...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- PHÊ BÌNH
KÝ SỰ HÀNH HƯƠNG ĐẤT PHẬT
- Của PHAN THIẾT (NGUYỄN KIM KHÁNH)
Do Southern Stars Publisher, Australia, chủ trương và xuất bản năm 1999
- Thích Nhật Từ
Lời Tri Ân
(Ấn bản Internet lần thứ hai)
Ngay sau khi tập phê bình này được
đăng tải trên trang nhà Quảng Đức (http://www.quangduc.com),
tác giả nhận được nhiều thư chỉ giáo và góp ý của chư tôn đức
cũng như các thức giả Phật tử, ở các nơi gởi về. Trong số đó, trước
nhất chúng con phải kể đến và thành kính tri ân Thượng tọa Thích Huyền
Diệu, trụ trì Việt Nam Phật Quốc Tự (Ấn Độ), Thượng tọa Thích Quảng
Ba (Úc châu), và đại đức Thích Tâm Hòa (Canada) đã chỉ giáo cho chúng
con nhiều điều quý báu.
Chúng tôi xin cảm ơn đại đức Thích Lệ Thọ (Magadh
University), Tịnh Tuệ, Vương Thúy Nga và tiến sĩ Bình Anson đã chịu khó
đọc và sửa các lỗi đánh máy và đóng góp nhiều ý kiến rất hay cho tập
sách. Ngoài ra, tiến sĩ Bình Anson còn giúp chúng tôi chuyển đổi hệ thống
dấu của các thuật ngữ Paali và Sanskrit từ dạng văn bản thông thường
sang dạng văn bản trên Internet, để giúp cho quý độc giả có thể đọc
được dễ dàng trên mạng. Chúng tôi chân thành cảm ơn đại đức Thích
Nguyên Tạng đã chuyển cho chúng tôi các thư điện toán của quý độc giả
gởi về, và nhất là kiên nhẫn "cập nhật" nhiều lần tập phê
bình này mỗi khi chúng tôi có dịp hiệu đính.
Trong trong phiên bản điện tử lần này, chúng con/ chúng
tôi đã cố gắng hiệu chỉnh theo những lời chỉ giáo và góp ý của chư
tôn đức và quý độc giả. Các sai sót nếu còn đều thuộc về trách nhiệm
của chúng con/ chúng tôi.
Ngày 15 tháng 3 năm 2000
Thích Nhật Từ
Lời Tri Ân
(Ấn bản Internet lần thứ nhất)
Tác giả xin chân thành tri ân đại đức Somnuek Saksree
(Panjab University), người đã độ lượng cho tác giả mượn phòng và máy
vi tính trong suốt 10 ngày tác giả viết tập nhận định này, khi hệ thống
điện của Ký túc xá nơi tác giả cư ngụ bị hư hỏng nặng.
Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến Thầy Nguyên Tạng,
người đã có hảo tâm, mua quyển Ký Sự Hành Hương Đất Phật với
giá 28 $ và sẵn lòng bỏ thêm gần 15 $ để gởi biếu tác giả qua đường
bưu điện, như món quà tết Canh Thìn 2000. Nhờ đó, tác giả biết được
trên đời này có một người như ông Phan Thiết tự hào, kiêu căng khi tự
nhận mình là một con "cóc" (II. 157, d.1), một con cóc dưới đáy
giếng, từ chối không nhìn nhận có một bầu trời Phật giáo bao la, sáng
lạn ngoài cái giếng chật hẹp, tối tăm.
Ngày mùng 4 Tết Canh Thìn
Thích Nhật Từ
Ghi Chú
1. Số la-mã "I" trong ngoặc đơn ngay sau các đoạn
nguyên tác của Phan Thiết, được trích trong tập nhận định này là chỉ
cho "tập I" của Ký Sự Hành Hương Đất Phật. Tương tự, số
la-mã "II" chỉ cho "tập II" của quyển này.
2. Chữ "d" đứng sau các số trang được trích
trong ngoặc đơn là viết tắt của chữ "dòng," chỉ cho số dòng của
trang sách, tính từ trên xuống.
3. Hầu hết các phần "in đậm" và "in
nghiêng" trong các đoạn nguyên tác của Phan Thiết, được trích dẫn
trong tập nhận định này là do tác giả (TNT) nhấn mạnh, để giúp bạn
đọc dễ thấy được ý đồ xuyên tạc Phật giáo của ông Phan Thiết.
4. Ngoại trừ chương I, X và XI, chúng tôi sử dụng lại
"nguyên văn" tiêu đề các chương của ông Phan Thiết, trong tập
phê bình này, để giúp qúy độc giả dễ đối chiếu.
5. Trong phiên bản Internet này, các ký tự Paali-Sanskrit được
dùng theo qui ước sau đây:
6. Chúng con/ chúng tôi vô cùng hoan hỷ và biết
ơn nếu được chư tôn đức / quý Phật tử phát tâm xuất bản hay truyền
bá rộng rãi tập phê bình này. Để có bản đã dàn trang (có đầy đủ
chữ Hán, dấu Paali và Sanskrit), kính xin chư tôn đức/ quý Phật tử vui
lòng cho chúng con/ chúng tôi biết, qua địa chỉ điện toán sau đây: thichnhattu@yahoo.com
Lời Đầu Sách
Ký Sự Hành Hương Đất Phật của
tác giả Phan Thiết, mới nghe qua người đọc có thể lầm tưởng cho là
sách viết ca ngợi về các Phật tích như tên gọi của nó. Nhưng thực chất
nó là một quyển sách được đầu tư đến 8 năm liền (II. 151, 14) nhằm
xuyên tạc, bôi nhọ, chống phá Phật giáo của một người xuất thân từ
một gia đình Ky-tô giáo. Tên thật của ông là Nguyễn Kim Khánh, sinh năm
1943 tại Hưng Yên, miền Bắc Việt Nam. Ông Phan Thiết tự xưng đã từng
là thẩm phán (?) thuộc Tối Cao Pháp Viện, Việt Nam Cộng Hòa và có lúc cũng
còn làm Chánh án Tòa sơ thẩm Bình Thuận tại Phan Thiết (II. 164-5).
Sách Ký Sự Hành Hương Đất Phật gồm trên 370 trang
khổ 19cm X 24.5cm, với 2 tập nhập thành một: tập một mang tựa đề
"Theo Dấu Phật qua Kinh Truyện" gồm 206 trang, và tập hai mang
tựa đề "Bước Hành Hương theo Dấu Đức Phật Lịch Sử"
gồm 165 trang. Trong cả hai tập, các mục tiêu chính của ông Phan Thiết là
nhằm phủ nhận đức Phật Thích-ca như một nhân vật lịch sử, phủ nhận
tính nguyên thủy, sáng tạo, siêu tuyệt của giáo pháp của Phật, xuyên tạc
các vị cao tăng Phật giáo, viết lệch lạc về lịch sử, về cuộc đời
của đức Phật, về cộng đồng tăng sĩ Phật giáo. Ông Phan Thiết thừa
nhận rằng ông khác với Ngô Thừa Ân và Trương Quốc Dũng những kẻ làm
bộ tán thán Phật giáo nhưng thực ra đi đường vòng để chống phá Phật
giáo (II. 12, 20-1). Ông đi đường thẳng, trực tiếp xuyên tạc, thêm thắt,
bịa đặt, cắt xén, giải thích sai lệch, viết nhầm lẫn các thuật ngữ,
học thuyết Phật giáo để lạc dẫn người đọc.
Để thực hiện mưu đồ xuyên tạc, chống đối Phật giáo
này, ông Phan Thiết đã bất chấp sự thật lịch sử, vận dụng lối ngụy
biện bằng cách chơi chữ đồng âm dị tự, đánh đồng hai khái niệm
hoàn toàn khác nhau làm một để xuyên tạc Phật giáo. Chẳng hạn, khái niệm
tánh "không" (P. su~n~nataa, S. ᠼi>uunyataa) vốn có nghĩa là
tính không thực thể, duyên sinh, vô ngã, vô thường của các sự vật, bị
ông Phan Thiết đánh đồng với khái niệm "không có" (natthitaa)
để ông có cớ giải thích xuyên tạc rằng: "không tức thị sắc"
có nghĩa là đạo Phật "từ không [có] người ta làm ra có"
(II. 155, d.10-11) và "sắc tức thị không" có nghĩa là "không
có gì cả mà phát động đấu tranh sẽ lãnh số không" (II. 159,
d.1-2). Đây chính là mục tiêu xuyên tạc Phật giáo của ông Phan Thiết,
xuyên suốt trong hai tập Hành Hương Đất Phật.
Cái tai hại lớn nhất của ông Phan Thiết là với vốn chữ
Hán "ăn đong, viết không đầy lá mít, chữ Paali và Sanskrit thì mù tịt"
(I. 23, d.26-7) mà lại thích phân tích chữ Hán, giải thích chữ Paali và
Sanskrit, để chứng tỏ ta đây là một tam tạng hiện đại hơn hẳn các
tam tạng Phật giáo trong quá khứ (II. 13-4). Cái thất bại lớn nhất của
ông Phan Thiết là chưa từng thấy được mặt mũi của các kinh điển Phật
giáo bằng tiếng Việt và bằng tiếng Anh, huống chi là đọc, và cũng
chưa từng đọc qua các kinh điển Veda, Braahma.na, Upani 㠡d, Vedaa"nga và Puraa.na và các bản văn nguyên
tác hay bản dịch về triết học của các phái triết học Ấn Độ (I. 24,
50) mà dám phân tích về các học thuyết này theo kiểu thích gì nói đó,
chứ không phải nói sự thật. Kết quả là ông cho ra đời một tác phẩm
với hàng trăm sai lầm về thuật ngữ, nhân danh, địa danh, học thuyết, công
khai bịa đặt, bôi nhọ lịch sử và xuyên tạc đạo Phật, đạo giác ngộ
do sự tự lực của bản thân qua quá trình trau dồi đạo đức, trí tuệ
và thiền định, khác với tín ngưỡng của ông, lệ thuộc vào niềm tin cứu
chuộc giả tạo của Thiên chúa. Quả là một việc làm non kém, thiển cận,
uổng phí công sức và tiền bạc.
Ông xuyên tạc rằng "Kinh Phật bắt nguồn từ đạo
Bà-la-môn" (I. 47), hay "từ đạo Bà-la-môn bịa đặt ra"
(I. 55), để phủ nhận tính nguyên thủy của kinh điển Phật giáo (I. 48,
50). Từ đó, ông kết luận mang tính xuyên tạc rằng đạo Phật là "phóng
ảnh của đạo Bà-la-môn với tên gọi khác" (I. 54, 103). Ông
cho cấu trúc Tam thánh (Phật A-di-đà, bồ-tát Quán Thế Âm và Đại Thế
Chí) là cóp-pi từ ba hình dạng của Phạm thiên, chỉ vì hai mô hình này
có cùng con số 3! (I. 80, xem 95). Các nhận định sai lầm tương tự như vừa
nêu còn xuất hiện ở các trang 54-5, 57, 68, 70, 77, 78 của tập I, để từ
đó ông bóp méo đạo Phật: "Như thế cái tinh thần của Thích-ca
ở chỗ nào? Và Phật Thích-ca đã "khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến"
cái gì?" (I. 78). Nhưng trên thực tế, những hành vi ngông cuồng và
vô cơ sở của ông đã làm cho ông dấu đầu lòi đuôi. Ông cho Phật
cóp-pi đạo Bà-la-môn, nghĩa là Phật không có cái gì "mới," cái
gì "sáng tạo" hay cái gì "siêu việt hơn" đạo Bà-la-môn,
nhưng trong "sự giác ngộ vô tình" ông đã phải thừa nhận rằng
Phật là siêu suất như sao bắc đẩu giữa vô vàn các đạo sư Bà-la-môn
thời đó. Ông viết (mà không hề biết đến sự mâu thuẫn của mình):
"Trong vô vàn các đạo sư xuất hiện đó đây, đức Thích Tôn là
sao bắc đẩu. Ngài có sức hấp dẫn quần chúng lạ lùng không những vì
lời dậy minh triết mà còn ở phong độ bao dung, cử chỉ hòa nhã và lời
lẽ dí dỏm" (I. 83).
Ông chụp mũ "đại" khi cho rằng Phật giáo chủ trương
chủ nghĩa hư vô: "Đạo lý của Phật Tổ tổng hợp trọn vẹn tư
tưởng hoài nghi, hư vô và giải thoát" (I. 75) và thiển cận hơn
khi cho rằng "Bài Bát nhã Tâm Kinh do sư Cưu-ma-la-thập chép ra
[sic, dịch] đề là Kinh Phật chắc là bài kinh của những người hư vô
chủ nghĩa viết bằng lối văn ngụy biện chối bỏ sắc, tướng …"
(I. 95) chỉ vì ông không hiểu được hai khái niệm sắc (ruupa) không
(ᠼi>uunyataa). Ông cũng còn cho Phật giáo chủ trương thuyết bất khả
tri (I. 98), chỉ vì ông không hiểu được triết lý của ngụ ngôn "Mù
rời voi" và ngụ ngôn "Lá trong rừng và lá trên tay" (I. 98-9).
Ông cố tính bóp méo tứ đế qua tam đoạn luận tự phịa
của ông (I. 51), công khai xuyên tạc học thuyết vô ngã và bình đẳng của
đạo Phật (I. 69-70), đánh đồng Phật tính với đại ngã (I. 52). Ông đánh
đồng hai khái niệm hoàn tòan khác nhau là chân như của Phật giáo với
Brahma của Bà-la-môn giáo: "Cả Bà-la-môn lẫn Phật Nguyên Thủy và
Phật Đại Thừa xem chúng sanh như những giọt nước bốc hơi thấm nhuần
vào muôn vật rồi thành mưa rơi xuống đại dương tức là Brahman hay Chân
Như" (I. 77). Cách đánh đồng tương tự còn được trình bày rải
rác ở các trang 76, 77, 89, 90 của tập I. Về thuyết luân hồi và nghiệp
báo, ông Phan Thiết cho rằng Phật Thích-ca không giảng về luân hồi (I.
72) hay "Ngài cũng chẳng khai thị cho chúng sanh về luân hồi và nghiệp
báo" (I. 72, d.28-9) mà "công của đức Thích Tôn là Ngài
trình bầy vấn đề rõ ràng và hợp lý hóa" (I. 72, d.26-7).
Ông còn gán ghép đại khi cho rằng đạo Phật và đạo Kỳ-na
là anh em sanh đôi: "đạo Phật và đạo Jain (Kỳ-na) của Mahavira giống
nhau như hai anh em sinh đôi" (I. 49) hay "Phái kỳ-na là anh em
song sinh với đạo Phật" (I. 74) hay cho rằng Phật giáo và
Bà-la-môn và Kỳ-na là một (I. 106).
Về các tông phái của đạo Phật, ông đánh đồng đại,
khi cho rằng Vaisesika là "thủy tổ của duy thức luận trong đạo Phật"
(I. 92), chỉ vì triết phái này có đề cập đến chữ manas! Ông bảo
Nyaya và Vaisesika là nguồn gốc của Phật giáo đại thừa "Phật Đại
Thừa nương theo hai phái này [Nyaya và Vaisesika] hoàn chỉnh thuyết
luân hồi, nghiệp báo, duy thức thành một hệ thống triết học chặt che?uot;
(I. 92) chỉ vì hai triết phái này cũng có nói về nghiệp báo và các thức.
Ông cho Yoga là nguồn gốc của Thiền Phật giáo (I. 93) chỉ vì một trong
các hình thức yoga là thiền định. Ông cũng còn cho rằng "Phái
Mimamsa được xem như tổ của các phái Tịnh Độ đạo Phật" [sic,
đã gọi là "các phái" mà sao chỉ nêu ra Tịnh Độ] (I. 94) chỉ vì
ông thích nói như vậy. Ông còn gán ghép vô căn cứ rằng "Phái Zen
pha trộn tư tưởng phương Tây, du nhập Ky-tô giáo [sic] vào Phật
giáo." (I. 41, xem thêm I. 93).
Ông phủ nhận kinh điển đại thừa bằng cách xuyên tạc
rằng: "kinh điển Đại Thừa là kinh ngoại đạo" (I. 35, xem
I. 40) hay do người sau ngụy tạo (I. 39). Ông gán ghép cho các vị cao tăng
Phật giáo viết kinh đại thừa. Ông xuyên tạc rằng bồ-tát Long Thọ là
tác giả của các kinh đại thừa như Kinh Hoa Nghiêm và Thập Trụ Luận (I.
78). Ông bảo Cưu-ma-la-thập là tác giả của kinh Pháp Hoa, A-di-đà,
Bát-nhã Ba-la-mật: "Ở đấy ông viết kinh, tự cho là kinh Phật dịch
từ Phạn ngữ được 98 bộ gồm 420 quyển. Chính ông là tác giả của nhiều
bộ kinh còn truyền đến nay như kinh Diệu Pháp Liên Hoa, kinh A-di-đà, kinh
Bát-nhã Ba-la-mật . . . " (I. 39-40, tương tự ở I. 78). Buồn cười
hơn khi ông cho rằng tôn giả Tu-bồ-đề là người giảng kinh Kim Cang (I.
53). Ông cũng còn cho rằng kinh A-di-đà cóp-pi từ "truyện cổ tích
Purana của Ấn Độ" (I. 53) mà không hề chứng minh gì cả.
Bằng lối văn ngụy biện dâm dật, tục tĩu, ông Phan Thiết
cố tình biếm nhẻ Phật giáo dưới nhiều hình thức, mỗi khi ông tìm ra
được một cơ hội gán ghép bậy bạ. Tháp tưởng niệm đức Phật chuyển
pháp luân ở vườn Nai mà ông Phan Thiết bảo là "cái linga [dương
vật] biểu tượng của thần Siva" (II. 92, d.26). Để bôi bác thế
giới của Phật A-di-đà và trạng thái an lạc của niết-bàn, ông Phan Thiết
cố tình viết tục tĩu: "Kẻ nào không có ‘nam căn’ không thể tu
nhập niết bàn và cõi tịnh độ chỉ toàn giống đực sinh ra từ hoa sen!"
(I. 31-2). Chưa thôi, ông Phan Thiết còn dựa vào trí tưởng tượng hoang dâm
của ông, bịa ra một câu chuyện với các thuật ngữ Phật học pha lẫn
các cảnh dâm dục để biếm nhẻ đức Phật một cách vô giáo dục. Ông
bảo "phật là ưa liễu sự, thích can thiệp vào chuyện thế gian hoặc
làm bộ giáo hóa chúng sinh" (I. 61, d.4-5). Ông Phan Thiết còn bôi nhọ
các quốc độ khác nhau của chư Phật, vốn đáp ứng cho việc hóa độ
theo các căn tính khác nhau, như một "tập tục thần phật "trong
một cánh rừng không có hai chúa sơn lâm"" (I. 62, d.28). Ông Phan
Thiết cố tình ví cây thiền trượng với cái dương vật, để bôi nhọ
thiền Phật giáo: "Dương vật trở thành cây thiền trượng cắm sâu
xuống mặt đất, phần trên còn ngỏng cao thấu trời xanh" (I. 63,
d.30-1) hay tục tằn hơn: "ngồi tham thiền bên trong dương vật"
(I. 64, d.11). Ông Phan Thiết biếm nhẻ công khai hơn: "Thiền trượng
hay núi Tu-Di là biểu tượng dương vật của thần Siva ở trạng thái phải
cương cứng, ngỏng cao" (I. 64, d.16-7). Rồi ông Phan Thiết còn viết
bậy bạ hơn "hệ thống nhất nguyên . . . của học giả đạo Phật
sau này" là lấy từ "dương vật của thần Siva hai mặt"
(I. 64, d.22-5). Ông Phan Thiết còn cho "niết bàn là đường dục vọng
và hủy diệt tức giải thoát" (I. 64, d.22) để lạc dẫn người đọc
rằng con đường hướng đến niết-bàn của Phật giáo là con đường dục
vọng và giải thoát khổ đau là hủy diệt chính mình. Đánh đồng dương
vật với thiền trượng, giao dâm với thiền hành, ông Phan Thiết viết bậy
bạ như sau để bôi nhọ Phật giáo: "thiền trượng [dương vật]
của ta chỉ thiền hành [giao hợp] trong thung lũng tình yêu [nữ
căn] của nữ thần kiều diễm Parvati" (I. 65, d.2-3). Hay cụ thể
hơn ông Phan Thiết viết cảnh giao dâm giữa dương vật và nữ căn thành
"cảnh thiền hành giữa linga [dương vật] và yoni [nữ căn]
của thần Siva" (I. 66, d.29). Rồi ông thô thiển hơn khi gán ghép
bậy cảnh ân ái của Siva và Parvati do ông hoang tưởng thành "lý
thuyết hóa thân của chư Phật và bồ-tát sau này" (I. 66, d.16-7).
Và còn hàng trăm sai lầm và tục tĩu khác nữa v.v. . . Quả thật là kém
trí thức!
Ông Phan Thiết ngang nhiên vu khống, xuyên tạc, nhục mạ
các vị cao tăng và tu sĩ Phật giáo một cách vô cớ. Ông bảo đức Dalai
Lama vi phạm ba-la-di, do tán đồng luật "Euthanasia" (tức tiêm thuốc
cho người bệnh nan y chết, để tránh đau đớn về thân xác cho bệnh
nhân) mà ông không dẫn ra được bằng chứng nào (I. 164, d.8-11). Ông tỏ
ra xấc láu khi chửi Hòa thượng Trí Quang "là ác tăng, quỉ tăng thi
hành kế quỉ cho tà đạo" (I. 167, d.29) và gán ghép Hòa thượng
"tham sân si đến cỡ nào ‘cả gan’ phạm tội vọng ngữ, lưỡng
thiệt trắng trợn" (I. 167, d.4-5) chỉ vì Hòa thượng dám nói lên sự
thật về việc chính phủ Ky-tô giáo của Ngô Đình Diệm cấm Phật tử Việt
Nam làm lễ Phật đản năm 1963. Ông Phan Thiết tỏ ra vô giáo dục khi gọi
Hòa thượng Nhất Hạnh là "bất lương . . . vừa sân vừa cố tình
si che dấu cái bụng tham" (I. 165, d.11-2) hay "bất lương bẻ
cong lịch sử, ăn gian nói dối" (I. 166, d. 1-2) và "tên phù thủy
thi hành tà đạo" (I. 168, d.9) chỉ vì Hòa thượng dám tố cáo ách
thống trị bất công của chính thể Ky-tô giáo Ngô Đình Diệm. Ông Phan
Thiết khinh chê Hòa thượng Minh Châu là "dốt" chỉ vì Hòa thượng
gọi Phật Thích-ca bằng từ Blessed One và Lord Buddha (I. 162, d.16-7). Ông Phan
Thiết vu khống Thượng tọa Tuệ Sỹ thêm thắt một đoạn văn trong khi dịch
quyển The Essentials of Buddhist Philosophy, "Các Tông Phái của Đạo
Phật," chỉ vì Thượng tọa dịch quá chuẩn xác (I. 161-2). Ngoài
ra, ông Phan Thiết còn vu khống Thượng toạ Huyền Diệu làm "trưởng
ban ám sát Hòa thượng Tâm Châu" (II. 15, d.31-2) để gây chia rẽ sự
hòa hợp của tăng đoàn Phật giáo. Và còn nhiều xuyên tạc khác nữa v.v.
. .
Với hàng trăm nhầm lẫn, sai lạc về thuật ngữ, giáo nghĩa
căn bản của Phật giáo, cộng thêm nhiều bịa đặt, thêm bớt tùy tiện
trong khi dịch, với một mớ kiến thức tôn giáo và triết học Ấn Độ tào
tạp, chấp vá, cóp-pi thiếu chuẩn xác và hàng loạt lời lẽ ngụy biện,
ba phải, mâu thuẫn trước sau, như được chứng minh trong tập nhận định
này, mà ông Phan Thiết lại kiêu căng, tự phụ, khi cho mình là một
"tam tạng hiện đại" hơn hẳn các tam tạng Phật giáo trong quá khứ
(II. 13-4), khinh khi quần chúng Phật tử là "các đồng bào thấp bé
trong đạo Phật" (II. 157, d.11) và đại ngôn hơn khi ông gọi dân tộc
Việt Nam là "các đồng bào thấp kém" (II. 163, d.5) thì quả
thật ông xứng đáng để tự xưng mình là một con "cóc" (II. 157,
d.1), một con cóc dưới đáy giếng, ngẩng cao đầu, miệng há to, kêu oang
oảng, tự hào rằng "ta là số một trên đời, ta đã thấy được toàn
thể bầu trời" mà thật chất nó chỉ nhìn thấy được một bầu trời
vô cùng giới hạn qua miệng giếng chưa đầy hai thước.
Chandigarh, Ấn Độ, mùng
4, tết Canh Thìn 2000
Thích Nhật Từ
Cẩn bút
[Lời giới
thiệu] chương | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 |
|
|