào nỗi sợ hãi căn để của ta, là sợ mất quyền kiểm soát, sợ
cái mà ta chưa từng biết. Ta có thể tự nhủ:
- "Mình cũng nên buông cái
ngã ra lắm chứ, mình đau khổ vì nó, nhưng nếu mình làm thế, thì
cái gì sẽ xảy đến cho mình?"
Cái ngã sẽ tán đồng ngay
trong một cách ngọt lịm:
- "Tôi biết đôi khi tôi cũng rầy
rà thực, và thực tình tôi hoàn toàn thông cảm nếu anh muốn buông tôi
ra. Nhưng có thực anh muốn như thế không nào? Ai sẽ săn sóc anh? Ai sẽ
che chở và thương lấy anh như tôi đã làm bao nhiêu năm nay?"
Và ngay dù ta thấy rõ tận ruột
gan những lời dối trá của cái ngã, chúng ta cũng quá sợ không dám
bỏ nó, vì ta chưa biết một tí gì về tự tính của tâm ta, lý lịch
chân thực của ta, nên rõ ràng ta không có cách nào khác hơn là bám lấy ngã.
Chúng ta tuân theo những đòi hỏi của nó với thái độ tự khinh ghét, như
bợm rượu với lấy chất uống mà y biết đang tàn phá y, hoặc như kẻ
ghiền ma túy lục tìm chất kích thích mà họ biết sau một hồi "phi"
ngắn ngủi sẽ đem lại cho họ sự chán chê tuyệt vọng.
CÁI NGÃ TRÊN
ĐƯỜNG TÂM LINH
Chấm dứt sự chuyên chế oái
ăm của bản ngã chính là lý do ta bước lên đường tu tập tâm linh, nhưng
quyền năng của cái ngã hầu như vô tận, và mỗi giai đoạn nó đều
có thể phá hoại và và xoay chuyển ta khỏi cái ước muốn giải thoát
nó. Chân lý thật giản dị, và những lời dạy cũng vô cùng sáng sủa, nhưng
nhiều lần tôi phải buồn bã mà thấy rằng, mỗi khi giáo lý bắt đầu
lay chuyển được chúng ta, thì cái ngã lại cố làm cho những lời dạy
trở thành rắc rối, vì nó biết nó đang bị đe dọa tận căn để.
Lúc đầu, khi chúng ta mới khởi sự
say mê con đường tu tập với những khả năng của nó, thì cái ngã
có thể cổ vũ ta và bảo:
Thật là kỳ diệu. Chính là điều
anh nên làm. Lời dạy này hoàn toàn có lý.
Rồi khi chúng ta nói chúng ta muốn
thử thực tập thiền, hay nhập thất, thì cái ngã vỗ về:
- Thật là một ý nghĩ tuyệt vời.
Tại sao tôi lại không theo anh. Cả hai chúng ta có thể học được vài điều.
Suốt kỳ trăng mật của sự tu tập
tâm linh, cái ngã cứ giục ta:
- Thật tuyệt, thật lạ lùng, gợi
cảm hứng...
Nhưng vừa khi chúng ta đi vào giai
đoạn mà tôi gọi là "thời kỳ bếp núc" của con đường
tu tập, và giáo lý bắt đầu động tới bản ngã sâu xa của chúng ta,
thì không sao tránh khỏi chúng ta va chạm với sự thật về bản ngã. Khi cái
ngã được phơi bày, những chỗ yếu của nó bị động tới, là đủ
mọi thứ vấn đề bắt đầu nổi lên. Nó như một tấm gương để ngay
trước mặt chúng ta mà ta không thể tránh nhìn chỗ khác. Tấm gương hoàn
toàn trong sáng, nhưng trong đó có một cái mặt xấu xí, cau có, cái mặt
chúng ta, đang trừng trừng nhìn lại chúng ta. Chúng ta khởi sự nổi loạn
phản kháng vì ta ghét cái gì mình không thấy; chúng ta có thể nổi giận
đập vỡ cái gương, nhưng nó chỉ vỡ ra thành hàng trăm gương mặt xấu
xí giống nhau, và vẫn trợn trừng nhìn lại chúng ta.
Bấy giờ là lúc chúng ta bắt đầu
nổi đóa và phàn nàn một cách cay đắng:
- Thế thì ngã của ta nằm ở đâu?
Cái ngã đang đứng bên ta một
cách trung thành, xúi giục:
Anh hoàn toàn đúng. Chuyện này xúc
phạm quá thể chịu đựng. Đừng theo nó!
Khi chúng ta mê mẩn lắng nghe, thì
cái ngã tiếp tục hô triệu đủ loại hoài nghi, cảm xúc, hốt hoảng, như
đổ thêm dầu vào lửa:
Anh không thấy giáo lý ấy không
thích hợp với anh à? Tôi đã bảo. Anh không thấy ông ta không xứng làm
thầy của anh sao? Hãy xem: Anh là một con người tây phương thông minh, tân
tiến, từng trải; còn những chuyện xa lạ như thiền, Sufi, Zen, Phật giáo
Tây Tạng... thuộc về văn hóa phương đông. Một triết học ở tuốt
trên dãy Hy Mã Lạp Sơn một ngàn năm về trước thì phỏng có ích lợi
cho anh được?
Khi cái ngã vui mừng ngắm ta càng
lúc càng bị vướng vào lưới của nó, nó còn trách móc ta về tất cả
những nỗi nhọc nhằn, cô đơn, gian khổ mà chúng ta đã trải qua, khi
chúng ta biết được chính mình qua lời giảng dạy, và qua bậc thầy:
- Những ông đạo sư ấy không cần
biết anh đã phải trải qua những gì. Họ chỉ cốt khai thác anh. Họ chỉ
xử dụng những danh từ như từ bi, sùng tín, để làm cho anh rơi vào quyền
năng của họ...
Cái ngã quá khôn lanh tới độ có
thể bóp méo giáo lý để xài cho mục tiêu của nó; vì "Quỷ Xa tăng
có thể trích dẫn kinh thánh cho mục đích mình." Khí giới cuối
cùng của cái ngã là chỉ ngay vào mặt ông thầy và những tín đồ mà bảo:
- Không có ai ở đây sống đúng
theo giáo lý ấy được cả.
Bây giờ cái ngã lại đóng vai trò
trọng tài công bình cho mọi hành vi: Vị trí láu cá hơn hết, từ điểm này
nó có thể phá hỏng niềm tin của bạn, và làm tiêu ma bất cứ sự sùng
kính nào, sự phát nguyện tu tập nào mà bạn đã có.
Nhưng dù cái ngã cố hết sức để
phá hoại con đường tu của bạn, nếu bạn thực sự tiếp tục thực hành
thiền định, bạn sẽ dần nhận ra mình đã bị cái ngã gạt gẫm như thế
nào: Hy vọng và lo sợ hão huyền. Dần dần bạn thấy rằng cả hy vọng lẫn
lo sợ đều là kẻ thù của sự an tâm; hy vọng đánh lừa bạn, bỏ
bạn thất vọng trống rỗng, còn sợ hãi thì làm bạn tê liệt trong
tù ngục hẹp hòi của bản ngã giả tạo. Bạn bắt đầu thấy cái ngã
đã lung lạc tâm bạn như thế nào, và trong bầu trời giải thoát mà thiền
định đã mở ra, mỗi khi bạn tạm thời thoát khỏi chấp thủ, bạn hé
thấy cái khoáng đạt của tự tính chân thực. Bạn nhận ra rằng trong
hàng bao nay cái ngã của bạn, giống như một kẻ lường gạt bạn với đủ
kế hoạch hứa hẹn mà toàn thị là láo khoét, chỉ có đưa bạn đến sự
phá sản tâm linh. Khi bạn thấy điều này trong sự an tĩnh của thiền định,
mà không an ủi hay muốn che đậy những gì bạn thấy, thì tất cả kế hoạch
mưu đồ của ngã tự cho thấy nó trống rỗng, và bắt đầu sụp đổ.
Đây không phải là một tiền
trình phá hoại thuần túy. Vì cùng với sự nhận chân đau đớn tính giả
dối tội lỗi của cái ngã của bạn, và của mọi người, phát sinh một
cảm thức về tầm bao la của nội tâm, một trực cảm về vô ngã và
tính duyên sinh của vạn pháp, và tính hài hước độ lượng, mà chính là
dấu hiệu của giải thoát.
Nhờ bạn đã tập đơn giản hóa sự
sống và làm cho cái ngã bớt có cơ hội quyến rũ bạn, và nhờ bạn đã
tập sự tỉnh giác của thiền định – do vậy nới lỏng kềm tỏa của
tính bạo động, bám víu và tiêu cực trong bạn – mà tuệ giác từ từ
có thể ló dạng. Trong ánh sáng soi cùng khắp của nó, tuệ giác này có thể
chỉ cho bạn một cách rõ ràng trực tiếp, những vận hành tinh vi nhất của
tâm bạn, và đồng thời, bản chất của thực tại.
HƯỚNG
ĐẠO MINH TRIẾT
Hai con người đã luôn sống
trong bạn suốt cả đời bạn. Một người là bản ngã, nói nhiều, đòi hỏi,
nóng nảy, tính toán; người kia là con người tâm linh kỳ bí mà tiếng
nói lặng lẽ minh triết của y bạn hiếm khi nghe được hoặc nghe theo. Khi
bạn càng học giáo lý, quán xét, và hòa nhập giáo lý đời sống của bạn,
thì tiếng nói bên trong bạn, trí phân biệt bẩm sinh của bạn được đánh
thức và tăng trưởng, và bạn khởi sự phân biệt giữa sự hướng dẫn
của nó với những tiếng nói của bản ngã. Kí ức về bản lai diện mục
của bạn bắt đầu trở về với tất cả vẻ huy hoàng và tin tưởng.
Bạn sẽ thấy bạn đã tìm ra trong
chính bạn người hướng đạo cho bạn. Vì người ấy biết rõ bạn – y
chính là bạn – nên có thể giúp bạn dàn xếp mọi rắc rối của tư tưởng
và cảm xúc bạn. Người hướng đạo của bạn có thể có mặt thường
xuyên, vui vẻ, đôi khi chế nhạo, người luôn luôn biết cái gì là tốt hơn
cả cho bạn, giúp bạn càng lúc càng tìm ra lối thoát khỏi những ám ảnh
của những phản ứng do thói quen và những cảm xúc mê mờ. Khi tiếng nói
của "trí phân biệt" trong bạn càng mạnh và rõ hơn, bạn sẽ
phân biệt được chân lý của nó và những lừa bịp của bản ngã, và bạn
có thể lắng nghe nó với niềm tư tưởng.
Bạn càng thường xuyên nghe theo người
hướng đạo này, thì càng dễ dàng thay đổi được những tâm thái tiêu
cực nơi bạn. Dần dần bạn sẽ thấy mình có thể thoát ra càng ngày
càng nhanh hơn, khỏi những cảm xúc đen tối đã ngự trị đời bạn, và
khả năng làm được việc ấy là phép lạ mầu nhiệm nhất. Terton
Sogyal, nhà thần bí Tây Tạng, đã nói rằng, ngài không khâm phục gì một
người có thể biến hóa được cái nền nhà thành trần nhà, hay lửa
thành nước. Phép lạ đích thực theo ngài là người nào có thể giải tỏa
một cảm xúc tiêu cực.
Như vậy, dần dà, thay vì nghe tiếng
lải nhải của bản ngã, bạn sẽ thấy mình càng ngày càng nghe được
trong tâm mình nhưng chỉ dẫn rõ ràng của giáo lý đang khởi hứng, khuyên
bảo, hướng đạo, chỉ thị cho bạn ở mỗi khúc quanh. Càng lắng nghe, bạn
càng nhận được những hướng dẫn. Nếu bạn nghe theo tiếng nói của người
hướng đạo minh triết ấy, của trí phân biệt nơi bạn, và để cho bản
ngã im tiếng, thì bạn sẽ kinh quá sự hiện diện của trí tuệ và phúc lạc
mà chính thực là bạn. Một cuộc đời mới hoàn toàn khác cuộc đời
trước đây khi bạn còn khoác cái lốt bản ngã, bắt đầu trong bạn. Và
khi cái chết đến, thì bạn đã biết cách làm thế nào để kiểm soát những
cảm xúc và ý tưởng nổi lên trong các trạng thái trung gian, những cảnh
tượng mà nếu bạn không biết trước thì có vẻ thực một cách ghê gớm.
Khi bệnh mất trí nhớ của bạn về
chính mình bắt đầu được chữa khỏi, cuối cùng bạn sẽ nhận ra rằng
dak dzin, sự chấp thủ bản ngã, là căn nguyên mọi đau khổ của bạn.
Bạn sẽ hiểu nó đã tàn hại bạn và kẻ khác đến mức nào, và sẽ thấy
rằng điều cao quý nhất và lại khôn ngoan nhất để làm, là yêu thương
người khác thay vì yêu thương chính mình. Việc ấy sẽ chữa lành trái
tim, khối óc của bạn, và chữa lành tâm linh bạn. Điều quan trọng là
luôn luôn nhớ rằng nguyên tắc vô ngã không phải là lúc đầu có một bản
ngã, rồi theo Phật thì phải từ bỏ bản ngã. Trái lại, vô ngã có nghĩa
là tự khởi thủy chưa bao giờ có một cái ngã, và nhận chân được
điều này gọi là thấy "vô ngã".
BA KHÍ CỤ CỦA
TRÍ TUỆ
Cái cách để tìm được sự
tự do giải thoát do trí tuệ vô ngã đem lại, là nhờ tiến trình lắng
nghe, tư duy quán tưởng và thiền định. Các bậc thầy khuyên ta bắt đầu
bằng lắng nghe giáo lý thực nhiều lần (văn tuệ), và khi lắng
nghe, giáo lý ấy nhắc đi nhắc lại cho ta nhớ bản tính trí tuệ bị che
giấu trong ta. Giống như thể ta là người đang nằm trong bệnh viện bị mất
trí nhớ sau một tai nạn, và có người thương yêu săn sóc ta đang thì thầm
trong tai ta tên thật của ta, chỉ cho ta những hình ảnh của bạn bè thân
quyến ta, cố đưa ta trở về tri giác để biết mình là ai. Dần dần, khi
lắng nghe giáo lý, có vài đoạn vài tri kiến trong đó tác động trên ta
môt cách mạnh mẽ, những kí ức bản lai diện mục của ta sẽ bắt đầu
tìm lối quay về, và một cảm giác sâu xa về một cái gì thân thiết,
quen thuộc sẽ chầm chậm thức dậy trong ta.
Lắng nghe là một tiến trình vô
cùng khó khăn hơn phần đông người ta tưởng, lắng nghe thực sự - theo các
bậc thầy muốn nói – là hoàn toàn buông bỏ cái ta, buông tất cả thông
tin, khái niệm, tư tưởng và thành kiến đã được độn đầy đầu óc
ta. Nếu bạn thực tình lắng nghe giáo lý, thì những thứ ấy - vốn dĩ là
chướng ngại thực sự ngăn che ta với tính bản nhiên của ta – có thể
từ từ được rửa sạch.
Khi cố lắng nghe thực sự, tôi thường
thấm câu nói của thiền sư Suzuki Rodhi:
- Nếu tâm bạn trống rỗng, thì
nói luôn luôn sẵn sàng cho mọi sự; mở ra cho mọi sự. Trong tâm người
sơ học, có thật nhiều khả năng, nhưng trong tâm của chuyên gia thì có rất
ít khả năng.
Tâm người sơ cơ là một cái tâm
trống rỗng, rộng mở, sẵn sàng đón nhận, và nếu ta thực sự lắng
nghe với một cái tâm của người sơ học, thì ta mới có thể thực sự
nghe được một cái gì. Vì nếu ta lắng nghe với một tâm im lặng, càng
thoát khỏi thành kiến càng tốt, thì có thể tạo cơ hội cho sự thật của
nền giáo lý xuyên thủng khối vô minh nơi ta, và làm cho ý nghĩa của sự
sống chết trở nên càng ngày càng rõ rệt một cách lạ lùng. Thầy Digo
Khientse Rinpoche tôi thường nói:
- Càng lắng tai, càng nghe nhiều,
càng nghe nhiều, hiểu càng sâu.
Hiểu biết được sâu xa là nhờ
quán xét và tư duy (tư tuệ), khí cụ thứ hai của trí tuệ. Khi ta
quán xét những gì ta đã nghe, nó từ từ thẩm thấu vào dòng tâm thức ta
và thấp khắp kinh nghiệm nội tâm về cuộc đời mình. Những sự cố
hàng ngày bắt đầu xác chứng sự thật của giáo lý, vì sự quán tưởng
dần mở ra cho ta thấy những gì ta đã hiểu trên phương diện tri thức, sự
quán tưởng mang hiểu biết ấy từ đầu óc đi vào tim ta.
Khí cụ thứ ba của trí tuệ là
thiền định (tu tuệ). Sau khi lắng nghe giáo lý và tư duy về những
lời dạy, ta đem thực hành những tri kiến ta đã đạt được và áp dụng
chúng một cách trực tiếp trong nhu cầu hàng ngày, qua quá trình thiền định.
NHỮNG
HOÀI NGHI TRÊN ĐƯỜNG
Thầy Dudjom Rinpoche tôi
thường kể câu chuyện ở Ấn Độ về một tướng cướp khét tiếng
ngày xưa. Sau vô số lần cướp của giết người, y đâm ra hối hận vì
mình đã gây ra biết bao nhiêu đau khổ cho người khác. Y khao khát tìm
cách sám hối tội lỗi y đã làm, và đến viếng một thiền sư. Y nói với
Ngài:
- Con là một kẻ phạm tội, bây giờ
con bị lương tâm cắn rứt ghê gớm. Có lối thoái nào không? Con phải
làm gì?
Bậc thầy nhìn tướng cướp từ
đầu đến chân, rồi hỏi y có được tài nghệ gì. Tên cướp trả lời:
- Không có tài gì cả.
Vị thầy hét:
- Không à? Ngươi phải giỏi một
nghề gì mới được chứ.
Tên cướp im lặng một hồi, rồi
cuối cùng xác nhận:
- Thực sự, có một nghề duy nhất
mà con chuyên môn, đó là nghề trộm cướp.
Vị thầy cưới khúc khích:
- Tốt. Đấy chính là tài nghệ mà
bây giờ ngươi cần dùng. Hãy đi đến một nơi thanh vắng, và cướp hết
tất cả những ý tưởng nhận thức của người, ăn trộm hết tất cả
tinh tú, hành tinh trong bầu trời, cho chúng tan mất và trong cái bụng của
Chân không, không gian to rộng của tâm hồn nhiên.
Chỉ trong hai mươi mốt ngày, tên cướp
đã trực ngộ bản tâm và cuối cùng trở thành một người được xem là
một trong những bậc thánh vĩ đại của xứ Ấn.
Như vậy, ở thời cổ, có những bậc
thầy phi thường và môn đệ nhạy bén và nhất tâm như tên cướp nọ, chỉ
nhờ thực hành với niềm tin không chuyển hướng, một lời dạy duy nhất
mà chứng đắc giải thoát. Ngay cả bây giờ, nếu ta để tâm thực hành một
phương pháp và làm việc với nó một cách trực tiếp, thì cũng sẽ có hy
vọng giác ngộ.
Tuy nhiên, tâm chúng ta thường giao
động và hoang mang vì hoài nghi. Đôi khi tôi nghĩ nghi quả là một chướng
ngại bế tắc tiến hóa nhân loại hơn cả tham lam chấp thủ. Xã hội
chúng ta đề cao sự khôn khéo thay vì trí tuệ, và ca tụng những khía cạnh
nông cạn, khó chịu và ít lợi ích nhất của trí thông minh. Chúng ta đã
trở nên quá tinh khôn và loạn thần kinh đến nỗi ta xem chính hoài nghi
là chân lý, và sự hoài nghi – mà chỉ là nỗ lực vô vọng của bản
ngã để tự vệ - lại được thần thánh hóa xem như mục tiêu và kết quả
hiểu biết. Hình thức hoài nghi nhỏ nhen thấp kém này là chúa tể thảm hại
của luân hồi sinh tử, được phụng sự bởi một đám "chuyên gia"
chuyên dạy cho ta không phải thứ hoài nghi rộng mở mà Phật xác nhận là
cần thiết để thử nghiệm nền giáo lý, mà một hình thái hoài nghi phá
hoại không chừa lại cho ta một điều gì để tin vào, không có gì để
hy vọng, và không có gì để sống theo.
Như thế nền giáo dục hiện đại
đã nhồi sọ chúng ta trong sự tôn vinh hoài nghi, trong đó muốn được xem
là thông minh thì ta phải hoài nghi tất cả mọi sự, phải luôn luôn bới
lông tìm vết và ít khi hỏi có cái gì là đúng, tốt lành; phải chế nhạo
mọi lý tưởng tâm linh, mọi triết lý ta thừa hưởng, hoặc nhạo báng bất
cứ gì đư?c làm với tâm vô tư và thiện chí.
Đức Phật kêu gọi ta đến một
hoài nghi khác, "như phân tích vàng, nướng nó lên, cắt, cọ xát để
thử tính chất nó có thực sự là vàng ròng hay không." Để có
được thứ hoài nghi thực sự sẽ đưa ta đến chân lý ấy, muốn theo đến
cùng, quả thực chúng ta không đủ tri kiến, can đ?m, và cũng không đư?c
huấn luyện để làm việc ấy. Chúng ta đã được huấn luyện cho quen cái
thói mâu thuẫn vẫn thường xuyên tước đoạt khỏi ta hết mọi sự cởi
mở để đón nhận bất cứ một sự thật nào khoáng đạt và cao quí hơn.
Thay vì hình thái hoài nghi chấp
đo?n diệt như hiện nay, tôi sẽ mời bạn đặt một nghi vấn mà tôi gọi
là "hoài nghi cao cả," một thứ hoài nghi vốn là một thành
phần làm nên con đường đưa đến giác ngộ. Chân lý rộng lớn của những
giáo lý mật tông được truyền lại cho chúng ta ngày nay, quả không phải
là một cái gì mà thế giới đang lâm nguy hiện nay có thể bác bỏ được.
Thay vì nghi ngờ những giáo lý ấy, tại sao ta không nghi ngờ chính ta: Sự
ngu dốt của ta, sự hợm hĩnh tự cho ta đã hiểu biết tất cả mọi sự,
thói chấp thủ và tránh né của ta, lòng say mê đối với những cái gọi
là giải thích thực tại, những giải thích không giống chút nào với trí
tuệ bao la khả úy mà những bậc thầy, những sứ giả của Thực tại, đã
cho ta biết?
Loại hoài nghi cao cả ấy giục ta
tiến lên, gợi cảm hứng cho ta, thử thách ta, làm cho ta càng ngày càng trở
nên chân thực, thêm năng lực cho ta, và kéo ta lại gần từ trường của
chân lý. Khi gần những bậc thầy, tôi thường hỏi đi hỏi lại những vấn
đề tôi cần giải đáp. Đôi khi tôi không được những giải đáp rõ
ràng, song tôi không nghi ngờ thầy, hay nghi ngờ nền giáo lý. Đôi khi tôi
có thể nghi mình chưa đủ trình độ tâm linh, hoặc nghi khả năng nghe (văn
tuệ) của mình chưa đủ để hiểu trọn vẹn. Và thường khi, tôi cứ
tiếp tục hỏi đi hỏi lại cho đến khi có được một giải đáp rõ
ràng. Và khi giải đáp ấy đến, vang lên một cách mạnh mẽ trong sáng
trong trí tôi, tim tôi nhói lên một niềm tri ân đón nhận, thì trong tôi
phát sinh một lòng tin kiên cố mà dù cả thế giới đầy những người nhạo
báng cũng không phá hoại nổi.
Tôi nhớ một mùa đông, tôi cùng
lái xe với một trong những sinh viên của tôi từ Paris xuống Ý vào một
đêm trăng sáng. Bà ta là một nhà chữa tâm bệnh, và đã qua nhiều loại
huấn luyện. Bà bảo tôi, điều bà nhận thấy là càng biết nhiều, ta
càng nghi nhiều, và càng viện cớ để nghi mỗi khi sự thật bắt đầu động
chạm đến mình một cách sâu xa. Bà bảo, bà đã cố nhiều lần để chạy
trốn giáo lý này, nhưng cuối cùng bà nhận ra rằng không chạy đâu thoát
được, vì thực sự là bà đang chạy trốn chính mình.
Tôi bảo bà rằng hoài nghi không phải
là một cái bệnh, mà chỉ là một triệu chứng của thiếu ‘Tri kiến’,
thiếu sự nhận chân về bản tính tự nhiên của tâm. Khi có Tri kiến,
thì không thể nào nghi ngờ gì nữa, vì khi ấy ta sẽ nhìn thực tại với
chính con mắt của thực tại. Nhưng khi ta chưa đạt giác ngộ, tôi nói,
thì đương nhiên phải còn hoài nghi, vì nghi là hoạt động căn bản của
cái tâm chưa ngộ. Và cách duy nhất để xử lý những hoài nghi là, không
đàn áp chúng cũng không say mê theo chúng.
Cần có sự khéo léo để xử lý
những hoài nghi, nhưng tôi để ý ít ai biết cách theo dõi những hoài nghi
hoặc xử dụng chúng. Có phải mỉa mai chăng, trong một nền văn minh sùng
thượng thế lực của sự giảm giá và hoài nghi như vậy, lại không có
ai can đảm để hạ giá chính những tuyên bố của hoài nghi, để làm như
một bậc thầy Ấn Độ đã nói, hoài nghi chính cái sự hoài nghi, lột mặt
nạ tính đa nghi và tìm xem nó có nguồn gốc từ nỗi tuyệt vọng nào, nỗi
sợ hãi gì, từ đâu tới? Khi ấy hoài nghi không còn là một chướng ngại,
mà là một cánh cửa mở đến thực chứng, và mỗi khi hoài nghi xuất hiện
trong trí, một người tầm đạo sẽ đón nó như một phương tiện để
đi sâu vào sự thật.
Có một câu chuyện về một thiền
sư mà tôi rất thích. Thiền sư này có một đệ tử trung thành nhưng rất
ngốc nghếch, cứ xem ông như một vị Phật sống. Một hôm tình cờ ngồi
trên một cây kim, ông la lên "Ối" rồi tung mình lên để tránh.
Người đệ tử liền mất hết tin tưởng nơi vị thầy, và bỏ đi, bảo
rằng anh ta rất thất vọng vì thấy thầy mình chưa chứng đạo, nếu chứng
thì ông đã không nhảy lên mà la lớn như thế. Vị thầy buồn bã khi nghe
người đệ tử đã bỏ đi, và bảo:
- Tội nghiệp cho y! Nếu y hiểu
được rằng kỳ thực không có ta, không có cây kim, cũng không có tiếng
la nào thực hữu!
Ta không nên lập lại cái lỗi của
người đệ tử nọ. Đừng nên xem những hoài nghi quan trọng quá mức, để
cho chúng lớn quá cỡ, hay trở nên cuồng tín về chúng. Điều ta cần học
là làm thế nào dần dần chuyển được sự vướng vào hoài nghi do bối cảnh
văn hóa thành ra một hoài nghi có tính chất hài hước và bi mẫn. Điều này
có nghĩa hãy cho những hoài nghi có thời gian, và cho chúng ta có thời gian,
để tìm giải đáp cho những nghi vấn của mình, những nghi vấn không phải
chỉ có về phương diện tri thức hay triết lý, mà thực, sống, và có thể
giải được. Những hoài nghi không thể tự chúng giải quyết ngay; nhưng nếu
chúng ta đủ kiên nhẫn thì một khoảng không có thể được sinh ra trong nội
tâm ta, ở đó những hoài nghi có thể được xem xét cẩn thận, khách
quan, và do đó được gỡ rối, được giải quyết.
Không nên quá hấp tấp để giải
quyết tất cả mọi vấn đề và hoài nghi của bạn; vì các bậc thầy
nói, "Hãy gấp rút một cách từ từ." Tôi luôn luôn bảo
sinh viên tôi đừng có những mong đợi phi lý, vì sự tiến bộ tâm linh cần
thời gian. Muốn học Nhật ngữ thật giỏi hay trở thành bác sĩ cũng phải
cần nhiều năm. Làm sao chúng ta có thể hy vọng có được tất cả những
giải đáp chỉ trong vài tuần, huống gì là đạt giác ngộ? Cuộc hành
trình tâm linh là một cuộc học hỏi và thanh luyện không ngừng. Khi biết
như vậy, bạn sẽ trở nên khiêm cung. Có một châm ngôn Tây Tạng rằng:
- "Đừng lầm hiểu với chứng
ngộ, và đừng lầm chứng ngộ với giải thoát."
Và Milapera nói:
- "Không nên hy vọng chứng
đạo, mà hãy hành đạo suốt đời bạn."
Một trong những điều tôi thích nhất
trong truyền thống tôi, là sự thực tế giản dị, và ý thức mãnh liệt
rằng những thành tựu lớn nhất cần có sự kiên nhẫn sâu xa và thời
gian dài nhất.
Mục lục | Lời
giới thiệu của Đức Dalai Lama | Lời nói đầu |
1 | 2 |
3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | Phụ
lục 1: Vấn đáp về sự chết | Phụ lục 2: Hai mẫu
chuyện | Phụ lục 3: Hai bài thần chú |
Chúng tôi chân thành cảm
ơn hai vị Phật tử Hải Hạnh và Ngọc Sương đã phát âm đánh máy gởi
sách này về cho ban biên tập