Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
PHÊ BÌNH
KÝ SỰ HÀNH HƯƠNG ĐẤT PHẬT
Thích Nhật Từ

Chương IV
Từ Thần Brahma đến Phật Thích-Ca

I. Chuổi Mắc Xích Sai Lầm

1. Nhầm lẫn "lục sư ngoại đạo" với "6 phái triết học chính thống của Bà-la-môn

Bàn về "lục sư ngoại đạo" Đoàn Trung Còn viết: "Trước khi đức Phật Thích-ca ra đời ở Ấn Độ có sáu phái triết học rất thịnh hành và sau khi Phật tịch, sáu phái ấy cũng vẫn còn. . ." (Phan Thiết trích lại ở trang 91, tập I). Cách viết này chứng tỏ tác giả không rành về sử liệu và cách tính sử liệu. Thứ nhất, lục sư ngoại đạo có đồng thời với Phật Thích-ca, chứ không phải có trước khi Phật Thích-ca sanh ra. Thứ hai, giả sử cho có trước như Đoàn Trung Còn đã nhầm lẫn thì theo cách viết này, các giáo chủ này phải sống trên 100 tuổi, bởi lẽ theo ông, lục sư ngoại đạo "có trước khi Phật ra đời" và "sau khi Phật tịch, lục sư ngoại đạo vẫn còn" mà Phật Thích-ca thì sống 80 tuổi, do đó, cộng thời gian trước khi Phật Thích-ca ra đời và sau khi ngài tịch thì họ phải sống trên 100 tuổi. Đây là sự nhầm lẫn đáng tiếc. Trên thực tế, trong sáu phái này chỉ có Kỳ-na giáo tồn tại sau khi Phật tịch, trong khi năm phái còn lại không có truyền thừa và do đó đã mất gốc.

Ông Phan Thiết vì dựa trên giả thuyết sai lầm của Đoàn Trung Còn nên đã đồng hóa nhóm "lục sư ngoại đạo" thời đức Phật với "6 phái triết học chính thống" sau thời Phật (tr. 92-5). Lục sư ngoại đạo thường được gọi là "Titthiya tiirthakara," và tiếng Anh thường dịch là "the six heretical teachers" có nghĩa là "6 đạo sư dị giáo hay không chính thống." Sở dĩ họ được mệnh danh là dị giáo hay không chính thống là vì họ chống lại tính thẩm quyền của kinh điển Veda, họ không tin thuyết sáng thế từ một vị phạm thiên. Trong khi đó, 6 trường phái triết học Ấn Độ (Vai'se.sika, Nyaya, Miimaa"msaa, Saa"nkhya, Yoga Vedanta) được viết là ".sad dar'sana" và tiếng Anh thường dịch là "the six chief philosophical systems." Sáu phái triết học này được gọi là 6 phái triết học chính thống (aastika) vì cùng thừa nhận tính thẩm quyền tuyệt đối của kinh điển Veda. Ông Phan Thiết chỉ vin vào con số "6" của hai hệ thống, một đàng chống Veda có đồng thời với Phật Thích-ca, và một đàng lập cước trên Veda có sau Phật Thích-ca, làm một. Một kiến thức căn bản như vậy mà ông Phan Thiết còn không biết thì nói gì đến triết lý của các triết phái này.

2. Nhận định lệch lạc từ sự đồng hóa lệch lạc

Vì không biết chính xác về lục sư ngoại đạo, Đoàn Trung Còn đã viết sai lầm sau đây: "Đức Phật thành đạo, giáo pháp của ngài dung hòa và tổng hợp các phái triết học trên nên đại đa số phái đồ trong các giáo phái ấy đều theo qui y với Ngài" (Phan Thiết trích lại ở trang 91, tập I). Dựa trên nhận định sai lầm này, ông Phan Thiết viết "Ngài [Phật Thích-ca] có giác ngộ được gì ngoài việc dung hòa và tổng hợp tư tưởng của người khác" (tr. 91).

Như đã chứng minh ở phần nhận định về "Từ ngoại đạo theo dấu chân Phật" (chương III của tập nhận định này) triết học của lục sư ngoại đạo khác hoàn toàn với triết lý của đạo Phật và chính Phật Thích-ca đã phê bình các học thuyết này như là những chướng ngại cho đời sống đạo đức của thế nhân. Do đó, không thể có chuyện đức Phật Thích-ca tổng hợp giáo lý sai lệch và nguy hại về đạo đức này. Ở đây, chúng tôi xin tóm tắt học thuyết của lục sư ngoại đạo như sau. Puura.na Kassapa chủ trương không có nhân quả đạo đức của hành vi thiện ác (akiriyavaada) phủ nhận tính cách dẫn quả của hành vi. Ông cho rằng không có phước lành và công đức trong những việc làm thiện và cũng không có tội lỗi trong các hành vi làm ác. Makkhali Gosaala trái lại phủ nhận "nhân" của mọi sự vật (ahetuvaada) cho rằng nỗ lực và động cơ của con người là vô vọng, không có giá trị gì. Ông chấp nhận thuyết định mệnh hay tiền định (niyati) và cho rằng giải thóat là một quá trình tiệm tiến tiền định thông qua luân hồi (sa"msaara). Ajita Kesakambalin chủ trương duy vật đoạn diệt luận (ucchedavaada/di.t.thi), đồng hóa con người tâm vật lý (naama-ruupa) với thân thể (ruupa), phủ nhận nỗ lực đạo đức của con người và cho rằng không có đời sau (para loka). Theo ông, sau khi chết, con người cũng theo đó mà diệt, không còn gì tồn tại, do đó, không có vấn đề nghiệp quả báo ứng. Pakudha Kaccaayana chủ trương thuyết bảy đại thường hằng, bất biến hình thành nên con người tâm vật lý. Ông cho rằng không có tội lỗi khi giết người, bởi vì giết người chỉ là giết một hợp thể 7 đại mà thôi. Niga.n.tha Naa.taputta chủ xướng thuyết tiền định (pubbekatahetu) và cho rằng giải thoát chỉ có thể thành công bằng con đường hành trì khổ hạnh ép xác. Sa~njaya Bela.t.thaputta, một nhà ngụy biện không kiến thức, từ chối trả lời dứt khoát quan điểm của mình. Cách lập luận của ông trườn uốn như con lươn. (xem, M. I. 407, 513-524; S. III. 208, 210-1, A. III. 383). Trong Kinh Sandaka (M. I. 513), học thuyết của lục sư ngoại đạo được liệt vào các học thuyết sai lầm (micchaadi.t.thi), tư tưởng của họ được xem là các tư tưởng lệch lạc (micchaasa"nkappa) và lời nói hay lời dạy của họ được xem là lời tà vạy (micchaavaacaa). Vì 6 học thuyết này thiếu nguyên lý chân chánh và lành mạnh (kusala-dhamma), đức Phật khuyên mọi người nên sớm từ bỏ chúng (M. I. 519).

3. Các sai lầm về sáu phái chính thống

Như đã trình bày ở trên vì dựa vào sai lầm của Đoàn Trung Còn, ông Phan Thiết đã đồng hóa sai lầm "lục ngoại đạo" (tr. 92, d.14) với sáu phái tri?t học chính thống. Ông viết: "Các phái triết học mà sách Phật gọi là "lục ngoại đạo" chỉ trở thành môn phái có lý luận hệ thống sau khi dòng họ Maurya của vua Asoka đã bị diệt" (tr. 92). Dưới đây, người viết không chú trọng tới phần trình bày thiển cận của ông Phan Thiết về sáu phái triết học, mà chỉ chủ yếu phê bình các chụp mũ sai lệch của ông về đạo Phật, khi cho Phật giáo vay mượn các phái triết học này.

a. Vai'se.sika: Nói về thuyết nguyên tử của phái này, ông Phan Thiết viết vô căn cứ như sau: "Các pháp là hữu hình và vô hình chịu sự luân hồi do mạt-na thức và chủng tử gieo ấy. Chủng tử phải tu luyện [sic] ra khỏi luân hồi trở về với Đại Hồn tức là Thượng Đế. Như thế phái này là thủy tổ của duy thức luận trong đạo Phật [sic]" (tr. 92, d.16-20).

Thực ra, phái này chủ trương có 7 phạm trù của thực tại (padaartha) là (a) thực thể (dravya), (b) tính chất (gu.na), (c) hành vi (karma), (d) cái phổ quát (saamaanya), (e) cái cá thể (vi'sesa), (f) liên hệ thuộc tính (samavaaya) và (g) không hiện hữu (abhava). Phạm trù thực thể (dravya) lại gồm có 9 là 1. đất (p.rithivii), 2. nước (jala), 3. ánh sáng (tejas), 4. không khí (vaayu), 5. chất lỏng không màu (aakaa'sa), 6. thời gian (kaala), 7. không gian (dik), 8. linh hồn (aatmaa), 9. manas. Sự luân hồi theo phái này là do linh hồn (aatmaa) hay còn gọi là linh hồn cá thể (jiivaatmaa) chứ không phải manas, vì manas chỉ là căn nội tại (antarindriya) của nhận thức mà thôi.

b. Nyaya: ông Phan Thiết dựa vào sai lầm của quyển Hindu Theology (p. 108-110) nên đã nhận định sai lệch rằng "Phật Đại Thừa nương theo hai phái này hoàn chỉnh thuyết luân hồi, nghiệp báo, duy thức thành một hệ thống triết học chặt chẻ" (tr.92).

c. Yoga: Trong phần này, ông Phan Thiết viết sai khái niệm thiền trong Phật giáo thành "yoga." Ông viết "Yoga là phương cách hành đạo của các phái Bà-la-môn, phái Kỳ-na và các phái đạo Phật [sic]" (tr. 93). Đạo Phật chủ trương "samaadhi" và "vipassanaa" chứ không phải yoga.

d. Miimaa"msaa: Trong phần này, ông Phan Thiết viết sai lầm như sau: "Phái Mimamsa được xem như thủy tổ của các phái Tịnh Độ đạo Phật" (tr. 94).

e. Vedanta: ông Phan Thiết viết nhầm lẫn như sau: "Vedanta cũng là thủy tổ của Phật Đại Thừa với thuyết Phi nhị Pháp môn thành thuyết Phật Tánh, Nhất Như" (tr. 95). Nếu ông Phan Thiết biết rằng các thuyết bất nhị, Phật tánh và nhất như của Phật giáo ra đời vào khỏang thế kỷ thứ 1 trước Tây lịch và thế kỷ 1 sau Tây lịch trong khi Vedanta của 'Sa"nkara (Phan Thiết viết sai thành Kankara, tr.94, d.10) ra đời vào khoảng thế kỷ 8 sau Tây lịch thì có lẽ ông đã không viết sai lầm như thế. Trên thực tế, 'Sa"nkara đã vay mượn phương pháp bất nhị trong Phật giáo để triển khai giáo lý của mình.

II. Thủa Khai Đạo, Phật Thích Tôn Chủ Trương Vô Thần (tr. 95-9)

Trong phần này, ông Phan Thiết có một số sai lầm căn bản sau đây.

1. Sai về thời đại của Upani.sad: Ông Phan Thiết cho rằng "thời đại của kinh Upanishad khoảng 800 đến 500 trước Tây lịch" (tr.95). Đây là một sai lầm đáng tiếc. Có hơn 108 Upani.sad, và phần lớn các tác phẩm này ra đời rất muộn. Có 11 Upani.sad được xem là ra đời sớm hơn, trong đó, B.rhadaarra.nyaka Upani.sadChaadogya Upani.sad là cổ nhất. B.rhadaarra.nyaka Upani.sad có đề cập đến vua A-xà-thế (Ajaata'satru) của giòng giỏi Kaa'sii. Vua A-xà-thế này chính là vua A-xà-thế đề cập trong kinh điển Phật giáo. Mẹ của ông là Vaidehii và kế mẫu của ông là con gái của vua Kaa'sii. Chính vì thế mà A-xà-thế được gọi là Kaa'sva, tức thuộc giòng giỏi Kaa'sii. A-xà-thế sống vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch, do đó, kinh điển Upani.sad có sớm nhất là thế kỷ thứ sáu trước Tây lịch mà thôi. Kế đến, một trong các Upani.sad có sớm nhất là Mu.n.daka Upani.sad, có nghĩa là "Upani.sad của các tu sĩ trọc đầu." Rõ ràng đây là một văn bản sau Phật giáo, và đã chịu ảnh hưởng của truyền thống mâu-ni (muni) và tỳ-kheo (bhik.su) của Phật giáo. Các tu sĩ Bà-la-môn giáo thường gọi Phật Thích-ca là sa-môn (Sama.naka) hay kẻ trọc đầu (Mu.n.daka). Một bằng chứng nữa là Ka.tha Upani.sad có nhiều đoạn phê bình về học thuyết nhiều sự vật hiện tượng (p.rthag dharmaan) của Phật giáo (xem Complete Works of Swami Vivekananda, IV. 14). Điều này chứng tỏ kinh điển Upani.sad có sau hoặc sớm nhất là cùng thời với Phật Thích-ca, tức vào thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch mà thôi.

2. Chữ "naastika" mà ông Phan Thiết viết sai thành "nastik" không có nghĩa là "chủ nghĩa hư vô." Nó chỉ có nghĩa là "người chủ trương không chính thống" vì chống lại tính thẩm quyền của kinh điển Veda. Về sau, người ta đã hiểu sai thành "người vô thần." Sai lầm hơn, khi ông Phan Thiết cho rằng Cưu-ma-la-thập là tác giả của Bát-nhã tâm kinh, một bài kinh ra đời trước ông đến vài thế kỷ. Và sai lầm hơn khi cho nội dung của Bát-nhã tâm kinh thuộc về chủ nghĩa hư vô: "Bài Bát-nhã tâm kinh do sư Cưu-ma-la-thập chép ra đề là kinh Phật chắc là bài kinh của những người hư vô chủ nghĩa viết bằng lối văn ngụy biện chối bỏ sắc, tướng" (tr. 95).

3. Chữ "sangaya" (tr. 96, d.1) là từ ông Phan Thiết viết sai từ chữ Sanskrit Sa~njayii hay Paali Sa~njaya. Ông này là một trong nhóm lục sư ngoại đạo, và chủ trương ngụy biện như con lươn (amaraavikkhepika), hay thuyết ngụy biện bất tận (amaraavikkhepavaada), chứ hòan toàn không có nghĩa "Bất khả tư nghì chủ nghĩa" (tr. 96, d.1) như ông Phan Thiết đã nhầm lẫn.

4. Sai lầm hơn khi ông Phan Thiết viết "các minh sư hư vô, bất khả tri nhiều lắm. Họ được gọi chung bằng cái tên là Charvaka nghĩa là vô thần" (tr. 96, d.5-6). Charvaka viết đúng là Caarvaaka, có nghĩa là "nhà duy vật" hay "người theo chủ nghĩa duy vật" đồng nghĩa với chữ "materialist" của tiếng Anh. Có hai cách giải thích về từ này. Cách thứ nhất cho rằng Caarvaaka là tên của triết gia đầu tiên của chủ nghĩa duy vật Ấn Độ, chủ trương thuyết "hãy ăn uống cho thỏa thích hôm nay vì sau này chúng ta sẽ chết hết," từ đó, ai theo chủ nghĩa duy vật được mệnh danh là Caarvaaka. Theo cách thứ hai, chữ Caarvaaka bắt nguồn gốc "carv" có nghĩa đen là "ăn" hay "nhai" và do đó Caarvaaka có nghĩa là người chủ trương sống để thụ hưởng khoái lạc trần gian, và sau khi chết là hết. Như vậy, Caarvaaka không có nghĩa gì là "hư vô, bất khả tri hay vô thần" mà chỉ có nghĩa là người theo chủ nghĩa duy vật.

5. Cho đức Phật chủ trương bất khả tri: Trong phần này, ông Phan Thiết đưa ra hai 2 ngụ ngôn trong kinh điển Phật giáo và giải thích một cách sai lệch, để chụp mũ đức Phật chủ trương bất khả tri. Hai dụ ngôn được ông minh họa là "ngụ ngôn mù sờ voi" và "ngụ ngôn lá trên tay và lá trong rừng." (tr. 98-9).

Về dụ ngôn mù sờ voi, ông giải thích sai như sau: "Chân lý chẳng bao giờ biết được. Kẻ đi tìm chân lý khác chi kẻ mù sờ voi" (tr. 98). Thật ra, ngụ ngôn mù sờ voi nhằm phê bình và phản ánh thái độ nhận thức phiến diện một vấn đề và cho rằng đó là toàn thể chân lý; cho cái cá thể thành cái phổ quát. Cái tai, cái chân, cái mình, cái đuôi v.v. . . không phải là con voi mà chỉ là các bộ phận thân thể của con voi mà thôi. Ngụ ngôn này khuyên chúng ta nên có thái độ toàn diện, bao quát về một vấn đề, để tránh sai lầm "biến cá thể thành toàn thể" hay "quơ đủa cả nắm" hay "nhìn bầu trời qua miệng giếng" v.v. . . Nó hoàn toàn không cho rằng "chân lý không bao giờ biết được" như ông Phan Thiết đã hiểu sai và giải thích lệch lạc.

Qua ngụ ngôn "lá trên tay và lá trong rừng" đức Phật muốn nhấn mạnh đến tính thực tiển về phương diện đạo đức và nhận thức trong lời dạy của ngài. Không đề cập đến các vấn đề mông lung vô ích không có nghĩa là đức Phật không biết gì về chúng. Ngài không đề cập đến các vấn đề đó vì chúng không dính dáng gì đến sự tu tập và tiến bộ đạo đức cá nhân. Một thầy giáo không dạy cho học sinh cấp 1 về hình học không gian không có nghĩa vị thầy ấy không biết gì về chúng rồi lãng tránh chúng, mà chỉ vì nó không có ích gì cho trình độ nhận thức của học sinh còn quá nhỏ tuổi mà thôi. Do đó, ngụ ngôn này không phản ánh một thái độ lãng tránh vấn đề như ông Phan Thiết đã hiểu sai và giải thích sai, mà chỉ nhấn mạnh đến tính thực tiển của đạo đức và trí tuệ trong lời dạy của Phật mà thôi.

III. Đệ Tử Nhà Phật Thần Hóa Phật Tổ và Chư Phật (tr. 99-107)

1. Các sai lầm căn bản

a. Tại sao đạo Phật bị tiêu diệt? Ông Phan Thiết đưa ra ba lý do. Thứ nhất là lý do chính trị, do triều đại Maurya sụp đổ. Thứ hai là lý do tôn giáo, do Phật tổ bài xích thần Brahma và chư thần ngàn xưa của Ấn Độ. Thứ ba là lý do xã hội, do Phật tổ dạy người ta diệt dục.

Trong ba lý do này, chỉ có lý do thứ hai đúng nhưng chưa đủ. Theo tôi, nó là lý do quan trọng nhất, bởi lẽ đạo Phật chủ trương vô thần, không thừa nhận có một đấng sáng thế. Từ quan điểm này, đạo Phật còn nhắm đến phủ nhận 4 giai cấp Bà-la-môn vốn được xem là sự sắp đặt của đấng sáng thế. Chủ trương giai cấp này thật chất là trò bóc lột sức lao động và tập trung quyền lợi về hai giai cấp vua chúa và Bà-la-môn. Đạo Phật đả phá và chống lại quan niệm sai lầm và trái với nguyên lý đạo đức này nên đã ảnh hưởng đến ý thức hệ tôn giáo Bà-la-môn. Nếu để cho đạo Phật phát triển hẳn rằng số lượng người tin vào Brahma và sự tạo dựng ra bốn giai cấp của ngài sẽ không có chỗ để tồn tại, nên các nhà chính trị Bà-la-môn đã tìm cách tiêu diệt Phật giáo. Khi triều đại Maurya không còn tại vị, chính thể Bà-la-môn cai trị, không thể ủng hộ một tôn giáo chống lại quyền lợi và ý thức chính trị bất công của mình như Phật giáo, vì thế Phật giáo không có cơ hội phục hưng. Đó là chuyện thường tình và hiển nhiên, hoàn toàn không thể gọi là yếu tố chính trị.

Kế đến, đức Phật không hề dạy người ta diệt dục như ông Phan Thiết đã xuyên tạc. Như đã trình bày ở chương 5 của tập nhận định này, dục tức ước muốn có nhiều loại, chỉ có những ước muốn bất chánh, có hại cho nhân quần, xã hội, đức Phật mới dạy chấm dứt thôi. Đối với các ước muốn thanh cao, lành mạnh, có lợi cho mình và xã hội, đức Phật khuyến khích làm. Điều quan trọng hơn, đức Phật không bắt mọi người phải tuyệt sinh sản. Từ bỏ truyền sinh chỉ áp dụng cho những vị tu sĩ, muốn trở thành thánh tăng mà thôi, còn người cư sĩ tại gia vẫn có thể lập gia thất bằng hôn nhân chân chánh và không được ngoại tình. Như vậy, rõ ràng cách giải thích của ông Phan Thiết hoàn toàn không chính xác.

b. Cho rằng Phật giáo đại thừa "du nhập tư tưởng thần học Bà-la-môn" (tr. 100) là điều sai lầm căn bản nhất mà ông Phan Thiết đã lập đi lập lại nhiều lần trong tác phẩm của ông. Sự sai lầm này không cần lập lại ở đây.

c. Sai về danh hiệu của các đức Phật (tr. 101, d.18-22): Phật Tỳ-ba?hi (Vipassii) ông Phan Thiết viết sai thành "Tỳ--thi" (Vipassin). Phật Thi-khí (Sikhii), ông Phan Thiết viết sai thành Phật Thi-khi (Sikhin). Phật Tỳ-xá-bà (Vessabhuu), ông Phan Thiết viết sai thành "Vassbhu." Phật Câu-na-hàm (Ko.naagama), ông Phan Thiết viết sai thành "Konagamana."

2. Phủ nhận đức Phật lịch sử (tr. 101-2)

Để nhằm phủ nhận đức Phật không phải là nhân vật lịch sử, ông Phan Thiết viết sai lạc như sau: "Thần thoại do trí tưởng thì Phật thoại chắc cũng do tưởng tượng thôi. Hệ luận dẫn ta đến một nghi vấn có thật một Phật Thích-ca bằng xương bằng thịt giáng sinh vào lịch sử loài người cách nay 26 thế kỷ?" (tr. 102). Câu nghi vấn trên làm cho người đọc chợt nhớ đến ẩn dụ "người mù từ lúc lọt lòng mẹ luôn nghĩ rằng mặt trời và mặt trăng và các mầu sắc là không có thật, vì y chưa từng nhìn thấy chúng; người điếc cho rằng âm thanh chưa từng hiện hữu vì y không nghe được."

3. Ý nghĩa chữ "Phật" (Buddha) (tr. 103)

Trong văn học Phật giáo, có hai tính từ thường được sử dụng để diễn tả hay bổ nghĩa cho từ Phật là sammaaanuttaraa. Sammaa (Paali) hay samyak (Sanskrit) có nghĩa là chân chánh, tuyệt hảo hay toàn hảo. Anuttaraa có nghĩa là "không gì cao hơn" (nothing higher, without a superior), "không có gì sánh bằng được" (incomparable, unsurpassed) hay tuyệt đối (supreme). Do đó, danh hiệu mô tả đức Phật thường xuất hiện trong Sanskrit Phật giáo là "Anuttaraa Samyak Sambodhi" hay trong Paali là "Anuttaraa Sammaa Sambodhi" có nghĩa là "Bậc Giác Ngộ Chân Chánh Vô Thượng" (Vô thượng chánh đẳng chánh giác). Thuật ngữ này còn được gọi gọn hơn là "Sammaa Sambodhi" có nghĩa là "Bậc Giác Ngộ Toàn Hảo." Cũng như người Trung Quốc dịch nghĩa chữ "Phật" (một từ vốn phiên âm từ chữ "Buddha") thành "giác giả," người sử dụng tiếng Anh thường dịch chữ Phật thành "The Enlightened" tức Bậc Sáng Suốt, hay "The Awakened" tức Bậc Giác Ngộ hay Người Tỉnh Thức." Phan Thiết đã theo cách dịch thứ nhất, nên đã suy luận "Như thế ta có thể nhận ra nghĩa nguyên thủy của chữ Phật chỉ người sáng suốt như ý nghĩa của từ điển Anh, Pháp ngày nay." (tr. 103).

Căn cứ theo ý nghĩa từ nguyên Paali và Sanskrit, từ "Buddha" nên dịch ra tiếng Anh là "The Awakened" hơn là "The Enlightened." Cho dù có dùng dịch ngữ "The Enlightened" để giải thích, nghĩa trong tiếng Việt vẫn phải là "Người hay Bậc Giác Ngộ," hơn là "người sáng suốt" hay "người biết hoàn hảo" như Phan Thiết đã nêu ra. Bởi lẽ, trên cuộc đời này, có hàng tỷ tỷ người trong chiều dài lịch sử nhân loại đã từng được xem là những "người sáng suốt" hay "người hiểu biết hoàn hảo" vẫn không được xem là các bậc hiền triết của đời. Giác ngộ và tỉnh thức khỏi vô minh để trở thành một vị Phật là cao siêu và thâm thúy hơn nhiều, so với sự hiểu biết và sáng suốt đơn thuần. Hơn nữa, nếu ông Phan Thiết biết rằng từ "Phật" trong âm Hán Việt của người Việt Nam là cách gọi tắt của thuật ngữ "Phật-đa,uot; một từ phiên âm (chứ không phải dịch nghĩa) từ tiếng Paali và Sanskrit "Buddha" thì có lẽ ông đã không viết những dòng giải thích dư thừa như: "Phật trong tiếng Hán thì vô nghĩa [sic, có nghĩa đâu mà vô]: hợp bởi bộ ‘nhân’ là người ở phía trước và âm ‘phất’ người Tàu đọc là Fù hay Fùơ" (tr. 103). Kế đến chữ "phất" mà ông bảo người Tàu đọc là "fù" hay "fúơ" đó là người Tàu nào: Triều Châu, Phước Kiến, Quảng Đông, Quan Thoại, hay người Tàu của ông tự "tưởng tượng" ra?

4. Ba thân của Phật

Trong phần này có nhiều sai lầm căn bản sau đây:

a. Nói về tam thân Phật, Phan Thiết đã viết "Đời một đức Phật là đời không thời gian và không gian, không có ngay cả hình hài." (tr. 103). Từ lý luận không có cơ sở này, ông dễ dàng đi đến kết luận "cái xác phàm của Thích-ca cũng chỉ là sự lập lại vô lượng cái xác phàm "Thích-ca" khác đã từng hóa sinh trong "lục nẻo luân hồi" của Tam giới" (tr. 104). Lý giải kỳ quái như vậy về học thuyết hóa thân, Phan Thiết viện dẫn ra vài trường hợp để phủ nhận ứng thân.

b. Đối với câu hỏi về bản chất của các vị bồ-tát trong khi hóa thân độ sanh: "Không biết khi hiện ra ngã quỉ, các bồ-tát có ác như quỉ không vì quỉ vốn ác" (tr. 105), xin trả lời vắn tắt rằng ông Phan Thiết chỉ cần liên tưởng câu hỏi này với câu hỏi "khi chúa hài đồng sanh ra trong máng cỏ, chúa hài đồng có hôi mùi của "trâu, bò, dê, ngựa" không và dơ dáy như các loài súc vật này không?"

c. Cách diễn tả cái nam căn của Phật giống như mã âm tàng không có gì là tục tĩu như ông Phan Thiết đã hiểu sai. Đức Phật do tu tập thiền định, cắt đứt gốc rễ của tham ái và ái dục, nên cái nam căn của ngài không giống như của một người bình thường còn đời sống ái ân, tình dục. Hình ảnh cái "của quí" của các con ngựa đực lúc không ló ra ngoài là hình ảnh cụ thể nhất, giúp chúng ta dễ tượng hình ra cái nam căn đặc biệt của Phật. Đây là chuyện mô tả bình thường, không có gì là tục tĩu.

d. Giáo lý báo thân (saa"mbhogakaaya / saa"mbhogika-kaaya) nói lên tính chất nhân quả tương ứng của các hành vi thiện sẽ dẫn đến kết quả thiện, qua hình ảnh của đức Phật. Giáo lý ứng thân (nirmaa.na-kaaya) còn nói lên lòng từ bi và tinh thần giáo hóa không mệt mỏi, đa diện và hiệu quả của các vị Phật. Vì lập cước trên tinh thần xuyên tạc, ông Phan Thiết đã cố tình nhận định sai lệch như sau: "báo thân và ứng thân Phật biểu hiện tâm lý thống trị của con người: các đức Phật chia nhau "quốc độ" mà giáo hóa chúng sinh. Các "vương quốc" Phật y chang lãnh địa của các vua chúa loài người [sic]" (tr. 105).

e. Về Pháp thân (dharma-kaaya)

-- Vì không hiểu, ông Phan Thiết đã đồng hóa các khái niệm khác hẳn nội dung làm một với pháp thân trong đạo Phật: "Nó tương đương với thần tính Brahman và gần tương đương với thần phẩm của Ky-tô giáo và Hồi giáo" (tr. 105)

-- Ông viết sai lầm hơn, khi cố tình đánh đồng Brahman với niết-bàn của đạo Phật: "Brahman là cái lý tột cùng của vạn pháp, là viên mãn của cực lạc [sic]. Đạo Bà-la-môn, đạo Phật, đạo Kỳ-na đều gọi là niết bàn [sic]." (tr. 105).

-- Ông Phan Thiết đã nhầm lẫn khi cho rằng niết-bàn đồng nghĩa với "nhập pháp giới" (tr. 106, d.3).

-- Ông Phan Thiết cũng thiếu hiểu biết khi cho rằng niết-bàn, chân như, nhất như, Tam-miệu tam-bồ-đề, Tam-miệu tam Phật-đà, chánh đẳng chánh giác, và nhập pháp giới có nghĩa là "cái lý tận cùng của vạn pháp" (tr. 106, d.5) và "cái đích cho vạn pháp qui y" (tr. 106, d.16). Sai lầm hơn, khi ông cho "chân như là Brahman, là đại trí" (tr. 106, d.14).

-- Vô ngã là học thuyết duy nhất của Phật Thích-ca mà ông Phan Thiết nhầm lẫn cho rằng của Bà-la-môn: "Thần học Bà-la-môn xem luật luân hồi, nhân quả như một định luật [sic] máy móc vô ngã" (tr. 106, d.17-8).

-- Đây là câu cho thấy ông Phan Thiết không biết gì về triết học Ấn Độ mà thích làm cái trò triết lý chữ nghĩa, để làm cho người đọc lầm lẫn rồi lạc dẫn họ: "Sắt tụ với nam châm, sức hút triệt tiêu tạo ra cảnh thinh không vắng lặng, viên mãn, viên giác, niết bàn . . . nền thần học này bao trùm toàn thể giáo lý của đạo Bà-la-môn, đạo Kỳ-na, đạo Phật" (tr. 106) hay "Đến Phật Thích-ca, Ngài mặc nhiên nhìn nhận luật luân hồi, quả báo trong thần học Bà-la-môn [sic]" (tr. 107).

-- Ngoài ra, ông Phan Thiết còn cố tình giải thích sai ý nghĩa câu "hãy tự mình đốt đuốc lên mà đi," khi cho câu này có nghĩa "từ chối độ sinh" (tr. 107, d.11-2) của Phật Thích-ca. Thực ra, câu tuyên bố của đức Phật nhằm xác định tinh thần tự lực, nhân bản của đạo Phật trong mọi vấn đề đạo đức và trí tuệ của cá nhân. Không có thần linh, thượng đế nào có thể can thiệp vào được sự tiến hóa hay lạc hậu về đạo đức của con người. Con người hoàn toàn chịu trách nhiệm lấy chính đời sống của mình. Độ sinh trong đạo Phật không có nghĩa là cứu chuộc tội lỗi của chúng sanh, mà nhằm chỉ chúng sinh con đường, một lối sống, một lối tu tập, phát triển đạo đức để chúng sanh tự mình giải thoát cho chính mình. Từ chỗ cố tình giải thích bậy bạ lời dạy của đức Phật, ông Phan Thiết nhắm đến việc phủ nhận tinh thần từ bi, giáo hóa độ sanh của đức Phật (tr. 107, d.14-6).

-- Các nhận định còn lại của trang 107 không ăn nhập vào đâu cả, vì dựa trên các nhận định sai lầm nêu trên, thiết nghĩ không cần nêu ra đây.

Nói tóm lại, qua các phần nhận định và đánh giá trên, chúng ta thấy ông Phan Thiết đã vấp phải nhiều sai lầm. Từ việc lẫn lộn 6 phái triết học chính thống với lục sư ngoại đạo, cho đến đồng hóa giáo pháp đặc sắc của Phật với các học thuyết này, với Bà-la-môn, với Kỳ-na giáo và phủ nhận tinh thần từ bi, trí tuệ của đạo Phật v.v. . . cho thấy ông Phan Thiết thiếu kiến thức căn bản về triết học Phật giáo, thiếu tinh thần khách quan, nghiêm túc của một người nghiên cứu. Tất cả các sai lầm đó đã cho thấy ông là một người vô cùng thiển cận và ác kiến đối với đạo Phật, chỉ vì đạo Phật đã vượt lên trên kiến thức kém cỏi cũng như tín ngưỡng thấp kém của ông.


Lời giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 |

 


Cập nhật: 27-4-2000

Trở về thư mục "Điểm sách"

Đầu trang