Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
PHÊ BÌNH
KÝ SỰ HÀNH HƯƠNG ĐẤT PHẬT
Của PHAN THIẾT (NGUYỄN KIM KHÁNH)
Thích Nhật Từ

Chương I

Các Sai Lầm Căn Bản về Thuật Ngữ
và Giáo Lý Phật Giáo

I. Các Sai Lầm về Phiên A⭠và Dịch Nghĩa Thuật Ngữ Phật Học

Trong Hành Hương Đất Phật, có rất nhiều sai lầm về thuật ngữ Phật học được ông Phan Thiết cóp-pi từ các tác phẩm viết sai về Phật giáo. Các sai lầm nầy có thể chia thành ba nhóm chính, theo ngôn ngữ mà nó bắt nguồn, đó là, sai lầm về thuật ngữ Hán Việt, sai lầm về thuật ngữ Paali, và sai lầm về thuật ngữ Sanskrit. Bên cạnh hàng loạt các sai lầm về các thuật ngữ Phật học bằng các thứ tiếng Hán Việt, Paali và Sanskrit, ông còn vấp phải các sai lầm về thuật ngữ Phật học bằng tiếng Anh, tiếng Thái, và ngay cả thuật ngữ của đạo Bà-la-môn. Có vài trường hợp, cùng một thuật ngữ, có chỗ ông viết đúng và ở chỗ khác, ông viết sai. Chẳng hạn, thuật ngữ "sammaa" của tiếng Paali, ở trang 114, khi viết về bát chánh đạo, ông đã cóp-pi đúng, nhưng trước đó, ở trang 103 (d.8) ông chỉ ghi là "samma" trong cụm từ "samma-samadhi," vì ông nghĩ rằng "đây là hai từ khác nhau"!

Dưới đây, xin nêu ra một số trường hợp tiêu biểu (nghĩa là còn nhiều nữa) cho thấy ông Phan Thiết không nắm vững các thuật ngữ Phật học, hoặc cố tình diễn dịch sai, để lạc dẫn người đọc. Người viết chỉ liệt kê đơn thuần các điểm ông Phan Thiết viết sai, và đồng thời liệt kê các cách viết đúng, để bạn đọc đối chiếu. Các sai lầm về thuật ngữ khác không nêu ra hết ở đây, vì có thể làm bạn đọc chán ngán. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ nêu ra trong các phần viết nhận định về từng chương của hai tập Hành Hương Đất Phật.

Các Thuật Ngữ Sanskrit và Paali

1. Ca-diếp Ma-đằng trong tiếng Phạn là "Kaa'syapa Maata"nga" mà ông Phan Thiết viết sai thành "Kacyapa Matanga" và Trúc Pháp Lan là Gobhara.na Dharmaratna ông viết sai thành "Dharma-Aranya" (I. 39, d.16-7).

2. "Prajana Paramita" viết đúng là "Praj~naa Paaramitaa" thường được phiên âm là "Bát-nhã Ba-la-mật" ông Phan Thiết viết sai thành "bát-nhã tâm kinh" (I. 52).

3. "Jetavana" có nghĩa là vườn (vana) Kỳ-đà (Jeta), hay gọi tắt là Kỳ viên, ông Phan Thiết ghi sai thành "vườn Cấp-cô-độc" mặc dù vườn này do Cấp Cô Độc mua cúng Phật (I. 53, d.9-10).

4. Kinh Kim Cang nói đủ là Năng Đoạn Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, tiếng Sanskrit viết là Vajracchedika Praj~napaaramitaa Suutra, ông Phan Thiết viết sai thành "Vaja-Prajna-Paramita sutra) (53, d.16).

5. "Chandogya Upanishad" ông Phan Thiết viết sai trật tự thành "Upanishad chandogya" và "Swasanved Upanishad" thành "Upanishad swasanved" (I. 53, d.5-6; 95, d. 19, 21).

6. Về tên của lục sư ngoại đạo, ông Phan Thiết đã viết sai tên ông Go'saaliiputra thành Gosaleputra (I.73, d.19) và San~njayii Vairatiiputra thành Sanjaya Vairatitra (I.73, d.23).

7. "Charvaka" viết đúng là Caarvaaka, có nghĩa là người chủ trương hay theo chủ nghĩa duy vật, ông Phan Thiết hiểu sai thành "kẻ vô thần" (I. 96).

8. Chữ "tam muội" là dịch âm của từ samaadhi có nghĩa là định, ông Phan Thiết giải thích sai lệch thành "sản phẩm của trí tưởng tượng" (I. 80, d.7). Ông lý giải sai lệch như sau: "Phạn ngữ viết ‘samâdhi’tức là một vị Phật không có thật, chỉ do trí óc thiền định bịa đặt ra" (I. 80).

9. Phật Tỳ-ba?hi (Vipassii) ông Phan Thiết viết sai thành "Tỳ--thi" (Vipassin). Phật Thi-khí (Sikhii), ông Phan Thiết viết sai thành Phật Thi-khi (Sikhin). Phật Tỳ-xá-bà (Vessabhuu), ông Phan Thiết viết sai thành "Vassbhu." Phật Câu-na-hàm (Ko.naagama), ông Phan Thiết viết sai thành "Konagamana." (I. 101, d.18-22).

10. Mahavagga có nghĩa là "đại phẩm" mà ông Phan Thiết viết sai thành "Kinh Phạm Võng" (I. 7, d.8).

11. Ca-diếp trong tiếng Sanskrit là "Kaa'syapa" tiếng Paali là "Kassapa" mà ông Phan Thiết viết sai thành "Kacyapa" (I. 7, d.12).

12. Đại ngã Brahman mà ông dịch sai thành "cõi cực lạc" (I. 8, d.6).

13. Thế Thân là Vasubandhu mà ông Phan Thiết viết sai thành "Vasubandha" (I. 78, d.10).

14. Cưu-ma-la-thập là "Kumaarajiiva" mà ông Phan Thiết viết sai thành "Kumarajva" (I. 78, d.14).

15. Bồ-đề-lưu-chi là chữ phiên âm từ tiếng Sanskrit "Bodhiruci"mà ông viết là "Bodhigosha" (I. 125, d.10), có nghĩa là Giác Âm.

16. Ông Phan Thiết không phân biệt được sự khác nhau giữa các kinh "Nikaaya" và kinh A-hàm (Aagama): Kinh A-hàm là bản dịch chữ Hán từ tiếng Sanskrit, Kinh Nikaaya được viết bằng Paali. Trường A-hàm là "Diirghaagama" được ông viết lầm thành "Digha Nikaya" [có nghĩa là "Diighanikaaya, Trường Bộ Kinh], Trung A-Hàm Maadhyamaagama, được ông viết lầm thành "Mauhima Nikaya" [Majjhimanikaaya, có nghĩa là Trung Bộ Kinh], Tăng Nhất A-hàmEkottarikaagama, được ông viết lầm thành "Anguttara Nikaya" [A"nguttara-Nikaaya, Tăng Chi Bộ Kinh], Tạp A-hàm là Sa"myuktaagama, được ông viết nhầm thành "Samutta [thiếu Nikaya]," [Sa"myuttanikaaya, Tương Ưng Bộ Kinh], và Tiểu Bộ Kinh được ông ghi thành "Tiểu A-hàm" và phiên âm sai từ "Khuddaka-Nikaaya" thành "Khauddhaka nikaya." Cần ghi chú thêm, trong hệ A-hàm chỉ có 4 bộ thôi, không có bộ thứ năm mang tên là "Tiểu A-hàm." Ông Phan Thiết đã phịa ra thêm bộ này, cho tương ứng với "Tiểu Bộ Kinh" của kinh điển Paali. (I. 51, d.16-22).

17. "Vinaya Pitaka" có nghĩa là "luật tạng" hay kho tàng nguyên tắc đạo đức" mà ông Phan Thiết ghi nhầm là "Kinh luận" (II. 89, d.2, 31).

18. "Amitaabha" thường được phiên âm là A-di-đà mà ông Phan Thiết viết thiếu thành "Di Đà" (I. 41, d. 23-4), có nghĩa ngược hoàn toàn với A-di-đà.

19. Nhất thiết hữu bộ tiếng Sanskrit viết là Sarvaastivaada, ông Phan Thiết viết sai thành "Saravàstiva?uot; (I. 49, d.5).

20. Về phương diện từ nguyên, chữ "Upanishad" [Upani.sad] được kết hợp bằng 3 thành tố upa, ni sad, và có nghĩa là "ngồi xuống gần bên" (sitting down near). Nó hoàn toàn không có nghĩa "ngồi gần đấng minh sư, nhờ minh sư mà biết được chân lý" (I. 73, d.2-3), như ông Phan Thiết viết.

21. Vua Milinda chính là vua "Menander" ông Phan Thiết viết sai thành "Memander" (I. 76, d.8). Kế đến Menander không phải là vua "Indo-Greek" (I. 76, d.8, 15) mà là "Bactrian Greek"

22. Ông bảo chữ "độ" trong chữ Phạn là "paramitas" và cho chữ này có nghĩa "kẻ đưa đò qua sông" (I. 134, d.8). Thực ra, chữ "s" trong từ "paramitas" là hình thức English hóa theo kiểu số nhiều của danh từ, chứ không có trong chữ Phạn. Do đó, chữ độ trong chữ Phạn chỉ là "paaramitaa" không có "s" số nhiều đi sau. Chữ này vốn chỉ có nghĩa là "toàn hảo" hay "tuyệt hảo" chỉ cho phương pháp thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi, hoàn toàn không có nghĩa "kẻ đưa đò qua sông."

23. Từ "nastik" viết đúng phải là "nastika" và không hề có nghĩa đen là "vô thần" (I. 184, d.6) như ông Phan Thiết đã sai lầm. Trong văn học triết học Ấn Độ, nó có nghĩa là "người không tin vào tính thẩm quyền của kinh điển Veda" (one who does not believe in the authority of the Veda). Nó được dùng với nghĩa "phi chính thống" (heterodox), để ám chỉ cho 2 trường phái triết học Miimaa"msaa, Saa.nkhya, v.v. . .

24. Kinh Hoa Nghiêm, tiếng Sanskrit viết là "Avata"msaka-Suutra," ông Phan Thiết viết nhầm thành "Avarasmaka" (II. 116, d.12).

25. Kinh Duy-ma-cật, tiếng Sanskrit viết là "Vimalakiirtinirde'sa-Suutra" ông Phan Thiết ghi nhầm thành "Vimalakertimidesa" (II. 116, d.12).

26. "Karma-yoga" trong Ấn giáo có nghĩa là "thực hành lợi người không ích kỷ" (the practice of unselfish altruism), ông Phan Thiết ghi là "hành động vì hành động" (II. 119, 22-3).

27. Núi Linh Thứu, tiếng Sanskrit viết là G.rdhrakuu.ta (P. Gijjhakuu.ta), chứ không viết là "Grudhakuta" (II. 20, d.19).

Các Thuật Ngữ Hán Việt

1. Phật Tỳ-ba?hi mà ông Phan Thiết viết trật thành Tỳ-ba?hi, tiếng Paali viết là Vipassii mà ông viết sai thành "Vipacyi" (I. 7, d.12).

2. Quả "-đà-hàm" ông viết sai thành "tu-đà-hàm" (I. 16, d.17).

3. Áo nghĩa thư mà ông viết sai thành Ảo nghĩa thư (I. 22, d.26).

4. Mệnh đề "Tôi nghe như vầy" tiếng Hán Việt viết là "Như thị ngã văn," ông Phan Thiết viết sai thành "chúng thị ngã văn" (I. 34, d.7; 192, d.6; II. 62, d.21-2).

5. Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyo), là ấn bản về toàn bộ kinh điển Phật giáo, khoảng 100 tập khổ A-4, mỗi tập chiếm từ 750 đến 1000 trang, mà ông gọi là một "trung tâm" (I. 41, d. 13).

6. Ông Phan Thiết đã viết sai một thuật ngữ phiên âm chữ Hán Việt từ thuật ngữ Paali: "Samma-Sambodhi (Ta dịch là Tam-miêu Tam-bồ-đề)" (I. 103, d.8). Thuật ngữ Paali "Sammaa-Sambodhi" này được người Trung Quốc "phiên âm" mà không dịch nghĩa, (khác với dịch, vì dịch hiểu nôm na là dịch nghĩa) thành "Tam-miệu Tam-bồ-đề" chứ không phải Tam-miêu Tam-bồ-đề.

7. Để diễn tả chữ "tông phái", ông Phan Thiết đã dùng từ "Phật." Thay vì viết là Phật giáo Nguyên thủy, ông viết "Phật Nguyên Thủy" và Phật giáo đại thừa, ông viết thành "Phật Đại Thừa" (I. 77, d.5, 18; 86, d.21; 91, d.14; 103, d.22; 136, d.1, 4, 26; 137, d.17, v.v. . .)

8. Thập Nhị Môn Luận được ông Phan Thiết viết sai thành "Thập-nhị-luận" (I.78, d.5).

9. Thân tâm thường an lạc nghĩa là thân và tâm luôn trong trạng thái an vui và hạnh phúc, mà ông viết là "Thanh tâm thường an lạc" (I. 99, d.9; 123, d.18; 199, d.18), có nghĩa là "lòng xanh hay lòng sạch (thanh tâm) thường an lạc."

10. "Diệt đế" trong Tứ diệu đế có nghĩa là "chân lý về sự hết sạch các đau khổ (diệt = niết-bàn) mà ông định nghĩa là "cắt dục" (I. 113, d.14), tức cắt bỏ ý chí hành động.

11. Thay vì là "vô trí" tức "trí tuệ không học từ thầy" ông viết nhầm thành "vô-sự-trí" (I. 132, d. 13), tức trí tuệ không có sự việc.

12. Vì không biết bốn yếu tố (bốn đại) là 4 phần thuộc về tổ hợp sắc thân (sắc uẩn) nên ông Phan Thiết viết "hoặc tứ đại cộng với ngũ uẩn cho các loài hữu tình" (I. 137, d.24). Ngũ uẩn hay năm tổ hợp nhân tính đã đủ để diễn tả cho các chúng sanh có sự sống, không cần phải nói dư bốn đại.

13. Ỷ ngữ có nghĩa là lời nói thêu dệt, lời bôm phồng, mà ông ghi nhầm thành "nói ba láp" (I. 142, d.31).

14. Một trong ba nguyên tắc đạo đức của người Phật tử theo lời Phật dạy là "thực hiện tất cả các điều thiện" (chúng thiện phụng hành), ông ghi sai thành "chung thiện phùng hành" (I. 142, d.18).

15. Ông Phan Thiết đặt ra thêm một quả vị mới, quả vị "giác-duyên" vào kinh điển Phật giáo: "Danh từ nhà Phật gọi là quả: quả tu-đà-hoàn, tu-đà-hàm, la-hán, giác duyên" (I. 142, d. 14). Có lẽ quả "giác-duyên" này ông cóp-pi từ nhân vật sư Giác Duyên trong truyện Kiều của Nguyễn Du quá! Trong câu trên, ông còn viết nhầm lẫn quả Tư-đà-hàm (P. saka.daagaamii, S. sak.r.daagaami) thành "Tu-đà-hàm," và A-la-hán (P. Arahat, S. Arhat) thành la-hán. Nên nhớ, la-hán có nghĩa ngược hoàn toàn với A-la-hán. Sự lầm lẫn này cũng tái xuất hiện: "giác-duyên" (I. 189, d.22), "La-hán" (I. 34, d.4; 142, d.14; II.31, d.26), và do không biết chữ "s" sau chữ "Arhat" là hình thức Anh hóa cho số nhiều, nên ông Phan Thiết đã viết kèm theo trong ngoặc kép "Arhats" như thể một từ gốc.

16. "Trung bộ" mà ông cho đồng nghĩa với "Trung đạo" (I. 157, d.20), hay "Thật ra chữ này trong Phật học gọi là trung đạo" [sic] (I. 159, d.1-2). Từ trung bộ trong văn học Phật giáo bằng chữ Hán Việt chỉ có nghĩa là "tuyển tập (bộ) các bài kinh trung bình [về chiều dài]." Giả sử ông Phan Thiết có tự chế ra nghĩa chữ "trung bộ" theo nghĩa, tông phái "đối lại hữu bộ và không bộ" (I. 159, d.1) thì chữ "trung đạo" là con đường vượt lên trên các thái cực và nhị nguyên, cũng không thể đồng nghĩa với "tông phái chủ trương con đường này" được.

17. Ông Phan Thiết đồng hóa "Phật" với những "lời của Phật dạy" làm một. Ông bảo "Phật là Pháp hay đảo ngược lại Pháp là Phật" (I. 157, d.5).

18. Phật Vipassii (S. Vipa'syin) mà ông viết là "Vipacyi" (I. 180, d.14). Tên của đức Phật này thường được phiên âm là Tỳ-ba?hi, ông Phan Thiết viết nhầm là "Tỳ--thi" (I. 180, d.14, 18-20, 22). Vườn Nai là "Lộc dã" mà ông viết nhầm thành "vườn Lộc-giả" (I. 180, d.20).

19. Ông Phan Thiết nhầm lẫn chữ Vô Trước thành "Vô Trứ" (II. 6, d.18). Tên ngài bằng tiếng Sanskrit là Asa"nga, chứ không phải là "Assangha" (II. 6, d.18).

Các Thuật Ngữ Khác

1. "Phra Chao Sip Chat" có nghĩa là "mười đời trước của Phật Thích-ca" chứ không phải là "Mười thân Phật tổ" (I. 37, d12-3).

2. "Cogito ergo sum" là tiếng Latin có nghĩa là "tôi tư duy, nên tôi hiện hữu" (I think therefore I am) mà ông Phan Thiết dịch sai thành "ngã ta có thật, ngã ta bất khả diệt" (I. 15, d.11-2).

II. Các Sai Lầm Căn Bản về Phật Học

1. "Đúng ra lúc đầu giới luật chỉ áp dụng cho những ai gia nhập tăng già vì giới luật là qui luật của tăng già áp dụng cho các người xuất gia (tỳ-kheo). Sau khi Phật nhập diệt, mối đạo bành trướng dưới triều đại Asoka, giới luật nới rộng ra cho cả kẻ không xuất gia với chiết giảm ít nhiều. Giới luật cho tỳ-kheo nam và nữ khác nhau và có khoảng 250 điều. Ưu bà tắt, ưu bà di (không xuất gia) chỉ cần giữ ngũ giới, Sa-di (tu tập) giữ 8 giới" (tr. 143, d.6-13). Thực ra, ngay khi Phật còn sống, giới luật Phật giáo chia làm 2 loại: loại dành cho người tu và loại dành cho người tại gia, có gia đình. Giới cho các vị tỳ-kheo là 250 giới và 348 giới cho tỳ-kheo ni, giới cho sa-di là 10, giới cho cư sĩ tại gia là 5 giới và 8 giới.

2. Ông Phan Thiết nhầm lẫn và không phân biệt được Phật Pháp Tăng, khi ông cho rằng Phật và Tăng chính là Pháp: "Phật Tổ và tăng già theo Phật đều là những "pháp" [sic] đã giải thoát" (tr. 144, d.26).

3. Nhầm lẫn khái niệm "cứu độ" của Phật giáo với khái niệm "cứu chuộc" của Ky-tô giáo : "Phật không cứu độ ai. Phật chỉ đường cho chúng sanh tự tu mà ra khỏi sanh tử luân hồi" (tr. 145, d.4-5). Câu một và câu hai hoàn toàn mâu thuẫn nhau. Bởi lẽ, trong tinh thần của đạo Phật, "chỉ đường cho chúng sanh tự tu mà ra khỏi sinh tử luân hồi" là cách "cứu độ" nhân bản nhất và thật tế nhất.

4. Vì không biết được tinh thần độ sanh của Phật giáo nguyên thủy nên ông Phan Thiết viết rằng tinh thần "giác tha" chỉ mới xuất hiện vào thời của Phật giáo đại thừa. Ông viết như sau: "Giáo lý tự tu, tự giác của Phật Tổ từ đây [thời điểm ra đời của Phật giáo đại thừa] có bước ngoặc giác tha" (I. 144, d.24-5). Nếu ông Phan Thiết biết rằng bài kệ bốn dòng mà ông trích ở trang 142 của tập I, dạy tất cả mọi người (giác tha) về tinh yếu đạo đức của đức Phật "không làm các hành vi xấu ác, thực hiện tất cả những điều thiện và đạo đức, thanh tịnh tâm tư của mình, đây là lời dạy của Phật" (Kinh Pháp Cú, kệ 183) là một trong các bài kệ quan trọng và phổ biến nhất của Phật giáo nguyên thủy về tinh thần giáo dục và giác ngộ nhân loại, thì có lẽ ông đã không phát biểu ngớ ngẫn như thế. Nguyên tác Paali của bài kệ ấy như sau: Sabbapaapassa akarana"m / Kusalassa upasampadaa / Sacittapariyodapana"m / Eta"m buddhaana saasana"m //.

5. Ông Phan Thiết không phân biệt được ai là Phật và ai là bồ-tát trong văn học Phật giáo đại thừa, nên ghi rằng Phật A-di-đà cũng là một vị bồ-tát: "các đức Phật từ chối vào niết-bàn để làm Bồ-tát độ sinh như Địa Tạng, Quán Âm, A-di-đà" (tr. 145, d.24-5). Kế đến, ông còn sai lầm vì nghĩ rằng niết-bàn là một hành tinh của các đức Phật "cõi niết-bàn" (tr. 145, d.27), nên mới viết là "vào niết-bàn," thay vì chứng được niết-bàn. Kế đến, văn học Phật giáo đại thừa không hề ghi "các đức Phật từ chối vào niết bàn" mà chỉ ghi các vị Bồ-tát không vội chứng niết-bàn cứu cánh như các đức Phật, tình nguyện dấn thân vào cuộc đời khổ đau, để cứu độ chúng sanh đau khổ. Cũng cần nói thêm rằng, các vị Bồ-tát đã đạt quả bất thối chuyển, nghĩa là không bao giờ bị tha hóa, hay lui sụt trên con đường giác ngộ mà các ngài đã đạt. Xin nêu một ví dụ cho dễ hiểu. Sự kiện các vị Bồ-tát không vội tu chứng quả Phật, phát nguyện độ chúng sanh đang chịu nhiều đau khổ cũng giống như một vị sinh viên đã tốt nghiệp cao học (MA, MSc, MEd., v.v. . .) nhưng không vội đăng ký học tiến sĩ (Ph.D, Dlitt, v.v. . .), tình nguyện vào các lớp tiểu trung học và cử nhân v.v… để giúp cho các học sinh và sinh viên tiến triển về kiến thức như mình vậy.

6. Ông Phan Thiết cho rằng trong kinh điển của Phật giáo nguyên thủy và tiểu thừa không hề đề cập đến hai đức tính đạo đức quan trọng là "từ" và "bi." Sở dĩ ông cả quyết sai lầm như vậy là vì theo ông "Trong Bát Chánh Đạo của Phật Tổ, tôi không thấy Ngài đề cập gì đến chữ nhân hay lòng thương xót" (tr. 146). Rồi ông gán ghép cho Phật giáo đại thừa "thêm vào Đại Từ, Đại Bi để chủ trương sự cứu độ của chư Phật là vô bờ bến" [sic] (tr. 146). Sai lầm căn bản này là kết quả của một thái độ nghiên cứu thiếu nghiêm túc, không hề đọc văn bản Paali và Sanskrit của Phật giáo, và cũng không hề đọc các bản dịch tiếng Anh của Hội Thánh Điển Paali (Paali Text Society) mà cả thế giới đều biết, nên mới viết liều lĩnh như vậy. Bát chánh đạo là một phần trong bài kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkapavattana Sutta). Đây là bài kinh giới thiệu về thực tại đau khổ của con người và con đường chấm dứt vĩnh viễn các đau khổ đó. Trong một bài kinh đức Phật không thể giới thiệu hết tất cả các học thuyết mới khám phá của Ngài. Mỗi học thuyết thường được giới thiệu trong mỗi bài kinh riêng. Điều này sẽ dễ hơn nếu ông chịu khó đặt câu hỏi "tại sao các sách giáo khoa cho các học sinh lớp một trên thế giới không có quyển nào nói về hình học không gian, vật lý, hóa học, nguyên tử học v.v… cả? Lẽ ra các nhà giáo dục phải giới thiệu hết những thứ này vào sách giáo khoa cho các học sinh chứ!" Các đức tính đạo đức cao thượng như từ và bi được đức Phật giới thiệu trong nhiều bài kinh khác. Một trong những bài kinh căn bản giới thiệu về từ và bi là Kinh Từ Bi (Karaniya Metta Sutta) hay (Metta Sutta). Cũng cần nói thêm rằng từ và bi là hai trong bốn trạng thái cao thượng của tâm, mà thuật ngữ Phật học bằng Hán Việt thường gọi là "tứ phạm trú" hay "tứ vô lượng tâm." Bốn tâm cao thượng này là (1) tâm từ (P. mettaa, S. maitrii, loving kindness), (2) tâm bi (P. = S. karu.naa, compassion), (3) tâm hỷ (P. = S. muditaa, sympathetic joy, altruistic joy), (4) tâm xả (P. upekkhaa, S. upek.saa, equanimity). Bốn tâm cao thượng này được Phật nói trong các kinh sau: M. I. 38, 297; M. II. 76, 195, 207, M. III. 146; S. IV. 296; A. V. 299, 344. Nếu ông Phan Thiết muốn nghiên cứu thật sự, ông có thể tìm đọc ba tác phẩm mang tính giới thiệu sau đây: (1) ~Nnaamoli, Bhikkhu., The Practice of Loving Kindness. (Kandy: Buddhist Publication Society, Wheel 7, 1987), (2) Nyanaponika Thera., The Four Sublime States. (Kandy: Buddhist Publication Society, Wheel 6, 1993), (3) Narada Thera., Brahma Vihaara. (Colombo: Vajirarama, 1962). Người viết tin rằng nếu ông Phan Thiết là người có tinh thần của người nghiên cứu thực sự, khi đọc vào các bài kinh nói về từ và bi được giới thiệu bên trên, thì ông phải cảm thấy hổ thẹn nhiều lắm về các kết luận chụp mũ sai lầm của ông về đức Phật và đạo Phật.


[Lời giới thiệu] chương | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 |

 


Cập nhật: 27-4-2000

Trở về thư mục "Điểm sách"

Đầu trang