...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- PHÊ BÌNH
KÝ SỰ HÀNH HƯƠNG ĐẤT PHẬT
- Thích Nhật Từ
- Chương X
- Lịch Sử Không Phải
Là các Mệnh Đề
- Bắt Đầu Bằng "Suy Nghĩ, Suy Đoán hay Quan
Điểm . . ."
I. Các Nhầm Lẫn Sơ Đẳng về
Thuật Ngữ
Trước khi nói về quan niệm
lịch sử "sai lệch" của ông Phan Thiết, xin lược qua các nhầm lẫn
sơ đẳng của ông Phan Thiết về các thuật ngữ.
Thứ nhất, trong đạo Phật không có vị Phật nào tên là
"Phật Di-đà" (II. 73, d.24) mà chỉ có Phật A-di-đà." Thứ hai,
"Trung A-hàm" không phải là "kinh luận" (II. 76, d.2, 25) mà
là "bộ kinh." Thứ ba, nói về kinh Paali thì không có kinh Paali nào
mang tên là "Trung A-hàm" mà chỉ có "Trung Bộ Kinh." Thứ tư,
"Mahàvagga" không có nghĩa là "Luật tạng" (II. 76, d.2, 26)
hay "Kinh Phạm Võng" (I.7, d.8), mà chỉ có nghĩa là "Đại Phẩm."
Thứ năm, "Cullavagga" có nghĩa là "Tiểu Phẩm" chứ không
phải là "Tiểu luật tạng" (II. 83, d.21). Thứ sáu, trong Paali và
Sanskrit, Cấp Cô Độc không bao giời viết là "Sudatta Anathepindika"
(II. 79, d.23), mà là Anaathapi.n.dika. Thứ bảy, sa-môn trong tiếng Phạn
không phải là "scramana" (II.81, d.21) mà là "'srama.na"
(P. sama.na). Thứ tám, "Cunda" tiếng Hán Việt phiên âm là "Thuần-đa?uot;
chứ không phải là "Thuần-đa" (II. 86, d.20). Thứ chín,
"ba-la-di" chỉ có 4 giới khoản, tức 4 giới đầu (mặc dù trật tự
có thay đổi) của 5 giới, cho nên câu sau đây là viết sai "trục xuất
các tì-kheo phạm ngũ giới" (II. 82-3). Thứ mười, ba-la-đề-xá-ni
mà viết thành "ba-la-đề-xá-nị" (II. 83, d.1) là trật. Thứ
mười một, "Sekhiya" [S. 'saik.sa dharma] không phải nói về "qui
tắc xử thế" mà về "oai nghi tế hạnh" (II. 83, d.2) tức oai
nghi và phong cách đi đứng nằm ngồi của một tu sĩ tì-kheo. Số giới khoản
theo luật Paali là 227 cho tì-kheo chứ không phải là "226"
(II. 83, d.3). Thứ mười hai, ước đoán "Toàn bộ sinh hoạt của các
tì-kheo chỉ gồm có giới luật, kinh điển lúc đầu cũng là giới luật"
(II. 83, d.4-5) là quá sai lệch. Sinh hoạt của tì-kheo ngoài giới luật còn
thiền định, quán chiếu, nghe Phật và các vị thánh tăng giảng kinh, truyền
giảng lại những gì mình học được cho quần chúng v.v. . . Kinh điển lúc
đầu bao gồm "dhamma" tức toàn bộ triết lý đạo đức của
Phật và "vinaya" tức hệ thống luật lệ đạo đức cho người
tu sĩ Phật giáo.
II. Lịch Sử Không Phải Là các Mệnh Đề "Tôi Nghĩ"
(II. 77-8)
"Tôi nghĩ không phải vì Phật
nhận bát cơm sữa của nàng Sujata nên các bạn khác bất mãn mà bỏ Ngài.
Cuộc chia tay chắc được Phật và năm vị thảo luận với nhau trước
trong một chương trình hoằng pháp tại thủ đô tôn giáo của Ấn Độ tức
thành Ba-la-nại. Tại đây, các vị sẽ thành lập và ra mắt tổ chức
[sic] sau này gọi là tăng già (sangha) hay giáo đoàn. Có như vậy
mới lý giải tại sao Phật biết năm người bạn ở Isipatana và cất công
đi bộ tới các vị ấy. Việc trên không phải là ngẫu nhiên mà có sắp
đặt trước" (II. 77).
Quả là một lối ngụy biện: nếu
có sắp đặt trước, mắc mớ gì Phật phải "rời vị trí tu hành xa
đến 200 cây số" thay vì ở chung với nhau mới dễ tính toán và sắp
đặt chứ! Kế đến, ông bảo đức Phật chỉ nhắm đến thành phần
giàu có và trí thức (II. 77), mà cố quên đi rằng đệ tử của các thành
phần khác trong xã hội cũng không thiếu gì, và thậm chí còn nhiều hơn nữa.
Đức Phật nhận ba anh em Ca-diếp làm đệ tử mà ông bảo là kết giao
(II.77) rồi cũng chính ông thừa nhận "Họ cùng với chúng đệ tử qui
y với Phật và nhận Phật làm thủ lãnh" (II.77). Quả là trước
sau bất nhất. Cũng với mệnh đề "tôi nghĩ" đó, ông Phan Thiết
bảo "Các tân tì-kheo bỗng chốc trở thành A-la-hán" là "chứng
ngộ tập thể đáng ngờ" (II. 78, d.2-3). Và ôi thôi còn nhiều kiểu
"tôi nghĩ" dị hợm khác nữa.
Điều cần nói ở đây là lịch sử không bao giờ bắt đầu
bằng các mệnh đề "tôi nghĩ" hay "chắc." Những điều
ông Phan Thiết nghĩ chỉ đúng trong trí tưởng tượng của ông, trong việc
tô đen lịch sử, chứ lịch sử thật thì không như vậy.
III. Lịch Sử Không Là các Mệnh Đề Chứa "Đức
Tin," "Suy Đoán" và "Quan Điểm"
Với chiêu bài gán ghép đức Phật cậy quyền dựa thế,
nhúng tay vào chính trị, để phủ nhận giá trị lịch sử của sự giáo
hóa quần chúng của Phật từ tình thương và trí tuệ bao la, ông Phan Thiết
viết: "Kinh điển Paali ghi rằng đức Phật đã giáo hóa vua Tần-bà-sa-la
bằng Phật pháp. Tôi không tin chuyện đó, kẻ làm vua là quyền lực,
an nguy của ngai vàng chứ không phải đạo lý" (II.78) theo kiểu suy bụng
(nhỏ nhen) của mình (tham quyền cố vị) ra bụng (cao thượng, vật chất
không quan trọng, đạo đức và đời sống tâm linh có giá trị hơn) của
người. Ông viết thêm: "Tôi nghi ngờ vấn đề có ẩn dấu
chính trị" (II.79), theo kiểu chính trị rẻ tiền của ông. Ông viết bậy
bạ: "Ta suy đoán rằng nhà vua lo hậu họa phát xuất do nội bộ
tăng già [sic]: Phật Tổ ủng hộ [sic] vua Tần-bà-sa-la, Đề-bà-đạt-đa
ủng hộ A-xà-thế. Cuộc cờ có thể trở ngược nên A-xà-thế ra tay trước
với cha mình" (II. 79). Nhưng nếu ông Phan Thiết có chút ít kiến thức
về lịch sử được ghi nhận trong kinh Paali của Phật giáo và Prakrit của
Kỳ-na giáo rằng A-xà-thế đã hối hận việc bất hiếu giết cha và xin
làm đệ tử Phật, thì có lẽ ông đã không suy luận vu khống lịch sử
như vậy. Vấn đề của ông Phan Thiết là không đọc lịch sử như nó
đã la?à chỉ tìm cách phủ nhận nó, vì nó đụng đến lòng ganh tỵ,
mặc cảm của ông trước sự kiện Phật được người đời ngay cả các
hàng vua chúa tôn kính, trong khi giáo chủ đạo ông không được vua chúa
đương thời kính phục mà còn bị án tử trên cây thập giá. Từ đó, mà
ông đã không ngần ngại bẻ cong ngòi bút, lộng giả thành chân, bôi đen
lịch sử của đức Phật và đạo Phật. Ông Phan Thiết còn xuyên tạc đức
Phật: "Câu trả lời có thể suy đoán là sự nhúng tay [sic] của
Phật Tổ và tăng chúng vào quốc sự khiến cộng hòa Sakya phải mang họa"
(II.80). Hay "Với óc suy luận ta có quyền nghĩ rằng cộng hòa
Sakya bị tiêu diệt vì bàn tay của Phật Tổ nhúng vào quốc sự của vương
quốc Kosala chứ không phải cái lý do nguồn gốc thấp kém của vua Lưu-Li
như kinh luận [sic] đã ghi" (II. 80). Điều này có nghĩa là nếu nhìn sự
kiện từ gốc độ lịch sử và từ những sự kiện thật của lịch
sử thì nó khác hẳn với những gì ông Phan Thiết đã tưởng tượng.
Chỉ cần một câu hỏi vặn nhỏ "nếu Phật nhúng tay, Phật phải là
người bị giết chết trước chứ, tại sao Ngài vẫn còn sống giáo hóa
đời, để ông bây giờ có cớ bôi bác?
Ông Phan Thiết kết luận trong phần Tìm Chỗ Dựa Quyền Thế:
"con đường hoằng pháp của Phật Tổ mở rộng cho đại chúng nhưng lại
chỉ tìm sự phát triển nơi quyền thế và ở những đô thị lớn [sic].
Các sự giáo hóa vua chúa chắc mang mầu sắc chính trị [sic] và thường
kết thúc bằng bạo lực [sic] trong khi Phật pháp là hòa bình chống bạo
động. Những sử liệu trên [sic, sic, sic] kinh luật chỉ nói phớt qua rất
ít Phật tử chú tâm và thường không biết đến [ít nhất là cách xuyên
tạc của Phan Thiết]. Chỉ có quan điểm lịch sử [sic] bổ túc cho kinh điển
mới lý giải được những chuỗi biến cố liên quan đến Phật pháp [sic]
được thông tin rất ít trong giáo điển" (II.81).
Ông Phan Thiết nên nhớ các cuộc ám sát lịch sử không
bao giờ thành công. Tương tự, quan điểm lịch sử không giải quyết
được vấn đề gì, vì sự thật lịch sử không bao giờ đồng nhất với
quan điểm, vì lẽ rất đơn giản "có hàng triệu triệu ngàn quan điểm
khác nhau về lịch sử nhưng chỉ có một sự kiện thật trong lịch sử
thôi, và tiếc thay cho ông Phan Thiết, sự kiện đó không phải là quan điểm
của ông trình bày bên trên.
IV. Sinh Hoạt của Tăng-già Tiên Khởi (II.81-5)
Trong phần này cũng có nhiều sai lầm và ngộ nhận, chỉ
đưa ra năm điểm chính cũng đủ thấy sự sai lệch của ông.
1. Để phủ nhận tính đặc sắc của đức Phật và cộng
đồng sống đời đạo đức của ngài, ông Phan Thiết ghi: "Về giáo
pháp thì giáo pháp của Phật Tổ không khác mấy [sic] giáo pháp của các
sa-môn: niềm tin căn bản vẫn là luân hồi, nhân quả" (II. 82) và
"Tổ chức sa-môn của ‘đạo sư Cồ Đàm’ gọi là tăng già không
có gì riêng biệt [sic] của Phật Tổ. Các đạo sư vay mượn lẫn của
nhau từ đạo lý đến cách tu học xào xáo [sic] ra một tổ chức khác vẫn
dựa trên thiền định và giới luật" (II.82). Phần sai lầm về việc
đồng hóa giáo lý của Phật với các sa-môn đương thời, được trình
bày ở chương 2, 3 và 4 của tập nhận định này. Ông Phan Thiết, như chính
ông đã thừa nhận, chưa hề đọc vào kinh điển Paali (dù chỉ là bản dịch
tiếng Anh hay Việt) và kinh điển các tôn giáo đương thời (xem trang 24, tập
I) làm sao dám bảo rằng các tôn giáo và triết thuyết này là giống hay
là khác. Chúng ta chỉ có thể nói, chẳng hạn ông Phan Thiết khác hay giống
với bạn bè và thân nhân của ông như thế nào, khi đã nhìn thấy được
mặt mũi của ông và những người đó. Không biết thì không nên suy luận,
ức đoán.
2. Ông Phan Thiết viết không thật về đời sống của
tăng đoàn tiên khởi của Phật giáo như sau. Về việc ăn uống ông viết:
"… ăn một bữa trước khi mặt trời lặn" (II.82) trong khi
luật Phật giáo qui định các tỳ-kheo chỉ ăn ngày một bữa trước khi mặt
trời đứng bóng. Về chỗ ở, ông Phan Thiết cố tình viết sai "không
được ngủ dưới mái nhà, phải dùng màn trời chiếu đất kể cả mùa
đông tháng giá, mưa to gió lớn. Chỗ trú ngụ có thể chấp nhận được
là hang động tự nhiên hay trong gốc cây. Về mặc: chỉ được mặc giẻ
rách, họ thường lượm vải liệm các thây ma đem đi hỏa thiêu."
(II.82). Đây là lối sống của các sa-môn khổ hạnh của ngoại đạo mà
đức Phật đã từng kinh nghiệm qua và phủ nhận trong kinh Chuyển Pháp
Luân, và kinh Niết-bàn thuộc Trường Bộ Kinh. Vì không đọc kinh
và không biết gì về luật tạng (ngay cả tên gọi), ông Phan Thiết mới
viết kiểu như vậy. Thiết nghĩ không cần phân tích.
3. Ông Phan Thiết cho rằng sự có mặt của nữ giới trong
giáo đoàn Phật giáo đã phản ánh "Vai trò thấp kém của người nữ
trong đạo" (II. 83), để rồi suy luận (cũng lại suy luận lịch sử)
"Đạo lan tới Cận Đông ảnh hưởng tới [sic] đạo Do Thái, đạo Thiên
Chúa và đạo Hồi về vai trò thấp kém của phụ nữ trong đạo"
(II.83). Có thể nói, đạo Phật là đạo đầu tiên trong lịch sử tôn
giáo tôn trọng vai trò đạo đức và trí tuệ của người nữ. Hàng trăm
người nữ đã trở thành A-la-hán được ghi chép trong Trưởng Lão Ni Kệ.
4. Ông Phan Thiết ngụy biện bằng chiêu bài qui nạp
"quơ đũa cả nắm" để bài xích đạo Phật. Ông kể về chuyện một
chùa ở Tích Lan có kho chứa ngọc quý (không cần bàn đến tính lịch
sử của nó có hay không) rồi chụp mũ các chùa Phật giáo và hơn thế
còn đồng hóa chùa bằng đạo Phật: "Đạo Phật biến thiên
từ giới cấm thu nhận vàng bạc nay các chùa là cái kho chứa của
báu!" (II. 84-5). Ông nói về một chùa rồi kết luận các chùa, rồi định
nghĩa các chùa bằng với đạo Phật. Đạo Phật, tức đạo hay lời dạy
của Phật Thích-ca không biến thiên, mà chỉ có người thừa hành đạo Phật
biến thiên. Đừng lẫn lộn đạo Phật với một số người (khác với tất
cả mọi người) thực hành theo đạo Phật.
5. Ông Phan Thiết đưa ra một ngôi chùa ở Tích Lan
có chứa ngọc quý rồi chụp mũ toàn bộ các chùa trên đất Ấn Độ,
cũng theo cái lối ngụy biện thiếu cơ sở và khoa học. Ông viết: "Nhờ
sự ủng hộ Phật pháp của một số vua chúa trong một khoảng thời gian,
các tăng lữ [nào?] đã thu góp quá nhiều của cải [gì?] làm thành những
tài sản lớn [tài sản gì?] là nguyên nhân chính khiến các vua Hồi ở
Ấn Độ về sau giải tán các tu viện để đoạt của [của gì?]"
(II.85). Lối ngụy biện bứt râu ông nọ (Tích Lan) cắm cằm bà kia (Ấn Độ)
tự nó đã cho thấy thái độ không tôn trọng sự thật của ông Phan Thiết.
Tại sao các vua Hồi tiêu diệt đại học Na-lan-đà và các trung tâm văn hóa
lớn của Phật giáo? Đơn giản thôi: các trường đại học Phật giáo và
các trung tâm văn hóa Phật giáo là những nơi đào tạo nguồn nhân lực Phật
giáo và duy trì giáo lý của đức Phật, nền giáo lý không thừa nhận mặc
khải, huyền nhiệm và một ông sáng thế, dù dưới bất kỳ tên gọi gì,
mà trong đó Allah của Hồi giáo là một. Các vua Hồi giáo đã cho rằng nếu
đạo Phật lan rộng trên Ấn Độ, ảnh hưởng hữu thần sẽ mất chỗ đứng
trong quần chúng. Chính sách "đốt sách chôn học trò" của Hồi
giáo, tiêu diệt các trung tâm giáo dục và văn hóa của Phật giáo để chận
đứng hậu hoạn về một sự quật khởi ý thức hệ tôn giáo phủ nhận
thần linh của đạo Phật đã khiến cho các vua Hồi tiêu diệt Phật giáo
và Kỳ-na giáo, chứ không bạo tay đối với tôn giáo hữu thần khác, chẳng
hạn Ấn giáo.
6. Về sự khác nhau giữa tinh xá và tịnh xá.
Nói đơn giản thế này: dịch ngữ người Trung Quốc sử dụng cho
"Vihara" [Vihaara] là "Tinh xá," với nghĩa "chốn
tu hành tinh khiết, tức thanh tịnh." Danh từ "Tịnh xá"
là từ của hệ phái Khất Sĩ Việt Nam sử dụng. Họ không dịch nghĩa chữ
tịnh xá từ chữ "Vihaara" mà chỉ dùng từ này để ám chỉ
cho chốn tu hành thanh tịnh, thay vì dùng từ "tự" (chùa) có nguồn
gốc từ Trung Quốc. Không có chuyện đúng và sai trong khi sử dụng "tinh
xá" hay "tịnh xá" trong trường hợp này. Sở dĩ ông Phan
Thiết chỉ biết chữ tịnh xá ở VN là vì ông chỉ nhìn thấy các chùa của
hệ phái khất sĩ. Nếu ông quan sát một số chùa nhỏ của người Tàu ở
Chợ Lớn thì chữ tinh xá không phải không có.
V. Tỳ-Kheo Là Cán Bộ hay Kẻ Tu Hành? (II. 85-7)
1. Trong phần này, bằng lối chơi chữ ngụy biện quen thuộc
ông Phan Thiết đặt ra vấn đề: "tỳ-kheo là người tu hành hay cán bộ
[thành viên tăng đoàn]?" Ông đưa ra hai lý luận dựa trên hai tiền đề
mang sẵn kết luận "người tu hành cầu giải thoát" thì
"không cần đến xã hội" (II. 85, d.12-3), và nếu người tu hành
"vẫn cần đến xã hội để sống và sinh hoạt" thì vị tỳ-kheo
đó là ‘cán bộ" (II. 85, 13-4), để phủ nhận cộng đồng tu sĩ Phật
giáo là xa rời xã hội. Trong logic học, cách lý luận này được gọi là
ngụy biện, bởi vì nó đã chấp nhận một kết luận trong định đề, và
do đó nó trở nên "invalid" mà không phải mất thì giờ để tranh
luận. Ngoài ra, trong tiền đề của ông Phan Thiết cũng còn chứa sai lầm.
Bởi lẽ, từ bản chất cũng như lịch sử đã chứng minh, vị tỳ-kheo thời
đức Phật không tách rời khỏi xã hội. Bản thân cộng đồng tu sĩ Phật
giáo tự nó đã là một xã hội nhỏ. Không có vị tu hành giải thoát nào
trong Phật giáo mà không giúp xã hội. Các vị thường xuyên tiếp xúc với
xã hội lớn, cần đến xã hội, để giúp đỡ xã hội về phương diện
tinh thần và tâm linh. Một bên cung cấp vật chất (đơn thuần) bên còn lại
cung cấp tinh thần và đạo đức (quan trọng hơn). Ông Phan Thiết có thể
gọi họ là "cán bộ" cũng chẳng sao, bởi lẽ, cán bộ vốn có
nghĩa là "thành phần hay người nồng cốt" của một tổ chức, và
ở đây là tổ chức của cộng đồng phát triển đời sống đạo đức và
tinh thần của đạo Phật, thường được biết đến qua tên gọi "Tăng
đoàn." Trên tinh thần này, cách lập luận "tỳ-kheo là kẻ tu hành
chứ không phải là cán bộ của tổ chức tăng già. Tỳ-kheo nhập vào tổ
chức vì là những kẻ đồng tu chứ không phải là cán bộ có nhiệm vụ
với tổ chức" (II. 85) chỉ là những lời ngụy biện, để kêu gọi sự
phân tán của cộng đồng tu sĩ Phật giáo. Tóm lại, là một người tu, vị
tỳ-kheo trước nhất và hơn ai hết phải có ý thức và tinh thần xem mình
là một thành viên [cán bộ] của cộng đồng tăng đoàn, để cố gắng nâng
cao đời sống đạo đức của mình và tập thể. Đương nhiên, vị tỳ-kheo
cần phải có trách nhiệm [nhiệm vụ] đối với tổ chức tăng đoàn trong
việc giáo dục những kẻ đầy thành kiến, chấp mắc, phá hoại đạo đức.
2. Trong Phật giáo, việc một người phát nguyện sống đời
xuất gia thường được gọi là "cắt ái từ thân" nghĩa là
"cắt bỏ đời sống hôn nhân, từ giả thân thuộc [để trở thành một
tu sĩ]" hay nói gọn hơn là "từ thân," tức từ giả
thân quyến. Vì không biết chữ Hán, ông Phan Thiết dùng chữ "ly
thân" và định nghĩa xuyên tạc "ly thân ngoài ý nghĩa đối với
kẻ ruột thịt còn có ý nghĩa với bản thân tỳ kheo: xả bỏ cái xác
này" (II. 28-9). Vì mang sẵn một đầu óc thành kiến và ác cảm với
đạo Phật, ông Phan Thiết cố tình viết bậy, giải thích sai, để xúi dục
người ta "tự sát" (xả bỏ cái xác này). Thật là quái gở!
3. Các bạn chỉ cần để ý phần in đậm trong câu sau đây
sẽ thấy kiểu viết ngụy biện và mâu thuẫn của ông Phan Thiết, nhằm
bôi bác đạo Phật: "Các vị tỳ-kheo [Phật giáo] tiên khởi đã
sống như các sa-môn (ngoại đạo) hết sức khổ hạnh tuy sau khi Phật
Tổ thành đạo đã giảm nỗi khốn cực cho các tì-kheo như các ngài
được ăn no ngày một bửa, được trú dưới mái lều vào mùa mưa . .
" (II. 86). Làm gì có mặt của các vị tỳ-kheo tiên khởi của Phật
giáo trước khi Phật Tổ thành đạo. Các vị tỳ-kheo tiên khởi của
Phật giáo là năm anh em Kiều Trần Như: các ngài được gọi là các tỳ-kheo
tiên khởi của Phật giáo sau khi nhận đức Phật làm thầy.
4. Bàn về lịch sử mà ông Phan Thiết cứ bị phán đoán bắt
đầu bằng giả thuyết bất thật "có lẽ" ám ảnh. Ông viết:
"Có lẽ [sic] càng về sau, Phật Tổ càng ý thức việc này nhất
là khi tổ chức tăng già bành trướng [sic] Ngài đã thu nhận thêm nhiều
đệ tử tại gia tức những người hỗ trợ tăng già" (II. 86). Tiếc
thay, lịch sử không bao giờ bắt đầu bằng phán đoán "có lẽ"
thay vì "sự thật vẫn là sự thật." Nghĩa là, càng ngày càng nhiều
quần chúng từ vua chúa đến bình dân, già trẻ, nam nữ đã từ bỏ đạo
Bà-la-môn, tình nguyện trở thành đệ tử của đức Phật Thích-ca. Đây
là sự kiện lịch sử không thể bóp méo được. Tương tự, lịch sử
cũng không bắt đầu bằng phán đoán "rất có thể . . . "Rất
có thể Ngài đã dùng lý tưởng phúc đức chiêu dụ những đại
vương, nhà giầu (trưởng giả) và nữ giới vốn bản tính mộ đạo, ủng
hộ và giúp đỡ tăng già" (II. 87). Nắn ra một lịch sử với giả định
"rất có thể" chỉ là cách bôi nhọ lịch sử, bằng giả thuyết
chống lại sự thật mà thôi.
5. Ông Phan Thiết chê trách "cách sinh sống của tì-kheo
vẫn tiềm ẩn nghĩa hủy diệt" chỉ vì lý do đơn giản là thức
ăn của tu sĩ "tùy thuộc vào việc khất thực và lòng hảo tâm của
quần chúng" (II.86). Chủ nghĩa hoài nghi ngụy biện này đã dẫn ông đến
một kết luận theo dạng quơ đũa cả nắm: "Cách sinh sống hủy diệt
của các vị khiến ta nghi vấn về trí tuệ của cả thời đại Phật Tổ"
(I.86). Trước nhất xin hỏi ông "hủy diệt" theo nghĩa nào: (i) hủy
diệt cái vô minh, (ii) hủy diệt thái độ hoài nghi đạo đức của quần
chúng, (iii) hủy diệt bản thân? Hủy diệt theo trường hợp thứ ba hoàn
toàn vô căn cứ, vì không có bằng chứng lịch sử nào về việc chết do
"che thân bằng giẻ rách và vải liệm thây ma" trong thời đại Phật.
Còn nếu hủy diệt theo hai trường hợp đầu thì việc biến vài sự kiện
cá thể để chụp mũ cho một thời đại thì quả là ngụy biện và do đó
không thể chấp nhận được.
6. Ông Phan Thiết thắc mắc tại sao người làm lành mà vẫn
bị chịu bất hạnh và đau khổ, chẳng hạn như hai vị vua Tần-bà-sa-la
và Ba-tư-nặc. Rồi vì không thích người làm phúc, ông kết tội người
hiền lương bằng luận điệu ngụy biện "làm phúc phải tội"
(II. 87). Như vậy, ông muốn gì: muốn cho mọi người trong xã hội giết
nhau, cướp của nhau, tàn hại nhau, bỏn xẻn, keo kiệt, chết ai nấy chịu
sao? Làm phúc nếu không thể hưởng được phúc trong hiện tại thì nó cũng
không thể tạo nên tội được, mà dám bảo là "mang tội." Không
tin vào nhân quả đạo đức là quyền của ông, (cũng như nhóm lục sư ngoại
đạo đã từng), ông cũng không nên vì thế, ít nhất vì lý do lương tâm,
mà vũ đoán rằng việc bất hạnh trong đời là kết quả của làm phúc
được. Ông có dám bảo rằng Mahatma Gandhi bị ám sát là do chủ trương
"bất bạo động" (tạm hiểu như một kiểu làm phúc của ông)?
Là một người có học thức và từng làm thẩm phán, tại sao ông không
khuyến khích mọi người làm lành, lánh dữ cho đời bớt đau thương, lại
xúi người làm ác, bằng những ngụy biện "làm phúc phải tội?"
7. Là một tu sĩ, việc giảng dạy (dù ông có muốn chơi chữ
theo lối ngụy biện phản lại đạo đức như vừa nêu, khi dùng từ cán
bộ để chỉ cho tu sĩ Phật giáo) đạo đức và đời sống tinh thần
cho quần chúng là việc làm không thể tách rời với đời sống của một
người tu sĩ Phật giáo, dù là thời đại nào. Sự vào đời (nhập thế)
vừa là tông chỉ vừa là sức sống của người tu sĩ Phật giáo. Sự biến
thiên về thời gian, lịch sử, bối cảnh không gian, và hoàn cảnh xã hội
trong thời Phật và thời hiện tại dẫn đến sự khác nhau về đời sống
tu sĩ Phật giáo trong hai thời là điều tất yếu không thể tránh khỏi.
Ở đây ông Phan Thiết vô cùng mâu thuẫn: tu sĩ sống nhờ vào quần chúng
ông cho là "hủy diệt" [sic] còn sống "tự giác, giác tha, cứu
độ chúng sanh bằng Phật pháp trong các tu viện lớn" ông cho là
"cán bộ của tổ chức" (theo nghĩa châm biếm). Ông bạn Phan Thiết,
không biết ông có còn nhớ không, ngày ông mới lọt lòng mẹ, ông ở trần
truồng (như bao nhiêu người khác mới lọt lòng mẹ), không có một tấm
áo che thân, máu mủ dính đầy thân, răng không một chiếc, chỉ vỏn vẹn
vài ký lô. Bây giờ ông khác hẳn: ông có cả răng tóc, cao hơn một thước,
có cả nhà cửa, tài sản, v.v. . . Theo lập luận ngụy biện của ông, ông
nên nhờ các khoa học gia nén cho thân ông nhỏ lại còn hai ba tấc, nhẹ
khoảng hai ba ký lô, nhổ bỏ hết răng, cạo sạch hết lông tóc, đốt rụi
nhà cửa, tiền bạc, tài sản, bởi vì lúc ông mới sinh ra ông đâu có những
thứ này? Nếu ông cho rằng đó là điều ngớ ngẫn, không thể chấp nhận
vì ông theo dòng thời gian và hoàn cảnh xã hội khoa học hiện đại, ông
bây giờ không thể giống với ông lúc mới lọt lòng, thì ông cũng không
nên đặt vấn đề theo kiểu ngụy biện chống đối Phật giáo rằng tại
sao cộng đồng tu sĩ Phật giáo hiện tại phải giống hoàn toàn với lúc
nó mới ra đời ở Ấn Độ, cách nay trên 25 thế kỷ!
VI. Vì Sao Phật Tổ và Tăng Chúng Tiên Khởi Có Lắm Kẻ
Thù?
Ông Phan Thiết đưa ra ba nguyên nhân (II.87-90), trong đó,
tôi đồng ý vế thứ nhất của nguyên nhân thứ hai, đó là "Phật Tổ
đề xướng đạo lý nhân bản và vì đạo lý ấy chư thần Ấn Độ đều
bị hạ bệ. Ngài không nhục mạ chư thần nhưng Ngài bài xích việc cầu
cúng, lễ bái, tế thần làm mất mối lợi của các tế sư, các tăng lữ
ngoại đạo sống nhờ vào đạo của họ, đương nhiên là họ ghét
Ngài" (II. 88). Vế thứ hai, ông viết sai, "Đệ tử của Phật không
có cái phong thái triết nhân như bậc đạo sư. Họ viết kinh luận
cho chư thần Ấn Độ đóng vai quân hầu của Phật . . ." (II. 88). Bởi
lẽ tăng chúng tiên khởi của Phật làm gì có viết kinh, ngay cả Phật
còn không có viết sách mà!
Về nguyên nhân thứ nhất, ông Phan Thiết viết tương tự
với điểm thứ 6 vừa được phân tích ở phần trên (sách, tập II. 87).
Ông Phan Thiết tưởng tượng (nghĩa là khác với lịch sử) do vì Phật ủng
hộ hai đại vương Ba-tư-nặc và Tần-bà-sa-la nên đã "va chạm quyền
lợi" đến hai hoàng tử, nên hoàng tử này đã giết chết cha ruột của
mình để cướp ngôi (II.87-8). Lập luận ngụy biện của ông Phan Thiết
không logic. Bởi vì, nếu Phật là đối tượng va chạm quyền lợi của
hai hoàng tử thì Phật phải là người bị hai hoàng tử này giết chết trước,
chứ không phải hai vị vua cha của họ! Việc ám sát Phật thật là dễ
dàng đối với các hoàng tử nếu Ngài là đối tượng tranh chấp quyền lợi
của họ. Phật chỉ ở núi rừng không có thành trì và lính gát bảo vệ,
như hai vị hoàng đế kia. Ngài cũng không có vũ khí hay bất kỳ phương tiện
tự vệ nào. Ngài đã không bị hai vị hoàng tử đó ám sát, mà trái lại,
chính A-xà-thế không lâu sau khi giết cha mình đã phải ăn năn hối hận tội
ác này và bày tỏ sám-hối với Phật kia mà.
Về nguyên nhân thứ ba, ông Phan Thiết cho rằng "sự xuất
gia làm tuyệt nòi giống người ta [sic]. Chưa kể những phụ nữ
đương hưởng hạnh phúc chồng con vì mê đạo giải thoát, bỏ vợ bỏ
con đầu Phật làm tì-kheo khiến các sương phụ [nào?] oán Phật và tăng
già" (II. 88). Sự xuất gia của một người nam chỉ có thể làm
tuyệt giống sanh con của người nam đó. Tương tự, sự xuất gia của một
người nữ chỉ có thể làm tuyệt nguồn sanh con của người nữ này.
Làm gì có chuyện tuyệt giống con người, dù cho cả toàn dân Ấn Độ
lúc đó theo Phật xuất gia hết: khả năng xảy ra lớn nhất chỉ có thể
là Ấn Độ tuyệt chủng thôi, chứ không phải giống người hay loài người,
như ông Phan Thiết lý luận.
Ngoài các sai lầm phát xuất từ lòng tị hiềm và muốn xuyên tạc đạo
Phật như đã được chứng minh ở trên, ở phần "Thăm dấu vết hoằng
hóa của đức Phật" (II.90-3) có hai điểm viết xuyên tạc và biếm nhẻ
đạo Phật. Thứ nhất, ông Phan Thiết bảo luật tạng Phật giáo ghi rằng
(chưa đọc kinh điển Phật giáo làm sao biết) bác sĩ Jivaka "đã cố vấn
cho đức Phật không nhận những người tật bệnh, già lão vào hàng
tì-kheo để được chữa bệnh miễn phí! Chẳng rõ đức Phật có
nghe ông không nhưng luật tạng có điều khoản này [luật tạng nào,
điều khoản nào?]" (II. 92). Chẳng những thế, ông còn biếm nhẻ vị
bác sĩ tốt bụng Jivaka đã khuyên đức Phật làm như vậy chỉ vì tiền:
"Đốc-tơ thời nào cũng thế [sic], tiền là trên hết" (II.92). Đã
bảo việc chẩn bệnh phát thuốc của bác sĩ Jivaka hoàn toàn miễn phí
thì lấy lý do gì để vu cáo Jivaka là vì tiền? Đành rằng có thể có một
số bác sĩ làm nghề này vì lợi nhuận tiền bạc hơn là vì lương tâm y
sĩ, nhưng không thể vì đó mà cho rằng toàn bộ bác sĩ ở mọi nơi mọi
thời đều giống nhau, như cách lý luận nhuốm màu vu khống của ông Phan
Thiết. Thế cũng đủ biết lối ngụy biện của ông Phan Thiết trong việc
chống lại các hành vi nhân từ, thương người giúp đời bằng cách cho rằng
người làm lành chỉ vì mục tiêu tiền bạc. Thứ hai, trong đầu ông Phan
Thiết chỉ còn đọng lại một quan niệm và một lối sống duy nhất là mọi
thứ trên đời này chỉ có tình dục là trên hết (xem Tình Kinh của ông)
nên nhìn tháp Phật mà cứ tưởng như đang ngắm nhìn cái dương vật của
thần Siva: "Không rõ các kẻ xây tháp để kính Phật hay thần, nhưng
nhìn ngọn tháp ta [Phan Thiết] liên tưởng đến cái linga [dương vật] biểu
tượng của thần Siva" (II.92). .
Lời giới
thiệu | 1 | 2
| 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 |
|
|