III .- CỨU CÁNH
GIẢI THOÁT
" Khi tâm trí nhận thấy mọi sự cấu tạo đều vô
thường, bản ngã là đau khổ và hư huyễn, lúc đó tâm trí mới
hợp nhất với bản thể bất diệt của cõi Niết Bàn tuyệt đối
"
Kinh trường A Hàm
Giải thoát
Giải thoát là mục đích tối cao, là phương pháp cứu
cánh của đạo Phật. Giải thoát sẽ ứng hiện ngay nơi tâm hạnh của
con người nếu con người muốn cứu cánh giải thoát và giải thoát
cứu cánh.
Tâm niệm con người luôn luôn xao động, nhịp nhàng
với vọng tưởng điên đảo và phiền não chấp trược. Chấp
trược hình sắc là thường còn, là đẹp tốt, là xấu xa, là
người, là ta v.v...
Chấp trược sự cảm thụ là sung sướng là đau khổ,
là không sướng, không khổ. Chấp trược tư tưởng là hay, dở,
phải, trái là không hay, không dở, không phải, không trái. Chấp
trược những hành động là đúng, là không đúng, là hợp lý,
là không hợp lý. Chấp trược sự nhận thức là cá nhân, gia
đình, quốc gia, núi, sông, đất đai,vuông, tròn, to, nhỏ v.v...
Đã chấp trược cố nhiên phải ham muốn và bảo thủ.
Đã ham muốn, bảo thủ tức là bị ham muốn, bảo thủ chi phối và
ràng buộc. Trong hoàn cảnh bị chi phối, ràng buộc con người chịu bao
nổi đau khổ, áp bức, thiếu tự do, có khác chi tù nhân bị giam
cầm nơi ngục thất. Con người sở dĩ bị ràng buộc như thế một
phần nhỏ bởi ngoại cảnh, một phần lớn tại nội tâm gây nên.
Và những nổi áp bức, giằng xé, thúc đẩy của dục vọng lại
càng khắc nghiệt bằng mười hoàn cảnh chung quanh. Ngục thất giam hãm
của cường quyền bất công còn rộng rãi hơn ngục thất tối tăm
của cái " ta " ích kỷ. Những xiềng xích trói buộc tù nhân
còn ít bền chắc hơn những xiềng xích của ham muốn đê hèn trong
mỗi cá nhân.
Nhận thấy cảnh nô lệ đáng thương của con người
bởi dục vọng gây ra, nên đạo Phật chú trọng nhất đến sự giải
thoát cho mỗi người bằng phương pháp diệt dục. Dục vọng càng
bớt, tự do càng nhiều, cái vỏ ích kỷ bị phá vở, tâm hồn càng
được phóng khoáng thảnh thơi. " Gió muôn phương chỉ bay về nơi
khoảng rộng, lòng người tự bưng bít không thể cảm thông được
với ý tình muôn hướng ".
Muốn giải thoát tức là muốn cởi mở sự chi phối,
ràng buộc, muốn ra khỏi nơi áp bức giam cầm để hưởng lấy niềm
vui vẻ hồn nhiên, hấp thụ bầu không khí tự do và tắm trong ánh
nắng của độc lập huy hoàng, chân như thực tế, đem lại lợi ích
cho mình và cho người.
Bỏ ham muốn, dùng ham muốn loại bỏ ham muốn, không bị
ham muốn chi phối là cứu cánh giải thoát, là giải thoát cứu
cánh.
1.- HIỂU BIẾT LÝ VÔ THƯỜNG
" Chúng ta không bao giờ tắm hai lần cùng một
dòng sông ".
Héraclite
" Tất cả các Pháp, sự vật, động hay bất động
trong thế gian đều là tướng hư hoại vô thường ".
Vũ trụ không tĩnh, vũ trụ luôn động, vũ trụ không
phải là ao tù, vũ trụ là một ngọn thác luôn luôn chảy xiết,
các giọt nước hợp thành luôn luôn kế tiếp thay đổi.
Sự vật không có thực thể, sự vật chỉ do các
nhân duyên phát sinh, tồn tại, tiêu diệt trong sự chuyển biến không
ngừng và hòa đồng với không gian vô biên, thời gian vô tận.
Cái bàn là tổng hợp tướng của đinh, gỗ, công phu
người thợ, nhưng nó sẽ là vật vô dụng của một ngày kia hư
hỏng. Cái nhà là kết quả của bao nhiêu vôi, gạch, ngói, đất,
gỗ, cát, công nhân và sẽ đem lại một hình tướng không ngờ của
ngày đổ nát. Cái áo xanh xinh đẹp của cô thiếu nữ mặc trên
mình cũng chịu cho định lý nhân duyên chi phối và ngày lại ngày sẽ
phải phai lạt, sẽ nhuốm màu thời gian mà ngã sang một màu khác. Cho
đến cái kim, cái tách cũng thế và cũng bị tan vỡ... Nghĩa là tất
cả đều bị định lý vô thường chi phối. Định lý ấy chưa lúc nào
chứng tỏ một cách rõ ràng bằng đời hiện tại.
Tìm hiểu để xây dựng
Định lý vô thường, đem lại cho chúng ta một trực
nhận : Sự vật không phải là chân thật, bền bỉ và thường còn ,
sự vật không phải là đơn độc riêng biệt trong những thành kiến
ích kỷ và tư hữu, do đó nó thúc dục con người dứt bỏ lòng ham
muốn, chấp trược nơi mình, mạnh dạn bước vào đời, xây dựng
nền an lạc, giải thoát cho nhân loại.
Hiểu biết lý vô thường để thể nhập tính chân
thường.
2.- HIỂU BIẾT LÝ VÔ NGÃ
" Chúng sanh là giả danh tiện dụng, để chỉ một
kết hợp của nhiều nguyên tố không bền vững : Mọi pháp luôn
biến đổi ".
A. Migot
Vô ngã
Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói : " Bốn phần lớn (
tứ đại ) trong mình ta mỗi phần đều có một tên riêng, đều không
có gì là " ta " cả. Đã không có ta thì nó chỉ là trò dối
mà thôi ! "
Cái ta chỉ là một danh từ trống rỗng, nó là hình
thành của nhiều yếu tố khác như : đất, nước, gió, lửa v.v...
Nó dựa vào cá nhân, quốc gia, xã hội hay lý
tưởng mà có sự phân biệt. Nó luôn luôn chuyển biến trong vòng
sinh, trụ, dị, diệt.
Cái " ta " năm phút sau không còn là cái ta
của mấy phút trước. Sợi tóc giờ đây không còn là sợi tóc
vừa rồi. Nó thay đổi, nó làm cho mái tóc xanh dần dần sẽ điểm
bạc, cái thân tráng kiện, năm tháng sẽ yếu già. Có điểm bạc,
có yếu già, tức là không có cái gì đủ sức bảo đảm chắc
chắn cho nghĩa chữ " ta " nữa !
Tất cả đều không có ta ( vô ngã ) nếu ly khai tất
cả.
Khi cái đã không còn thì dục vọng còn dựa vào
đâu để đòi hỏi cho cái ta riêng biệt. Ích kỷ cũng không còn
thấy cái kỷ để mà ích. Biên giới thành trì ngăn cách giữa mình
và người được san phẳng sự tranh chấp sẽ không còn, mình và
người sẽ giao hòa trong một biển sống mênh mông không bờ lũy,
không ngần ngại và nắm chặt tay nhau, cùng nhau chung sức xây dựng
nền hòa bình vĩnh cửu và hạnh phúc chân thật cho nhân loại.
Đạo lý vô ngã là động cơ thúc đẩy con người
dũng tiến trong công việc phụng sự nhân loại.
3.- THỰC HÀNH GIỚI, ĐỊNH, TUỆ
" Trên đường tu tập, gắng làm tăng trưởng
những khả năng nội thức, để phát sinh trí tuệ. Trí tuệ sáng
suốt thì những vọng động hỗn độn và mờ ám được tiêu trừ
".
Pau Adam
Giới, Định, Tuệ là nguyên tắc tu, học và hành để
thực hiện mục đích giác ngộ và giải thoát
Nhà khoa học đem lại một kết quả thực tế cho nhân
loại không phải là ít công phu trong sự tìm hiểu, gạt bỏ loạn
tưởng, lắng tâm bình tĩnh và nhận định sáng suốt. Con người muốn
thành người, muốn giải thoát cũng không thể thiếu được Giới,
Định, Tuệ. Ngài giác ngộ trong lúc tâm trí vẳng lặng và sáng suốt
hoàn toàn. Sự giác ngộ của ngài không những là tự giải thoát
mà còn là một gương sáng hoàn mỹ soi tỏ và đem lại cái chân
lý sẳn có nơi chúng sinh mà chúng sinh không hiểu. Chân lý ấy ở
bất kỳ cá thể nào, ở phương sở nào nó chỉ đòi hỏi một tâm
trí trong lặng, sáng suốt và hòa hợp với một lòng thương rộng
lớn là sẽ thấy được nó, tức là được giác ngộ, được
giải thoát.
Giới, Định, Tuệ là ba môn học không dời đổi, là
chìa khóa mở cửa ngõ Niết Bàn giải thoát.
A.- THỰC HÀNH GIỚI HỌC
" Giới bổn rất cao quý, nguyên tịnh để dìu
dắt chúng sinh đến nơi giải thoát "
Lời Phật dạy
" Giới " là lời răn dạy, ngăn cấm không
được làm sự gì trái với sự thật, trái với điều thiện,
trái với đường lối giải thoát. " Giới " là phương pháp
điều trị những tội lỗi do thân, miệng, ý phát sinh ra, hầu đem lại
lợi ích cho mình và cho người.
Trong khi thực hành giới học, cần nhất phải giữ gìn
thân, miệng bề ngoài cho đúng với Giới luật thì tâm trí bên trong
mới được trong sạch. Trong, ngoài trong sạch, tất nhiên dung nhiếp
nhau từ chỗ mê đến chỗ ngộ.
muốn đạt đến chỗ ngộ, cần phải hướng về những
giới điều dưới đây :
a/ Nhiếp luật nghi giới
Là những Giới luật, uy nghi có công năng gìn giữ
thân tâm, không phạm vào những điều ác, khiến thân tâm được
an định, trong sạch như năm điều răn v. v...
b/ Nhiếp thiện pháp giới
Là những Giới luật răn làm những việc lành, lợi
mình, lợi người như làm mười điều thiện v.v... Nhờ vậy mà
phúc đức, uy tín, tự do được thêm lên, khỏi vương vào sự
ràng buộc của cảnh giới người và không còn bị cảnh giới
người chi phối
c/ Nhiếp- ích hữu tình giới
Là những lời răn dạy để hóa độ, cứu giúp
chúng sinh làm những hạnh cứu độ và lợi ích cho toàn thể.
Như thế nếu thực hành đúng Giới học tất nhiên
thân tâm được giải thoát được mọi sự ràng buộc và không
sinh khởi ra những hành vi trái lẽ phải. Nhờ có sức mạnh của
Giới học mà có thể vượt trên sự chi phối của ngoại cảnh, của
nội tâm, để tìm đến sự thật, để đạt tới chỗ giải thoát
chân thật.
B.- THỰC HÀNH ĐỊNH HỌC
" Trong cõi vẳng lặng hoàn toàn của nội thức,
tâm hồn được an vui thanh tịnh ".
Caufernau
" Định " là một phương pháp chú tâm vào một
cảnh, không cho tâm tác động tán loạn và không cho tâm rong ruổi
theo các duyên, vì rong ruổi tất sinh vọng niệm, đã có vọng niệm
thời bị mê mờ. Nên tu định là cốt trừ những vọng niệm, những
tư tưởng mê lầm.
Muốn được như thế điều kiện trước nhất là phải
dứt bỏ các món tà niệm bằng cách đem những tư tưởng chân
chính mà ngăn dẹp. Nghĩa là trong khi đi, đứng, nằm, ngồi có tà
niệm khởi lên cần đem chính niệm nén dẹp ngay lại. Khi diệt được
tà niệm rồi vẫn còn những niệm tưởng trong sạch loạn động luôn
luôn khởi diệt lại cần phải dứt luôn những niệm tưởng ấy
tâm mới được an định.
Khi giữ tâm định rồi phải luôn xa cái niệm gìn giữ
cho tâm định ấy tức là tự tâm an trụ không còn vọng động
nữa, vì nếu còn niệm gìn giữ cho tâm định là còn vọng niệm.
Trong sự thực hành để đạt tới chỗ thành tựu,
cần phải áp dụng những pháp môn sau đây tùy theo trình độ của
từng người :
a/ Pháp môn sổ tức
Tu hành phương pháp điều hòa hơi thở, rồi y theo hơi
thở ra vào, khiến tâm không loạn động.
b/ Pháp môn tịnh niệm
Giữ niệm cho trong sạch an tĩnh, khiến tâm an trụ vào
một niệm thanh tịnh.
c/ Pháp môn thiền định
Thiền là nhất tâm quán vật, định là nhất cảnh tịnh
niệm. Là pháp môn dùng sự suy nghĩ mà nghiên cứu, tìm xét cho
đến nhất cảnh thanh tịnh.
Định học đem lại cho tâm trí được điều hòa khỏi
tán loạn, tối tăm, trí tuệ được phát triển và năng lực
được phát sinh, nếu biết thực hành đúng phương pháp của nó
C.- THỰC HÀNH TUỆ HỌC
" Nếu người có trí tuệ soi tỏ mọi lẽ thì dù
là con mắt thịt mà chính là người thấy tỏ hết cả ".
Kinh Di Giáo
" Tuệ" là phân biệt sự , lý, lựa chọn các
pháp, dứt sự nghi ngờ, chứng lý chân thật, Tuệ là khả năng
khai sáng của tâm trí, quán chiếu sự vật, thể nhập và chứng ngộ
chân lý. Tuệ là pháp sáng suốt của tự tâm, luôn luôn thường
còn và ai ai cũng sẳn có, chỉ vì mê mờ nên không tự biết, làm
cho trí tuệ không được phát triển.
Phương pháp cần thiết
Trong khi thực hành tuệ học, trước hết nên y cứ
nơi văn tự để xét nghĩ và hiểu rõ chính lý, rồi dùng chính lý
ngăn dẹp tà niệm. Khi tà niệm đã hết chỉ còn chính tuệ thì dùng
chính tuệ soi sáng sự vật, phát triển sự thật. Đến khi chính tuệ
đã thể nhập được chân lý, giác ngộ được sự thật, tính
sáng suốt của tự tâm luôn luôn xuất hiện là thành bậc chính
giác.
Như thế nhờ có tuệ học sẽ dứt trừ được phiền
não mê lầm, biết được thực tính, thực tướng của sự vật, soi
rõ tâm, cảnh là chân không và chứng ngộ được chân lý như
thật.
Tóm lại, chủ đích của đạo Phật là muốn toàn thể
chúng sinh giác ngộ được sự thật, sống theo sự thật, để
được tự tại và giải thoát. Nhưng, muốn được thế cần phải
lấy sự hành trì làm căn bản, mà nguyên tắc chính của tất cả
sự hành trì là Giới, Định và Tuệ. Vậy chúng ta nên đặc biệt
chú trọng vào ba môn đó mà thực hành. Vì chỉ có sự thực hành
theo đúng nguyên tắc căn bản mới đưa đến mục đích giải thoát
và giác ngộ của đạo Phật.
" Nếu ai ráng tu tập và trao dồi tâm trí để
thoát khỏi vòng phiền não : tham, sân, si tất nhiên người ấy sẽ
được hoàn toàn giải thoát ".
D.- THỰC CHỨNG SỰ LÝ GIẢI THOÁT
" Đạo diệt khổ tức là chân đạo, ngoài ra
không còn đạo nào khác nữa "
Kinh Di Giáo
" Giải thoát là chung kết của sự mong muốn tương
đối và sự hiểu biết hoàn toàn tuyệt đối "
Giải thoát là xu hướng chung của loài người. Trong
khi con người đang lâm vào hoàn cảnh đau khổ, mê lầm, tất nhiên
con người chỉ mong cầu được an lạc giải thoát. Nhưng sự mong cầu
ấy, ít khi đem lại cho họ một kết quả mỹ mãn, vì họ chỉ tìm giải
thoát nơi ngoài mình, chứ họ không tìm giải thoát nơi trong mình.
Chính con người là nguyên nhân, là hình ảnh của đau khổ, mê lầm
thì con người cũng là nguyên nhân, là hình ảnh của an lạc giải
thoát. Cho nên khi nào con người biết dứt bỏ mê lầm, hiểu thấu
chân lý, coi những sự khoái lạc, huy hoàng đều là giả dối, biết
vận dụng làm lợi ích cho chúng sinh lúc đó mới là giải thoát
chân thật hoàn toàn cả sự lẫn lý.
" Tự tín chân thật còn mê mờ thì phúc nào
cứu thoát được "
Kinh Pháp Bảo Đàn
Căn cứ vào sự, lý giải thoát, nơi đây có thể
phân tích làm ba loại :
a/ Giải thoát về hoàn cảnh
Hoàn cảnh con người nhiều khi đem lại cho con người
một sự đau khổ trực tiếp nên con người chỉ mong cầu một đời
sống rộng rãi, tự do, không bị ràng buộc về vật chất cũng như
về tinh thần, tùy theo tư tưởng của con người.
_ Có người muốn sống một đời sống vật chất đầy
đủ như cơm ăn, áo mặc, vật dụng, vợ đẹp, con xinh, nhà cao, cửa
rộng, quyền thế to tát, giàu có thừa thải và không bị một quyền
lực gì áp bức, kìm hãm, mặc sức cho họ thỏa mãn dục vọng.
_ Có người muốn xa lìa vật chất, coi vật chất là
mồi ngon của dục vọng, là trợ lực của đấu tranh, họ chỉ muốn
tìm nơi thanh vắng để huân tu đạo nghiệp. Khi tu tập đã thành công
thì vật chất bên ngoài không thể chi phối được họ, do đó mà
họ được giải thoát.
So sánh hai quan niệm giải thoát hoàn cảnh trên đây,
thì thấy họ đều nghiêng về một phương diện, một bên ưa sống trong
đời sống vật chất đầy đủ, một bên không quan tâm đến vật
chất bên ngoài, chỉ cần rèn luyện tâm trí mà thôi. Đã nghiêng
về một phương diện quyết định chưa được giải thoát hoàn toàn
b/ Giải thoát về tự tâm
Con người tuy đã vượt qua được hoàn cảnh ràng
buộc theo ý muốn của mình nhưng, chưa thể giải thoát được nỗi
thống khổ lớn lao do nọc độc : tham, sân, si... phun ra. Đói cơm thiếu
áo là khổ thì dục vọng là hiện thân của tham, sân, si cũng không
phải là kém phần đau khổ. Thực tế đã chứng minh : biết bao
người ngậm hờn trên gấm vóc, nuốt lệ trong ngọc ngà, kết cuộc
họ cũng có thể chết mòn mỏi như những người nghèo đói, rét
mướt, hoặc còn khổ hơn và chiếm phần đa số là khác. Nghĩa là
họ bị dục vọng tham, sân, si thúc dục.
Muốn giải thoát trong mọi nổi thống khổ ấy không chi
bằng diệt trừ nguyên nhân đau khổ, tức diệt trừ lòng ham muốn,
giận dữ và si mê, mở rộng một đường thẳng đến mục đích của
giải thoát lâu dài, vượt ngoài vòng sinh tử luân hồi.
" Chỉ không còn sinh tử mới là an vui tuyệt đối
".
Kinh Đại Niết Bàn
c/ Giải thoát hoàn toàn
Con người đã thoát khỏi sự ràng buộc của phiền
não, thoát ly được sinh tử luân hồi nhưng vẫn chưa được hoàn
toàn giải thoát, vì còn có tướng giải thoát. Nghĩa là còn sự
chấp trược là " được giải thoát ". Còn chấp trược tất
nhiên sự hiểu biết chưa được cứu cánh, sự thực hành chưa
được dung thông. Trái lại khi nào sự hiểu biết không còn bị
thời gian và không gian hạn chế, không còn bị tâm lý, sinh lý tầm
thường chi phối, ra vào chỗ trong sạch không vui thích, chỗ ô uế
không nhiễm trược, tức là lúc nào đã chứng nhập được chân
tướng của sự vật, thể nhập bản thể của vũ trụ và được
tự tại vô ngại, thì lúc đó mới là giải thoát cứu cánh. Bản
chất của gương là trong sáng, thì để đâu cũng sáng, sự vật nào
soi vào cũng được, soi xong gương vẫn là gương, trong sáng vẫn là
trong sáng. Bản chất của cây sen, hoa sen là trong sạch là vô ngại
thì ở khoảng bùn tanh hôi cũng vẫn như như bất động.
Bản thể của điện là nhanh, sáng, thì mặc dầu dùng
vào hình thức nào nó vẫn nhanh sáng và khi ly khai hình thức ấy ra
nó vẫn là " điện ".
Như thế, giải thoát cứu cánh có nghĩa là không còn
một chút gì ràng buộc trong sự hiểu biết và thực hành mà đều
được viên dung, tự tại.
Cho nên trong hành vi, trong ý nghĩ của người nào mà
có được đôi phần đức tính của chân giải thoát thì mới thật
là con người có giải thoát, có an vui và có lợi ích thật sự cho
tất cả mọi người, mọi vật.
Kết luận
Con người cùng nhịp nhàng trong bản thể vũ trụ, cùng
chịu luật tiến hóa chung của vũ trụ, nhưng kèm theo với đặc tính
và hình thể riêng biệt, tùy thuộc vào định luật nhân quả của
nó.
Con người là chủ nhân ông của tất cả hành vi, sự
nghiệp của con người. Con người được thành người hay được
giải thoát cứu cánh chỉ khi nào con người biết rèn luyện thân
tâm, hiểu biết nghĩa vụ, diệt trừ ham muốn, thẳng tiến trên
đường lợi sinh, không còn bị hạn chế và ngăn ngại.
" Con người là tất cả và trên tất cả ! ...
"