II.- SỰ CẤU TẠO
CON NGƯỜI
" Ngã tướng từng cá nhân chẳng qua ở trong
hợp tướng tạm thời và riêng biệt của những phần tử vật
chất và tâm thần ".
Lời Phật dạy
Không một kết quả nào mà không có nguyên nhân
Với sự cấu tạo con người là cả một vấn đề,
một vấn đề đã làm tiêu hao bao nhiêu tâm lực của các nhà lập
giáo, lập thuyết, nghiên cứu với mục đích tìm hiểu và giải
quyết.
Phàm công việc gì, sự vật gì, đã có kết quả là
đều phải có nguyên nhân của nó.Vì, có nhân mới có quả, suy
quả mới biết nhân. Nơi đây con người cũng thế, có phương thức
cấu tạo con người, mới có hình thể con người. Song, muốn nhận
định được lẻ phải, tìm một lối đi chân chính, tất nhiên chúng ta
phải đứng trên tư cách vô tư, để ý thức vào những tôn chỉ,
mục đích của các đạo giáo, các học thuyết đã trình bày về vấn
đề ấy bằng một cách khái quát :
1.- QUAN NIỆM VỀ NHẤT THẦN
" Hết thảy sự vật đều do quyền năng của một
vị tối cao, duy nhất sáng tạo, duy trì và thưởng phạt ".
Tín ngưỡng tuyệt đối
Từ trước tới nay phần nhiều các đạo giáo hay một
vài học thuyết đều lấy " Nhất thần " làm mục đích tín
ngưỡng tuyệt đối. Nghĩa là, đều tôn thờ một vị Chúa tể, là
vị có đủ tài năng, quyền phép sáng tạo ra vũ trụ và có quyền
thưởng hay phạt.
Chủ trương ấy chúng ta có thể nhận xét trong một
vài đạo giáo và học thuyết mà có lẻ chúng ta thường thường
nghe biết :
A.- Đạo giáo Bà La Môn.
Một đạo giáo cổ truyền của nước Ấn Độ, cách
đây trên 4000 năm, do ông Krichna chủ trương.
Căn cứ trong Thánh Kinh Phệ Đà ( Vedas ) thì sự
tín ngưỡng duy nhất của đạo giáo ấy là thần Phạm Thiên ( Brahma )
Một vị thần có đủ năng lực, trí đức và phép tắc sáng tạo ra
muôn vật. Phạm Thiên là căn bản của vũ trụ. Nhất thiết sự vật
đều là hình thái của Phạm Thiên. Lúc trụ thì ở tại Phạm Thiên.
Lúc diệt thì về ở Phạm Thiên.
Con người cũng là hình thái của Phạm Thiên. Sống
đây là sống gởi. Chết sẽ về Phạm Thiên, đời đời sung
sướng, nếu biết theo đúng chân lý.
B.- Đạo giáo Da Tô
Một đạo giáo do Chúa Giê Su ( Jesus ) cải cách
một tôn giáo cổ ở Do Thái, cách đây gần 20 thế kỷ. Đạo giáo
ấy tiêu biểu đức Chúa Trời là một vị duy nhất sinh ra Trời,
đất, muôn vật.
Chiếu theo bộ Tân ước, Cựu ước, thì vũ trụ này
trước đây chỉ là một khoảng mông mênh, mờ mịt. Song, nhờ trí
tuệ, tài năng và quyền phép sẳn có của đức Chúa Trời, trong 7
ngày Ngài tạo thành mặt trời, mặt trăng, tinh tú, đất nước,
núi, sông, cây cối, người và vật.
Riêng về việc cấu tạo con người, cũng một ngày
trong 7 ngày ấy, nhưng Ngài lấy chút đất hà hơi vào thành ra ông A
Đam ( Adam ), đồng thời, lấy chút đất cùng mấy dẻ xương cụt của
ông A Đam, hà hơi vào thành ra bà E Vơ ( Eve ). Và, kết quả là hai
người lấy nhau, sinh xuống cõi người, làm thủy tổ loài người,
sau khi hai ông bà đã phạm vào trái cấm của Chúa. Rồi từ đó,
con cháu loài người đều bị bó buộc trong tội tổ tông truyền.
Nhưng, nếu ai biết tôn trọng, kính thờ Chúa, tin cậy vào Chúa, vâng
lời Chúa sẽ được lên Thiên đường, hưởng khoái lạc đời
đời, trái lại, sẽ phải đọa xuống hỏa ngục.
C.- Học thuyết Pythagore
Một học thuyết do ông Pythagore chủ trương và đã
được kiến lập trên nước Hy Lạp cách đây chừng 25 thế kỷ.
Học thuyết này dùng SỐ HỌC làm cơ sở. Nghĩa là,
dùng " SỐ MỘT " làm đầu tiên. Số ấy là nguồn gốc,
là cha sinh của muôn vật, là tiêu biểu cho Thượng đế, là bao hàm
hết thảy và có quyền năng sáng tạo, duy trì sự trường tồn cho
muôn vật. " SỐ HAI " tức là sức sinh hoạt của vũ trụ. Do
sức sinh hoạt ấy nó đem lại cho muôn vật sự sinh tồn và tăng
tiến. " SỐ BA " là vật chất tức là hình sắc. Còn " SỐ
BỐN " là con số làm tiêu biểu cho cá nhân, nó bao gồm tất cả
ba nguyên chất trên mà biệt lập thành cá thể, để tự do hành
động... Và khi nào cá thể ấy thi hành được cách thức rèn
luyện, gom góp được các sự kinh nghiệm, thâu hoạch được các
sự kết quả hoàn toàn và thích hợp với lẽ duy nhất, thì lúc
đó sẽ được hưởng sự vui vẻ.
Kim Thi nói : " ... Xin thề trước đấng mầu nhiệm
Thượng đế, đã hoạch định trong trí ta cái hình " Tứ tượng
" linh diệu ( tức 4 số trên ), là nguồn gốc, là tiêu biểu của
muôn vật vô cùng... " " Ôi ! Thượng đế là cha sinh ra của
chúng ta... ", đủ chứng tỏ Thượng đế sáng tạo ra vũ trụ, con
người là một bộ phận trong đó.
Trên đây là một vài nhận xét có thể làm nguyên
tắc chung cho sự sáng tạo vũ trụ theo quan niệm của các đạo giáo
và học thuyết " Nhất Thần ", mặc dầu các đạo giáo hay học
thuyết ấy còn có nhiều biệt phái, nhiều hình thức và danh từ
khác nhau.
2.- QUAN NIỆM VỀ TIẾN HÓA
"... Các hình thể khác nhau, đều do ở các hình
thể có trước đã biến đổi và luôn luôn có sự liên lạc với
nhau ".
Chủ trương và nguyên nhân của học thuyết
Đây là một học thuyết lấy sự tiến hóa làm căn
bản cho sự cấu tạo. Học thuyết ấy là một học thuyết đang được
thực hiện khắp nơi, được khoa học thừa nhận, là học thuyết của
ông Đácuynh ( Darwin ), biểu thị : " Con người là dòng dõi của
loài vật, loài hầu nhân ".
Căn cứ vào những công cuộc tìm tòi về khoa học,
ông đã phát biểu ý kiến : " Các chủng loại thảo mộc và
động vật cũng đã phát triển từ từ theo luật tiến hóa. Các
hình thể khác nhau, đều do ở các hình thể có trước, đã biến
đổi theo thời gian và các chủng loại thảo mộc hay động vật, đều
có những mối liên lạc về dòng dõi với nhau ".
Cấu tạo vũ trụ vạn vật
Thể theo luận pháp trên chứng tỏ con người cũng
không ra ngoài luật tiến hóa chung của vũ trụ. Nghĩa là, " Vũ
trụ này ở thời kỳ hỗn mang, trong vũ trụ chỉ có thuần tinh. Sau vì
những nguyên nhân không rõ, thuần tinh ấy kết thành những phần
tử nhỏ rải rác. Nhờ sức vận động và sức hấp dẫn dần dần
của phần tử nhỏ ấy, lại kết tụ thành cồi và cồi nguyên tử.
Nhanh lại càng nhanh. Với những năng lực chứa trong các nguyên tử
nhiều quá phải phóng tản bớt đi thành những hơi nóng, ánh sáng
và điện khí. sau khi sự phóng tản không ngừng, nhiệt độ dần dần
giảm bớt, nguyên tố của các nguyên tử kết thành những thế
quân bình mới và sinh ra những đơn chất khác nhau. Đơn chất càng
ngày càng tăng, vì nhiệt độ càng ngày càng thấp, khiến cho sự
sống có thể phát triển được ở trên mặt. Những năng lực súc
tích lại thành vật chất đã tới một trình độ quân bình vững
chắc và trở nên những nơi có thể ở được trong một thời kỳ
khá lâu. Nhưng trong thời gian khá lâu ấy, các nguyên tử vẫn
không ngừng phóng tản ít, nhiều, nên các nguyên tố, các nguyên
tử mất dần thế vững chắc. Thế là bắt đầu một thời kỳ ly
tán. Thế vững chắc của các nguyên tố nội nguyên tử càng giảm
đi thì sự ly tán càng nhanh. Rồi đến một thời kỳ quá suy, các
nguyên tử lại trở lại thế thuần tinh như trước ".
Thân thể con người
Thân thể con người cũng thế. Cũng do những tế bào
hợp thành. Những tế bào lại do những phần tử. Những phần tử
lại do những nguyên tử hợp thành. Giữa nguyên tử có một
nguyên điểm chất chứa dương điện và nguyên điểm ấy được bao
vòng bởi những điện tử chứa âm điện. Và cùng chung một định
luật cấu tạo, sinh trưởng, sinh hoạt, suy giảm và ly tán trong vòng
chuyển biến, tiếp nối không ngừng.
Như thế, lần theo sự tiến hóa thì con người cùng
nhịp nhàng trong sự tiến hóa của vũ trụ. Nhưng, đứng trong tương
đối mà nhận xét thì bắt đầu từ hạ đẳng động vật tiến lên
và chiều theo luật " tự nhiên đào thải " hay " sinh tồn
cạnh tranh ".
3.- QUAN NIỆM VỀ NHÂN DUYÊN SINH
" Tất cả chúng sanh có sự sống, đều phải bỏ
lại xác thân phức tạp là cái khối do vật chất, tinh thần phối
hợp để tạo nên cá thể giả tạm này "
Kinh Đại Niết Bàn
Vũ trụ chỉ là một cuộc đại hoạt động tự thân
nhưng liên tục...
Khi đức Giáo chủ Thích Ca Mưu Ni giác ngộ, Ngài đã
nhận rõ hiện tượng vũ trụ chỉ là " nhân duyên sinh " mà
thôi. Nghĩa là, không chủ trương có tạo vật chủ, không thừa nhận
cái gì có trước tiên, cái gì có sau cùng, cái gì thường còn,
cái gì đoạn tuyệt, cái gì đơn độc, mà tất cả sự vật chỉ là
một cuộc tiếp nối, giả hợp, chuyển biến không ngừng của nhân
quả và trợ duyên.
Vì, cái quả bây giờ là do cái nhân trước đây,
cái nhân trước đây lại do cái quả trước nữa. Cứ thế, cứ
thế mãi, lần theo ngược dòng của nó, chỉ thấy nhân này do quả
nọ, quả nọ do nhân kia, không bao giờ cùng tận. Song nguyên nhân,
kết quả ấy, không phải công cuộc, của ngẫu nhiên, mà phải nhờ
mọi duyên, mọi mối quan hệ, những ảnh hưởng chung quanh giúp đỡ,
sinh khởi và thành tựu, mặc dầu là nhân quả tương đối trong
tuyệt đối.
Cho nên, với vấn đề cấu tạo vũ trụ theo quan niệm
đạo Phật chỉ là một cuộc đại hoạt động tự thân liên tục trong
sáu nguyên tố chính:
1/ Địa đại: đất, thuộc chất rắn.
2/ Thủy đại: nước, thuộc chất lỏng, ướt.
3/ Hỏa đại: lửa, thuộc chất nóng.
4/ Phong đại: gió, thuộc chất hơi, không khí.
5/ Không đại : tức không gian.
6/ Thức đại : tâm thức, năng lực hoạt động.
Tức là do năng lực hoạt động vô hình ( không,
thức ) và hình tướng hữu hình ( địa, thủy, hỏa, phong ) luôn luôn
nhịp nhàng, nương tựa nhau trong phạm vi hoạt động, phát hiện và
chiều theo định luật : sinh, trụ, dị, diệt hay sinh, lão, bệnh, tử.
Con người cũng thế !
Kinh Trường A Hàm nói : " Đây là thân của ta,
nó có một hình dáng do bốn chất : đất, nước, gió, lửa, tạo
thành. Thân này do cha mẹ sinh ra. Nó được người nuôi dưỡng
bằng sữa, bằng cơm và phải bị rã rời tiêu hoại. Còn đây là
tâm của ta. Tâm này nương nơi xác thân tứ đại và phải chịu một
số phận như nó ".
Phân tích rõ ràng
Cùng trong luận pháp ấy, nhưng muốn dễ dàng cho sự
nhận thức, Phật học nêu ra 12 định lý- 12 nhân duyên ( Paticca
Samuppada ), để chỉ cho sự cấu tạo, nhất là sự cấu tạo con người
:
1/ Vô minh : Mê lầm, tối tăm, không sáng suốt. Đối
với hiện tượng giới và tâm thức giới không nhận chân được
thực tướng của nó, vọng chấp là có, là thường. Và luôn luôn
quay cuồng theo vọng niệm phân biệt .
2/ Hành : Hành nghiệp, tác động chỉ chung cho những
nghiệp lực của phiền não. Vì nhân vô minh nên các phiền não vọng
khởi những nghiệp sai lầm, tư tưởng, hành động xa chân lý và
hiểu biết mê mờ.
So với nhân quả trong ba đời, vô minh và hành là
nghiệp nhân quá khứ. Nghĩa là, do hai món này làm nhân, để kết
sinh chịu quả trong hiện tại.
3/Thức : Nghiệp thức phân biệt. Nghĩa là do sự mê
mờ và hành động ở trên kết thành nghiệp thức phân biệt sai
lầm. Vì sự phân biệt ấy, nên chấp có năng có sở. Năng là
mình, sở là người và vật. Vì sự phân biệt, chấp trược ấy
nên sinh lòng bảo thủ thân mạng. Những tâm niệm vui, buồn, thương,
tiếc do đó phát sinh . Thức này là động lực luân hồi sinh tử.
Trong ba nguyên liệu tạo tác và kết thành thân người tức là
noãn ( hơi nóng ) và thụ ( cảm thụ ) và, nhờ thức này nên mới
thụ thai.
4/ Danh sắc : Danh sắc là tổng báo thân của loài hữu
tình khi còn ở trong thai tạng. Nhờ có tâm thức ( danh ) và sắc (
tứ đại ) hòa hợp nương tựa với nhau, nên thai chất mới được
dần dần sinh trưởng không bị tiêu diệt.
5/ Lục nhập : Nghĩa là 6 căn xúc nhập với 6 trần
nên gọi là " nhập ". Tuy còn ở trong thai tạng nhưng vẫn
đầy đủ 6 căn ( mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý ) xúc nhập với 6
trần ( sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ). Tuy chưa được mạnh mẽ rõ
ràng nhưng, nhờ sinh khí của 6 trần do người mẹ truyền vào để
nuôi dưỡng, do đó thai chất mới được sống còn, sinh trưởng.
Ấy gọi là " lục nhập " !
6/ Xúc : Xúc chạm, đối đãi. Nghĩa là, từ khi sinh ra
trở về sau, trong thời gian còn nhỏ dại, tuy có các giác quan ( căn
) tiếp xúc với 6 trần ( cảnh ) nhưng chưa phân biệt, nhận lãnh, cảm
thụ, một cách tự nhiên những cảnh vui, buồn, tốt, xấu v.v... chỉ
có công năng xúc nhập nhưng, chưa phân tích rõ ràng nên gọi là
" xúc ".
7/ Thụ : Nhận lãnh, cảm thụ. Đây bước qua một tầng
bậc khác của sự sống. Khi xúc đối cảnh trần bên ngoài hiểu
biết, phân biệt cảm thụ được vui, buồn, thương, ghét v.v... Như
đứa bé con tuy cảnh đời còn mơ màng nhưng, nó đã biết khóc
lóc trước cảnh đau, buồn, vui, cười trước cảnh may, sướng. Ấy
là " thụ ".
Do nghiệp nhân quá khứ ( vô minh, hành ) chiêu cảm
quả báo hiện tại ( thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thụ ). Phối
với nhân quả trong ba đời, năm món này là quả báo hiện tại.
8/ Ái : Tham ái. Đã biết vui, buồn, thương, ghét nên
sinh lòng tham ái, đắm trược những gì tốt đẹp hợp với sở
thích, ruồng bỏ những gì xấu xa, buồn chán. Vì tâm tham ái nên
phải nhọc lòng rong ruổi tìm cầu những điều sở thích. Tìm được
thì vui, không tìm được thì buồn. Ấy gọi là " ái ".
9/ Thủ : Chấp thủ, gìn giữ. Nghĩa là, vì tâm đắm
trược nên sinh lòng bảo thủ. Vật đã ưa thì đêm ngày mưu toan gìn
giữ. Nếu vật thuộc của người thì tìm kế cướp đoạt. Do ái
niệm sai xử nên tạo những ác nghiệp, ấy là " thủ ".
10/ Hữu : Tức là hữu lậu. Nghĩa là, do hai món ái,
thủ xử làm những nghiệp nhân hữu lậu, nên phải kết sinh tương
tục trong ba cõi, để chịu lấy khổ đau. Ban ngày ta ái niệm vật gì,
ban đêm ta mơ màng thấy như vật ấy đã thuộc về sở hữu của ta,
cho đến lúc tỉnh dậy ảnh tượng ấy cũng còn luôn luôn chập
chờn trước mắt. Ấy là công dụng của " ái ", tức là
" hữu ".
Nhân ba món ái, thủ, hữu làm nguyên nhân, nên
đời sau phải thọ quả báo sanh tử. Phối hợp với nhân quả trong
ba đời, ba món này là nghiệp nhân hiện tại, để vời lấy quả
báo sinh, lão, tử ở tương lai.
11/ Sinh : Sinh mạng. Chỉ chung cho tổng báo thân của loài
hữu tình ( tâm và sắc). Trong ấy gồm cả sinh lực, thể chất lẫn
tinh thần, sống còn trong một thời gian do hành nghiệp quyết định.
12/ Lão tử : Lão là sự già yếu của thân thể và
tinh thần. Thân thể yếu đuối, da nhăn má hóp và tất cả tế bào
đều suy yếu. Suy nghĩ, cảm giác chậm trễ lười biếng không còn lanh
lợi như lúc niên thiếu. Năng lực trong người mòn mõi dần dần,
đến một ngày kia, tinh thần vật chất đều kiệt quệ, sự sống ấy
sẽ kết liễu ( chết ).
Hai món trên này là quả báo đời vị lai nếu đem so
sánh với nhân quả trong ba đời.
Kinh Đại Trang Nghiêm nói : " Do nghiệp phiền não
đời quá khứ nên có thân hiện tại. Trong đời hiện tại lại
tạo nghiệp, nên được thân vị lai. Ví như hạt lúa do các duyên
hòa hợp mới thành cây mạ. Nhưng, hạt lúa ấy thực sinh ra mạ, vì
hạt giống tiêu diệt nên mạ mới lớn lên ", đủ làm toát
yếu và chứng minh cho định lý này vậy.
Nói tóm lại
Với những tài liệu trên đã tả chân mọi luận
pháp của sự cấu tạo qua các tư tưởng của đạo giáo và học
thuyết, đem lại một nhận định tùy thuộc tư tưởng cá nhân phê
phán và lựa chọn.
Nhưng, riêng về đạo Phật, chúng ta nhận thấy sự
cấu tạo chỉ là một chuỗi dây nhân quả chạy dài từ vô thủy
tới vô chung. Trong đó, nếu đứng về mặt tương đối, thì phát
nguyên là " nhất niệm mê mờ " vọng khởi ra nghiệp lực.
Nghiệp lực ấy luôn luôn chuyển biến, huân tập kết thành chủng
tử. Chủng tử gặp cơ duyên lại phát khởi ra hiện hành. hiện
hành lại tạo tác, tập thành chủng tử. Cứ thế, cứ thế mãi,
nó tương quan, tương duyên mật thiết với nhau trong vòng chuyển biến,
sinh diệt, chứ không phải là tự nhiên hay ai sáng tạo ra nó.
Khi nào con người biết đi ngược lại với dòng lưu
chuyển ( luân hồi ) tức là phải đoạn trừ vô minh. Vô minh hết
thì trí tuệ sáng tỏ, thể nhận được chân tướng của vũ trụ là
giả hợp, là vô thường, là biến ảnh của tâm thức. Đã hiểu
biết như thế, thì trong không có tâm, ngoài không có cảnh, tâm
năng tri đã không, cảnh sở tri cũng tịch, còn do đâu mà có ra
sự gây nhân chịu quả trong luân hồi. Khi vô minh đã diệt, tất cả
những chi nhánh cũng phải diệt và sẽ được vui sống trong cảnh
giới giải thoát.
" Tất cả sự vật dù hữu hình hay vô hình, tâm
hoặc ảnh đều do nhân duyên cấu hợp và chỉ là những ảnh tượng
mê lầm của tâm thức biến hiện ".