...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
Kinh
Hoa Sen Chánh Pháp
HT. Thích Trí Quang dịch giải
Phần 3
Phẩm 2: Phương
Tiện (43)
Khi ấy đức Thế tôn thung dung xuất
định, nói với tôn giả Xá lợi phất, tuệ giác Như lai sâu xa vô tận, cửa
ngõ tuệ giác ấy khó biết khó vào. Hết thảy thanh văn duyên giác không
thể biết thấu. Vì sao, vì Như lai đã từng thân gần trăm ngàn vạn ức
vô số chư Phật, thực hành trọn vẹn vô số các pháp đạt đến tuệ giác
vô thượng (44) mà chư Phật ấy đã thực hành, dũng mãnh tinh tiến, danh
tiếng vang khắp, và thành tựu sự chưa từng có rất là sâu xa, ấy là
tùy nghi thuyết pháp, ý hướng khó hiểu. Xá lợi phất, từ khi trở thành
bậc Toàn giác cho đến ngày nay, Như lai đem mọi thứ yếu tố và mọi sự
ví dụ mà diễn rọẤng các cách lập luận, vận dụng vô số phương tiện
ấy dẫn dắt chúng sinh thoát được sự vướng mắc vào điểm này hay điểm
khác. Tại sao Như lai làm được như vậy? Vì Như lai đã hoàn thành sự thấy
biết toàn hảo và sự phương tiện toàn hảo. Xá lợi phất, sự thấy biết
của Như lai rộng lớn sâu xa: những phẩm chất của sự thấy biết ấy
đại loại như bốn tâm vô hạn, bốn trí thông suốt, mười đại năng lực,
bốn sự không sợ, bốn thiền, bốn định, tám sự giải thoát, ba pháp
tam muội (45) , Như lai đã đi sâu vào một cách không có giới hạn, nên
thành tựu sự chưa từng có nói trên. Do đó, Xá lợi phất, Như lai phân
tích và khéo nói các pháp, lời chữ hòa nhã, đẹp lòng mọi người. Lấy
cốt yếu mà nói, thì sự chưa từng có có tính cách vô lượng vô biên,
Như lai đã thành tựu đầy đủ.
Xá lợi phất, thôi, không nên nói
nữa, vì sự chưa từng có, và khó hiểu bậc nhất ấy, mà Như lai đã
thành tựu, là chỉ Như lai với chư vị Như lai mới cứu xét cùng tận và
tuyên thuyết khéo léo về thật tướng các pháp. Thật tướng ấy là các
pháp tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như
vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, bản mạt
cứu cánh như vậy (46) .
Khi ấy đức Thế tôn muốn lặp lại
ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (1) Vô lượng những bậc
- anh hùng trong đời,
- chư thiên nhân loại
- hết thảy chúng sinh,
- không ai hiểu thấu
- đối với Như lai.
- (2) Mười đại năng lực
- bốn sự không sợ
- tám sự giải thoát
- ba pháp tam muội
- cùng với bao nhiêu
- phẩm chất Phật đà
- mà Như lai có,
- thì không một ai
- có thể biết được
- một cách tận cùng.
- (3) Vốn từ vô số
- chư Phật như lai,
- Như lai trọn vẹn
- thực hành các pháp
- tuệ giác vô thượng,
- là pháp cực kỳ
- sâu xa tinh túy
- khó mà thấy biết.
- (4) Trải qua vô lượng
- vạn ức thời kỳ,
- thực hành trọn vẹn
- các pháp ấy rồi,
- Như lai đến ngồi
- nơi bồ đề tràng,
- được đại thành quả
- biết rõ tất cả.
- (5) Đại thành quả này
- biết rõ tướng tánh
- và những nghĩa lý
- của tướng tánh ấy (47) .
- Chỉ có Như lai
- cùng với mười phương
- chư Như lai khác
- mới biết như vậy.
- (6) Và pháp như vậy
- không thể phô bày,
- khái niệm ngôn ngữ
- bặt dấu ở đây.
- (7) Hết thảy chúng sinh
- không ai hiểu nổi
- trừ chư bồ tát
- đức tin vững chắc.
- (8) Những con Phật khác
- dẫu từng hiến cúng
- chư Phật như lai,
- phiền não đã hết,
- đã đến trạng thái
- thân này là thân
- sống chết cuối cùng,
- các vị như vậy
- năng lực của họ
- cũng vẫn bất kham.
- (9) Giả sử tràn đầy
- thế giới loài người
- ai nấy đều như
- Xá lợi phất cả,
- cùng tận tư duy
- chung nhau suy lường,
- cũng không lường được
- tuệ giác Như lai.
- (10) Nếu thật đầy khắp
- mười phương quốc độ
- ai nấy đều như
- Xá lợi phất cả,
- hoặc như các vị
- đại đệ tử khác
- cũng đầy khắp cả
- mười phương quốc độ,
- (11) cùng tận tư duy
- chung nhau suy lường,
- vẫn không biết được
- tuệ giác Như lai.
- (12) Các vị duyên giác
- trí tuệ lanh lợi
- phiền não không còn,
- thân họ cũng là
- cái thân cuối cùng;
- các vị như vậy
- cũng đầy mười phương
- như một rừng tre,
- (13) cùng nhau một lòng,
- trải qua vô lượng
- vạn ức thời kỳ,
- suy nghĩ cho thấu
- tuệ giác chân thật
- mà Như lai có,
- cũng vẫn không thể
- biết được ít phần.
- (14) Các vị bồ tát
- mới phát tâm chí,
- hiến cúng vô số
- chư Phật như lai,
- thấu triệt pháp nghĩa
- lại khéo thuyết pháp;
- (15) các vị như vậy
- như lúa như tre,
- tràn đầy khắp cả
- mười phương quốc độ,
- (16) kết hợp vận dụng
- trí tuệ tinh tế,
- trải qua thời kỳ
- nhiều bằng hằng sa,
- chung sức tư duy
- chung nhau ước lượng,
- cũng không biết được
- tuệ giác Như lai.
- (17) Các vị bồ tát
- đã không thoái chuyển,
- số lượng nhiều bằng
- cát của sông Hằng,
- cùng nhau tìm xét
- cũng không biết được.
- (18) Này Xá lợi phất,
- cái pháp cực kỳ
- sâu xa, tinh túy,
- không còn sai sót,
- ngoài tầm nghĩ bàn,
- Như lai đã biết
- một cách đầy đủ.
- Và chỉ Như lai
- mới biết pháp ấy,
- cũng như chư vị
- Như lai mười phương
- mới biết như vậy.
- (19) Này Xá lợi phất,
- tôn giả nên biết
- lời Như lai nói
- không có mâu thuẫn.
- Đối với cái pháp
- của Như lai nói,
- các người phải có
- đức tin lớn lao.
- Bởi vì nguyên tắc
- của chư Như lai
- sau thì gian dài
- phải nói sự thật.
- (20) Cho nên ngày nay
- Như lai tuyên cáo
- với chư thanh văn
- và chư duyên giác,
- những người đã được
- Như lai làm cho
- thoát khổ thắt buộc
- đạt được niết bàn,
- (21) rằng đó chỉ là
- Như lai vận dụng
- năng lực phương tiện
- thiết ba cỗ xe,
- để ai vướng mắc
- bất cứ chỗ nào
- Như lai cũng dắt
- cho được thoát ra.
Lúc ấy trong đại hội có một
ngàn hai trăm vị a la hán đã hết phiền não, thuộc chúng thanh văn, đại
loại như tôn giả Kiều trần như, cùng tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu bà tắc
và ưu bà di, những người tâm chí thanh văn duyên giác, đều nghĩ như vầy,
tại sao hôm nay đức Thế tôn ân cần tán dương sự phương tiện, bằng cách
nói rằng pháp Như lai được cực kỳ sâu xa tinh túy và khó hiểu, rằng
Như lai nói gì ý hướng cũng khó biết, rằng hết thảy thanh văn duyên
giác không thể đạt đến? Đức Thế tôn nói về sự giải thoát đồng
nhất thì chúng ta cũng thành tựu sự ấy, đạt đến niết bàn. Nhưng hôm
nay thì chúng ta không biết sự ấy về đâu.
Tôn giả Xá lợi phất biết nỗi
hoài nghi trong lòng bốn chúng và chính mình cũng chưa thấu triệt, nên thưa
rằng, bạch đức Thế tôn, vì yếu tố chính và yếu tố phụ nào mà đức
Thế tôn ân cần tán dương sự phương tiện bậc nhất của ngài là pháp
sâu xa, tinh túy và khó hiểu? Hồi nào đến giờ con chưa hề nghe đức Thế
tôn nói như vậy. Hiêển giờ bốn chúng đều nghi ngại. Con thỉnh cầu đức
Thế tôn giải thích vấn đề này cho chúng con: vì lý do nào mà ngài ân cần
tán dương sự phương tiện của ngài là sâu xa, tinh túy và khó hiểu? Tôn
giả Xá lợi phất muốn lặp lại ý nghĩa đã hỏi, nên nói những lời chỉnh
cú sau đây.
- (22) Mặt trời tuệ giác,
- bậc đại thánh triết,
- lâu rồi mới nói
- điều đặc biệt này.
- Là ngài tự nói (48)
- bao nhiêu phẩm chất
- mà Như lai có,
- đại loại như là
- mười đại năng lực
- bốn sự không sợ
- ba pháp tam muội
- bốn thiền bốn định
- tám sự giải thoát,
- toàn là những pháp
- trên sự tư duy
- ngoài tầm thảo luận.
- (23) Ngài tự nói đến
- pháp mà ngài biết
- trong khi ngài ngồi
- nơi bồ đề tràng,
- chứ không một ai
- có thể hỏi thấu.
- Ngài lại tự nói
- ý ngài khó biết,
- điều này cũng không
- một ai hỏi được.
- (24) Không ai hỏi được,
- chỉ ngài tự nói,
- tán dương con đường
- mà ngài đã đi,
- tán dương tuệ giác
- cực kỳ tinh túy
- mà, như chư Phật,
- ngài đã đạt được.
- (25) Các vị la hán
- đã hết phiền não,
- cùng với những vị
- cầu được niết bàn,
- hôm nay cùng sa
- vào lưới ngờ vực:
- Thế tôn vì gì
- tự nói như vậy?
- (26) Những vị cầu được
- tuệ giác duyên giác,
- các vị tỷ kheo
- và tỷ kheo ni,
- cùng với tất cả
- tám bộ thiên long,
- ai cũng bối rối
- mà nhìn lẫn nhau
- và nhìn lên ngài,
- một bậc hoàn hảo
- cả hai phương diện
- phước đức tuệ giác.
- (27) Bạch đức Thế tôn,
- việc này thế nào?
- xin ngài giải thích
- cho chúng con rõ.
- (28) Trong chúng thanh văn,
- Thế tôn nói con
- là bậc thứ nhất,
- nhưng nay chính con
- tự mình đối với
- tuệ giác của mình
- cũng sinh nghi hoặc:
- không rõ tuệ ấy
- đã là cứu cánh
- hay phải tới nữa (49) ?
- (29) Bao nhiêu con Phật
- sinh từ miệng Phật
- nay đang chắp tay
- ngước nhìn chờ đợi,
- ước mong Thế tôn
- xuất ra âm thanh
- cực kỳ tuyệt diệu,
- kịp thời nói cho
- về pháp của ngài
- đúng như pháp ấy.
- (30) Tám bộ thiên long
- số bằng hằng sa,
- chư vị bồ tát
- cầu tuệ giác Phật
- số lượng đại khái
- cũng có tám vạn,
- (31) Lại còn xuất từ
- vạn ức các nước,
- các vị luân vương
- cùng nhau đến đây,
- ai cũng chắp tay
- đem lòng cung kính
- mong muốn được nghe
- con đường hoàn hảo.
Đức Thế tôn bảo tôn giả Xá lợi
phất, thôi thôi, không nên nói. Nói vấn đề này thì cả thế gian, trong
đó có chư thiên và nhân loại, sẽ kinh sợ ngờ vực. Tôn giả Xá lợi phất
lại thưa, bạch đức Thế tôn, xin đức Thế tôn dạy cho vấn đề này, vấn
đề này xin đức Thế tôn dạy cho. Vì đại hội này nhiều đến trăm ngàn,
vạn ức, vô số, có nhiều người từng gặp chư Phật, các căn (50) lanh lợi,
trí tuệ sáng tỏ, nghe đức Thế tôn dạy thì có thể kính tin. Tôn giả
Xá lợi phất muốn lặp lại ý nghĩa đã thưa, nên nói lời chỉnh cú sau
đây.
- (32) Bạch đức Vô thượng,
- vị Vua các pháp!
- xin ngài dạy cho,
- không cần e ngại.
- Đại hội các chúng
- vô số như vầy,
- tất có những người
- có thể kính tin.
Đức Thế tôn lại ngăn tôn giả
Xá lợi phất, rằng nếu Như lai nói vấn đề này thì cả thế gian, trong
đó có chư thiên, nhân loại và tu la, sẽ cùng kinh sợ, ngờ vực, những vị
tỷ kheo tăng thượng mạn sẽ rơi xuống hố lớn. Đức Thế tôn lặp lại
ý ngài bằng lời chỉnh cú sau đây.
- (33) Thôi thôi, đừng hỏi!
- Pháp của Như lai
- tinh túy, khó biết.
- Những kẻ thượng mạn
- nghe nói pháp ấy
- tất không kính tin.
Tôn giả Xá lợi phất lại thưa, bạch
đức Thế tôn, xin đức Thế tôn dạy cho vấn đề này, vấn đề này xin
đức Thế tôn dạy cho. Nay trong đại hội này, những người như con, và
trăm ngàn vạn ức người, đời đời đã từng tiếp nhận sự giáo hóa của
đức Thế tôn; những người như vậy chắc chắn có thể kính tin, ổn định
lâu dài và lợi ích lớn lao. Tôn giả Xá lợi phất lặp lại ý mình bằng
những lời chỉnh cú sau đây.
- (34) Thưa đấng Vô thượng,
- phước trí toàn hảo!
- xin ngài dạy cho
- cái pháp bậc nhất.
- Con là con trưởng
- của đức Thế tôn,
- con thỉnh cầu ngài
- dạy cho chúng con.
- Trong đại hội này
- có vô số người
- có thể kính tin
- về pháp ngài dạy.
- (35) Đời đời liên tiếp,
- Thế tôn đã từng
- giáo hóa tiếp độ
- những người như vầy.
- Nay họ chắp tay
- đồng nhất tâm nguyện
- muốn nghe và nhận
- lời Thế tôn nói.
- (36) Những người như con
- một ngàn hai trăm,
- cùng với các vị
- cầu tuệ giác Phật,
- xin đức Thế tôn
- vì những người này
- rủ lòng thương xót
- mà giảng giải cho.
- Những người này đây
- nghe được pháp này
- thì lòng sinh ra
- hoan hỷ cùng cực.
Khi ấy đức Thế tôn bảo tôn giả
Xá lợi phất, tôn giả đã thiết tha thỉnh cầu đến lần thứ ba, nên Như
lai không thể không nói. Vậy tôn giả hãy lắng nghe, hãy khéo nghĩ và
khéo nhớ! Như lai sẽ phân tích giảng giải cho tôn giả. Khi đức Thế tôn
dạy như vậy, trong đại hội có đến năm ngàn tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu
bà tắc và ưu bà di, tức thì đứng dậy khỏi chỗ họ ngồi, đảnh lễ
đức Thế tôn mà lui ra. Những người này gốc rễ tội lỗi về tăng thượng
mạn thật là sâu nặng, chưa được tự cho đã được, chưa chứng tự
cho đã chứng, lầm lẫn đến thế nên họ không ở lại. Đức Thế tôn cũng
yên lặng mà không ngăn cản. Ngài bảo tôn giả Xá lợi phất, đại hội
này của Như lai nay không còn trấu lép (51) , mà chỉ toàn là hạt chắc.
Xá lợi phất, tăng thượng mạn như những người kia thì lui ra cũng tốt.
Bây giờ tôn giả hãy nghe cho khéo, Như lai sẽ giảng giải cho tôn giả.
Tôn giả Xá lợi phất thưa, dạ, bạch đức Thế tôn; chúng con ước nguyện
và thích thú muốn nghe.
Đức Thế tôn bảo tôn giả Xá lợi
phất, cái pháp tinh túy này Như lai thỉnh thoảng mới nói, như hoa ưu đàm
thỉnh thoảng mới xuất hiện một lần. Xá lợi phất, chư vị hãy tin lời
Như lai nói không trống rỗng, dối trá. Xá lợi phất, Như lai tùy nghi thuyết
pháp, ý hướng khó hiểu. Tại sao, vì Như lai hoạt dụng vô số phương tiện,
trong đó gồm có các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ, mà diễn đạt về
pháp. Pháp ấy không phải tư duy phân tích mà lĩnh hội được. Pháp ấy
chỉ có chư Phật như lai mới chứng biết.
Sự thể là chư Phật như lai chỉ
vì lý do duy nhất và trọng đại mà xuất hiện thế gian. Xá lợi phất,
lý do duy nhất và trọng đại mà chư Phật như lai xuất hiện thế gian là
gì ? Là chư Phật như lai muốn làm cho chúng sinh khai mở sự thấy biết của
Phật (52) nên xuất hiện thế gian, muốn chỉ thị cho chúng sinh sự thấy
biết của Phật nên xuất hiện thế gian, muốn làm cho chúng sinh tỉnh ngộ
sự thấy biết của Phật nên xuất hiện thế gian, muốn làm cho chúng sinh
nhập vào con đường thấy biết của Phật nên xuất hiện thế gian (53) .
Xá lợi phất, như thế đó là lý do duy nhất và trọng đại mà chư Phật
như lai xuất hiện thế gian. Và Xá lợi phất, như thế đó tức là chư Phật
như lai chỉ giáo hóa bồ tát, nghĩa là làm gì cũng thường vì một việc,
ấy là đem sự thấy biết của Phật mà chỉ thị thức tỉnh cho chúng
sinh.
Xá lợi phất, Như lai chỉ đem cỗ
xe duy nhất là cỗ xe Phật đà mà thuyết pháp cho chúng sinh, không có cỗ
xe nào khác dầu là cỗ xe thứ hai hay là cỗ xe thứ ba. Xá lợi phất,
pháp của chư Phật mười phương cũng là như vậy. Xá lợi phất, chư Phật
quá khứ đã vận dụng vô số phương tiện, trong đó gồm có các thứ yếu
tố, ví dụ và lời chữ, mà thuyết pháp cho chúng sinh, pháp ấy toàn là của
cỗ xe Phật đà duy nhất, nên chúng sinh nghe pháp nơi chư Phật ấy thì cứu
cánh đều được tuệ giác biết tất cả. Chư Phật vị lai sẽ xuất hiện
thế gian cũng vận dụng vô số phương tiện, trong đó gồm có các thứ yếu
tố, ví dụ và lời chữ, mà thuyết pháp cho chúng sinh, pháp ấy toàn là của
cỗ xe Phật đà duy nhất, nên chúng sinh nghe pháp nơi chư Phật ấy thì cứu
cánh cũng đều được tuệ giác biết tất cả. Hiện tại, trong vô lượng
trăm ngàn vạn ức cõi Phật khắp cả mười phương, chư Phật đang làm lợi
ích và yên vui rất nhiều cho chúng sinh, chư Phật như vậy cũng vận dụng
vô số phương tiện, trong đó gồm có các thứ yếu tố, ví dụ và lời
chữ, mà thuyết pháp cho chúng sinh, pháp ấy toàn là của cỗ xe Phật đà
duy nhất, nên chúng sinh nghe pháp nơi chư Phật ấy thì cứu cánh cũng đều
được tuệ giác biết tất cả. Xá lợi phất, chư Phật ba đời trong mười
phương làm như vậy là đồng nghĩa với việc (54) chỉ giáo hóa bồ tát:
(54B) muốn đem sự thấy biết của Phật chỉ thị cho chúng sinh, muốn đem
sự thấy biết của Phật thức tỉnh cho chúng sinh, muốn dẫn chúng sinh
vào con đường (55) thấy biết của Phật. Xá lợi phất, nay Như lai cũng làm
như vậy. Như lai biết rõ những thị hiếu và vướng mắc của các loại
chúng sinh; tùy bản tính của họ, Như lai vận dụng các thứ yếu tố, ví
dụ và lời chữ, nghĩa là vận dụng năng lực phương tiện, mà thuyết
pháp. Xá lợi phất, Như lai làm như vậy toàn là để cho họ cùng được
tuệ giác biết tất cả của cỗ xe Phật đà duy nhất.
Xá lợi phất, như vậy là trong mười
phương quốc độ, cỗ xe thứ hai còn không có, huống chi có cỗ xe thứ
ba. Nhưng, Xá lợi phất, chư Phật như lai xuất hiện trong thời kỳ dữ dội
thì đó là thời kỳ đủ cả năm thứ vẩn đục: thời kỳ vẩn đục, tâm
lý vẩn đục, con người vẩn đục, kiến thức vẩn đục, mạng sống vẩn
đục. Khi thời kỳ vẩn đục loạn lên, thì chúng sinh dơ bẩn dày nặng,
keo lẫn, tham lam, ganh ghét, hoàn thành đủ thứ bất thiện, nên chư Phật
như lai phải vận dụng năng lực phương tiện : chính nơi cỗ xe duy nhất
là cỗ xe Phật đà mà giả thiết ra, nói có ba cỗ xe. Do đó, Xá lợi phất,
nếu là đệ tử của Như lai, tự gọi là La hán, là Duyên giác, mà không
nghe không biết đến việc Như lai chỉ giáo hóa Bồ tát như trên (56) ,
thì những người ấy không phải đệ tử của Như lai: không phải la hán
không phải duyên giác. Những vị tỷ kheo và tỷ kheo ni như vậy tự cho đã
thành la hán, thân mình là thân cuối cùng, mình cứu cánh niết bàn, rồi
không còn có chí mong cầu tuệ giác vô thượng, thì tôn giả nên biết họ
toàn là người tăng thượng mạn. Vì lẽ nếu có vị nào thật được thành
la hán mà không tin pháp này thì vô lý, trừ ra sau khi Như lai đã nhập diệt,
trước mặt họ không có Như lai nữa - bởi vì sau khi Như lai nhập diệt,
kinh Pháp hoa này có ai tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được
thuộc lòng, lý giải ý nghĩa (57) ..., người ấy thật khó có. Nếu gặp
đức Phật khác thì đối với kinh này họ nhận thức được ngay.
Nói tóm, Xá lợi phất, chư vị hãy
nhất tâm mà tin tưởng, lý giải, tiếp nhận và ghi nhớ lời của Như lai
nói. Lời của chư Phật như lai nói thì không trống rỗng, dối trá, nói rằng
không có cỗ xe nào khác mà chỉ có cỗ xe duy nhất là cỗ xe Phật đà.
Khi ấy đức Thế tôn muốn lặp lại
ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (37) Chư vị tỷ kheo
- và tỷ kheo ni
- mà có thượng mạn,
- cùng ưu bà tắc
- và ưu bà di
- mà lòng không tin,
- bốn chúng như vậy
- số có năm ngàn.
- (38) Họ không tự thấy
- mình đã khinh suất.
- Họ thiếu giới hạnh,
- che dấu tì vết.
- Hạng trí nhỏ ấy
- đã lui hết rồi.
- (39) Trong đại hội này
- họ là cặn bã.
- Họ lui là vì
- uy thần Như lai.
- Họ là những kẻ
- thiếu cả phước đức,
- không kham tiếp nhận
- diệu pháp như vầy.
- (40) Trong đại hội này
- nay hết trấu lép,
- còn lại chỉ có
- toàn là hạt chắc.
- (41) Này Xá lợi phất,
- hãy nghe cho khéo
- về pháp Như lai
- đã thành tựu được,
- và về phương tiện
- Như lai hoạt dụng
- để nói pháp ấy
- cho các chúng sinh.
- *
- (42) Quan niệm, đạo hạnh,
- thị hiếu, khuynh hướng,
- hành vi lành dữ
- đời trước đã làm,
- tất cả điều này
- của các chúng sinh
- Như lai nhận thức
- rất là rõ ràng.
- (43) Thế rồi Như lai
- sử dụng mọi thứ
- yếu tố, ví dụ,
- cùng với lời chữ,
- nghĩa là dùng đến
- năng lực phương tiện,
- làm cho chúng sinh
- hoan hỷ tất cả.
- (44) Cho nên Như lai
- đã nói tản văn,
- chỉnh cú độc lập,
- việc cũ, đời trước,
- việc hiếm, nguyên do,
- hoặc nói ví dụ,
- chỉnh cú thích ứng,
- cùng với thảo luận (58) .
- (45) Những kẻ ám độn
- chỉ thích pháp nhỏ,
- vướng mắc sinh tử;
- nơi vô số Phật
- họ đã không đi
- theo đường tuyệt diệu.
- Họ bị đau khổ
- dày vò tác loạn.
- Như lai vì họ
- mà nói niết bàn.
- (46) Như lai thiết lập
- phương tiện như vậy,
- chủ ý làm cho
- họ được nhập vào
- tuệ giác Phật đà,
- nhưng chưa hề nói
- tất cả các người
- đều sẽ thành Phật.
- (47) Sở dĩ Như lai
- chưa nói như vậy
- là vì chưa đến
- thì gian đáng nói.
- Nhưng nay là lúc
- Như lai quyết định
- nói về giáo pháp
- cỗ xe vĩ đại.
- (48) Giáo pháp ở trong
- chín thể loại trên,
- là do Như lai
- tùy thuận chúng sinh
- mà tuyên thuyết ra,
- nhưng mà bản ý
- là dẫn họ vào
- cỗ xe vĩ đại.
- Vì lý do ấy,
- ngày nay Như lai
- nói về bản kinh
- Diệu pháp liên hoa.
- (49) Có những con Phật
- tâm trí trong sáng
- tánh tình ôn hòa
- các căn lanh lợi,
- đã từng đi theo
- con đường tuyệt diệu
- ở nơi vô lượng
- chư Phật như lai;
- chính vì những người
- con Phật như vậy
- mà nay Như lai
- nói kinh Pháp hoa,
- bản kinh thuộc về
- cỗ xe vĩ đại.
- (50) Qua đó Như lai
- sẽ thọ ký cho
- những con Phật ấy
- trong thì vị lai
- được thành Phật đà -
- Được thành vì họ
- đã đem tâm chí
- cực kỳ sâu xa
- tưởng niệm Phật đà
- nghiêm giữ giới pháp.
- (51) Những con Phật ấy
- nghe được thành Phật
- thì nỗi mừng lớn
- tràn khắp cơ thể.
- Như lai biết rõ
- tâm chí cùng với
- đạo hạnh của họ,
- nên mới nói cho
- bản kinh thuộc về
- cỗ xe vĩ đại.
- (52) Và là thanh văn
- hay là bồ tát,
- nghe kinh như vậy
- của Như lai nói,
- thì dẫu chỉ được
- một bài chỉnh cú,
- cũng thành Phật cả,
- không nghi gì được.
- (53) Khắp các cõi Phật
- trong cả mười phương,
- chỉ có diệu pháp
- cỗ xe duy nhất.
- Cỗ xe thứ hai
- đã không thực có,
- cũng không thực có
- cỗ xe thứ ba,
- trừ ra Như lai
- phương tiện tuyên thuyết -
- là chỉ thiện dụng
- những danh từ giả
- mà dẫn dắt cho
- các loại chúng sinh.
- (54) Chính vì công bố
- tuệ giác Phật đà,
- cho nên Như lai
- xuất hiện thế gian.
- Chỉ một việc này
- là việc đích thực,
- còn hai việc khác
- không đích thực đâu.
- Như lai tuyệt đối
- không muốn sử dụng
- cỗ xe thấp nhỏ
- mà chở chúng sinh.
- (55) Như lai tự ngồi
- cỗ xe vĩ đại,
- cỗ xe được có
- những pháp như là
- định, tuệ và lực
- trang sức huy hoàng,
- Như lai sử dụng
- mà chở chúng sinh.
- (56) Như lai tự chứng
- tuệ giác vô thượng
- là xe vĩ đại
- có tính bình đẳng.
- Nếu đem hóa độ
- bằng xe thấp nhỏ,
- thì dẫu hóa độ
- một người mà thôi,
- Như lai cũng rơi
- vào sự tham lẫn:
- ấy là một việc
- không chấp nhận được.
- (57) Mọi người tín ngưỡng
- qui y Như lai.
- Như lai không hề
- lừa dối ai cả,
- không cả tâm ý
- tham lam ganh ghét,
- triệt hết sự xấu
- ở trong các pháp.
- Cho nên khắp trong
- mười phương quốc độ,
- chỉ có Như lai
- không e sợ gì.
- (58) Với cái thân thể
- tướng hảo trang nghiêm,
- với cái tuệ giác
- soi sáng tất cả,
- và được vô lượng
- chúng sinh tôn trọng,
- Như lai công bố
- ấn tín thật tướng (59) .
- (59- 60) Này Xá lợi phất,
- tôn giả nên biết
- Như lai vốn lập
- chí nguyện cao rộng
- là muốn làm cho
- hết thảy chúng sinh
- đều như Như lai
- không khác gì cả.
- Đúng như chí nguyện
- Như lai đã lập,
- ngày nay Như lai
- thực hiện đầy đủ,
- cho nên Như lai
- giáo hóa tất cả,
- làm cho vào được
- tuệ giác Phật đà.
- (61) Nhưng nếu Như lai
- gặp ai cũng đem
- tuệ giác Phật đà
- mà giáo hóa cho,
- thì kẻ vô trí
- sẽ bị thác loạn,
- mù mờ, lầm lẫn,
- không thể tiếp nhận.
- (62) Như lai nhận thức
- những kẻ như vậy
- chưa từng sửa sang
- gốc rễ pháp lành,
- dính chắc vào nơi
- năm thứ dục lạc,
- khổ não vì những
- mù quáng, đam mê.
- (63) Chính vì nhân tố
- năm thứ dục lạc
- mà họ sa vào
- ba đường độc dữ.
- Luân hồi khắp cả
- sáu nẻo sống chết,
- lãnh chịu đủ hết
- khổ sở độc địa.
- Hình hài hèn kém
- có bởi bào thai,
- đời đời liên tiếp
- cứ thêm lên mãi.
- Họ là những kẻ
- mỏng đức thiếu phước,
- và bị đủ thứ
- khổ não bức bách.
- (64) Nên họ lạc vào
- rừng rậm tà kiến,
- chấp có thế này
- chấp không thế khác.
- Căn cứ những thứ
- tà kiến như vậy,
- họ lần đủ cả
- sáu hai tà kiến,
- đắm sâu vào trong
- chủ thuyết hư vọng,
- chấp nhận cứng chắc
- không thể xả bỏ.
- (65) Họ đầy ngã mạn,
- tự cao, dua nịnh,
- quanh co, xảo trá.
- Vạn ức thời kỳ
- họ không nghe được
- danh từ Phật đà,
- chánh pháp Phật đà
- càng không nghe thấy.
- Những người như vậy
- thật khó hóa độ.
- (66) Này Xá lợi phất,
- vì những người ấy
- cho nên Như lai
- lập chước phương tiện:
- nói cho họ biết
- con đường diệt khổ,
- chỉ cho họ rõ
- về sự niết bàn.
- Nhưng mà Như lai
- dẫu nói niết bàn,
- sự niết bàn đó
- chưa thật niết bàn.
- (67) Vì vậy Như lai
- khai thị nguyên lý (60) :
- các pháp xưa nay
- thường tự vắng lặng.
- Con Phật đi trọn
- đường đi của mình (61)
- thì trong tương lai
- được thành Phật đà,
- như thế mới là
- niết bàn đích thực.
- (68) Như vậy đủ thấy
- do phương tiện lực
- mà Như lai có,
- Như lai khai thị
- đủ hết các pháp
- của ba cỗ xe;
- kỳ thật tất cả
- chư Phật như lai
- đều chỉ nói đến
- cỗ xe duy nhất.
- (69) Ngày nay đại hội
- hãy bỏ nghi hoặc.
- Lời chư Phật nói
- không khác sự thật:
- chỉ có cỗ xe
- Phật đà duy nhất,
- không hai cỗ xe
- thứ hai thứ ba.
- *
- (70) Vô số thời kỳ
- thuộc thì quá khứ,
- vô lượng chư Phật
- đã nhập niết bàn;
- những loại số mục
- trăm ngàn vạn ức
- không thể đem ra
- mà tính cho được.
- (71) Chư Phật như vậy
- đã dùng đủ thứ
- yếu tố, ví dụ
- của phương tiện lực,
- diễn đạt thật tướng
- tất cả các pháp.
- (72) Nghĩa là các ngài
- cũng nói giáo pháp
- cỗ xe duy nhất,
- giáo hóa chúng sinh
- làm cho vào được
- tuệ giác Phật đà.
- (73) Chư Phật quá khứ,
- những chúa thánh triết,
- biết rõ thị hiếu
- từ trong thâm tâm
- của cả thế gian,
- trong đó bao gồm
- chư thiên, nhân loại
- và bao loài khác,
- cho nên sử dụng
- phương tiện khác nhau
- để giúp phát lộ
- chân lý bậc nhất (62) .
- (74- 75) Ấy là ai gặp
- chư Phật quá khứ,
- được nghe thuyết pháp
- và rồi bố thí,
- giữ giới, nhẫn nhục,
- cùng với tinh tiến,
- thiền định, trí tuệ,
- làm đủ các pháp
- của cả hai loại
- phước đức tuệ giác (63) ,
- thì những người ấy
- đã thành Phật tuệ (64) .
- (76) Chư Phật quá khứ
- nhập niết bàn rồi,
- ai có tâm lý
- tốt đẹp mềm dịu,
- thì những người ấy
- đã thành Phật tuệ.
- (77- 78) Chư Phật quá khứ
- nhập niết bàn rồi,
- những ai hiến cúng
- xá lợi các ngài,
- bằng cách xây dựng
- vạn ức chùa tháp (65) ,
- lại đem bạc, vàng,
- cùng với pha lê,
- xa cừ, mã não,
- mai khôi, lưu ly,
- trang hoàng quang đãng
- trần thiết tráng lệ,
- thì những người ấy
- đã thành Phật tuệ.
- (79- 80) Ai dựng chùa tháp
- bằng đá cẩm thạch,
- bằng những thứ gỗ
- đàn hương, trầm hương,
- cùng với gỗ mật
- và gỗ quí khác;
- ai dựng chùa tháp
- bằng gạch, đất sét;
- hay nơi hoang dã
- đắp nổi gò đất
- tạo thành chùa tháp
- chư Phật quá khứ;
- (81) thậm chí trẻ con
- vui đùa đắp cát
- mà tưởng tượng rằng
- xây dựng tháp Phật,
- tất cả người này
- đã thành Phật tuệ.
- (82) Ai vì chư Phật
- trong thì quá khứ
- mà tạo hình tượng
- chạm trổ tướng tốt,
- thì những người ấy
- đã thành Phật tuệ.
- (83) Hoặc tạo tượng Phật
- bằng bảy chất quí,
- bằng các loại đồng
- vàng, đỏ và trắng,
- (84) bằng chì, thiếc, sắt,
- gỗ với đất sét;
- hoặc dùng các thứ
- keo, sơn, vải bố,
- bồi đắp tô chuốt
- mà làm tượng Phật;
- tất cả người này
- đã thành Phật tuệ.
- (85) Hoặc dùng hội họa
- vẽ ra tượng Phật
- đủ cả các tướng
- trăm phước trang nghiêm,
- tự mình vẽ ra
- hay nói người vẽ,
- thì những người ấy
- đã thành Phật tuệ.
- (86) Đến nỗi trẻ con
- dùng cỏ, cây, bút,
- ngón tay, móng tay,
- vẽ chơi tượng Phật,
- (87) thì những trẻ ấy
- công đức dồn chứa,
- từ bi hoàn hảo,
- đã thành Phật tuệ,
- và chỉ giáo hóa
- chư vị bồ tát,
- cứu độ vô lượng
- các loại chúng sinh (66) .
- (88) Nếu ai đối với
- chùa tháp, hình tượng,
- tượng ngọc, tượng vẽ
- chư Phật quá khứ,
- mà đem bông hoa
- các loại hương liệu
- tràng phan bảo cái
- cung kính hiến cúng;
- (89- 92) nếu ai tấu nhạc:
- đánh trống, thổi còi,
- thổi ốc, ống tiêu,
- ống sáo, đàn cầm,
- đàn hầu, tỳ bà,
- chiêng nhỏ, bạt đồng,
- đem hết âm thanh
- nghe hay như vậy
- hiến lên chư Phật
- trong thì quá khứ;
- hoặc là hoan hỷ
- ca hát, ngâm vịnh,
- tán dương đức tính
- chư Phật quá khứ;
- và làm như vậy
- dầu một tiếng nhỏ;
- tất cả người này
- đã thành Phật tuệ.
- (93) Những ai trong lòng
- tư tưởng xao lãng,
- chỉ được mỗi một
- bông hoa mà thôi,
- và chỉ hiến cúng
- tượng vẽ mà thôi,
- cũng vẫn dần dần
- gặp vô số Phật.
- (94) Ai biết lễ bái,
- hay chỉ chắp tay,
- đến nỗi đưa lên
- chỉ một cánh tay,
- hoặc chỉ hơi khẽ
- cúi đầu mình xuống,
- hiến cúng tượng Phật
- bằng những cách ấy
- cũng đã dần dần
- gặp vô lượng Phật,
- tự thành tựu được
- tuệ giác vô thượng,
- hóa độ rộng rãi
- vô số các chúng,
- và rồi nhập vào
- niết bàn hoàn toàn
- tựa như củi hết
- thì lửa cũng tắt (67) .
- (95) Những kẻ trong lòng
- tư tưởng xao lãng,
- bước vào chùa tháp
- chư Phật quá khứ,
- chỉ nói một tiếng
- con tôn kính Phật,
- thì những người ấy
- đã thành Phật tuệ.
- (96) Ở nơi chư Phật
- quá khứ như vậy,
- mà lúc các ngài
- đang còn ở đời
- hay lúc các ngài
- nhập niết bàn rồi,
- những ai nghe danh (68)
- của pháp như vầy,
- thì những người ấy
- đã thành Phật tuệ.
- *
- (97) Chư Phật như lai
- trong thì vị lai
- số lượng vô số,
- các ngài cũng dùng
- mọi cách phương tiện
- tuyên thuyết về pháp.
- (98) Các ngài cũng dùng
- vô số phương tiện
- cứu thoát chúng sinh,
- dẫn vào tuệ giác
- không còn sai sót
- của chư Phật đà.
- (99) Những người được nghe
- pháp các ngài thuyết,
- thì không một ai
- không thành Phật đà.
- Bởi vì các ngài
- cũng lập thệ nguyện
- nguyện đem trí Phật
- mà mình hoàn thành
- dìu dắt hết thảy
- các loại chúng sinh
- cũng được hoàn thành
- trí Phật như vậy.
- (100) Chư Phật vị lai
- dẫu cũng sẽ nói
- về các pháp môn
- nhiều đến vạn ức,
- kỳ thật chỉ vì
- cỗ xe duy nhất.
- (101) Chư Phật (69) : các đấng
- phước tuệ hoàn hảo,
- thấy biết các pháp
- thường không cố định,
- giống Phật cũng phát
- từ các yếu tố;
- thấy biết như vậy
- nên chư Phật đà
- tuyên thuyết giáo pháp
- cỗ xe duy nhất.
- (102) Chính vì vốn là
- bản thể an trú,
- bản thể nguyên vị,
- cho nên thật tướng
- của chính thế gian
- cũng vẫn thường trú;
- tại bồ đề tràng
- các đức Đạo sư
- biết rõ như vậy,
- nên dùng phương tiện
- tuyên thuyết giáo pháp
- cỗ xe duy nhất.
- *
- (103) Chư Phật hiện tại
- ở khắp mười phương,
- toàn là những bậc trời
- người hiến cúng,
- số lượng nhiều như
- cát của sông Hằng.
- Chư Phật như vậy
- xuất hiện thế gian,
- vì muốn làm cho
- chúng sinh yên vui
- nên cũng tuyên thuyết
- về diệu pháp này.
- (104) Chư Phật như vậy
- thấu triệt nguyên lý
- vắng lặng bậc nhất,
- và rồi áp dụng
- năng lực phương tiện,
- phô bày đủ hết
- các loại chánh pháp;
- tuy làm như vậy
- mà thật chỉ vì
- cỗ xe Phật đà.
- (105- 106) Tính nết, quan niệm,
- việc làm đời trước,
- thị hiếu, khuynh hướng,
- nỗ lực, năng lực,
- các căn lanh chậm,
- chư Phật biết rõ
- tất cả điều này
- của các chúng sinh.
- Thế rồi các ngài
- áp dụng đủ thứ
- yếu tố, ví dụ,
- cùng với lời chữ,
- tùy sự nên nói
- phương tiện mà nói.
- *
- (107) Ngày nay Như lai
- cũng làm như vậy.
- Để làm yên vui
- cho các chúng sinh,
- Như lai thiện dụng
- các cách huấn dụ,
- tuyên thuyết biểu thị
- tuệ giác Phật đà.
- (108) Với trí tuệ lực,
- Như lai nhận thức
- bản tính, thị hiếu
- của các chúng sinh,
- phương tiện thuyết pháp
- làm hoan hỷ cả.
- (109) Này Xá lợi phất,
- tôn giả nên biết,
- Như lai sử dụng
- mắt Phật mà nhìn
- thì thấy chúng sinh
- trong cả sáu đường
- đều quá nghèo nàn
- phước đức tuệ giác,
- lạc vào đường hiểm
- của chốn sống chết,
- cái khổ liên tục
- không hề đứt mất.
- (110) Họ dính sâu xa
- vào năm dục lạc,
- như bò đuôi dài
- tự cưng đuôi nó.
- Tham lam đam mê
- tự che phủ lấy,
- làm họ đui mù
- không thấy gì cả:
- không biết tìm Phật
- bậc cực hùng mạnh,
- không biết cầu Pháp
- yếu tố dứt khổ.
- (111) Họ đi sâu vào
- chủ thuyết sai lầm,
- sử dụng đau khổ
- mong hết đau khổ.
- Chính vì bao kẻ
- như thế này đây,
- Như lai động lòng
- thương xót lớn lao.
- (112- 113) Trong khi mới ngồi
- nơi bồ đề tràng,
- vừa thành tựu được
- tuệ giác vô thượng,
- Như lai nhìn vào
- bồ đề đại thọ,
- lại còn kinh hành
- quanh đại thọ ấy,
- ba tuần liên tiếp
- suy nghĩ như vầy:
- Tuệ giác Như lai
- đã thành tựu được
- thì rất tinh túy
- cao tột bậc nhất;
- còn như các căn
- của bao chúng sinh
- thì quá chậm chạp,
- lại bị cái ngu
- vì ham dục lạc
- làm mù tâm trí,
- những kẻ như vậy
- làm sao hóa độ?
- (114- 116) Khi ấy các vị
- Phạn vương, Đế thích,
- bốn Đại thiên vương
- hộ vệ thế gian,
- Đại tự tại thiên,
- cùng các thiên chúng
- tùy thuộc của họ
- nhiều đến ngàn vạn,
- cung kính chắp tay
- đảnh lễ thỉnh cầu
- Như lai chuyển đẩy
- bánh xe chánh pháp.
- Như lai tức thì
- suy nghĩ như vầy:
- Nếu chỉ tán dương
- cỗ xe Phật đà,
- những kẻ chìm ngập
- ở trong đau khổ
- không thể tin được
- về pháp như vậy.
- Rồi vì phá hoại
- không tin vào pháp,
- nên rơi vào lại
- trong ba đường dữ.
- Như vậy thà là
- Như lai không nói,
- mà nên mau chóng
- nhập vào niết bàn.
- (117) Nhưng rồi Như lai
- tức thì nhớ đến
- chư Phật như lai
- trong thì quá khứ,
- nhớ đến phương tiện
- các ngài thi hành,
- và nghĩ như vầy:
- tuệ giác vô thượng
- mà nay Như lai
- đã thực hiện được,
- Như lai cũng phải
- áp dụng phương tiện
- mà tuyên thuyết ra
- đủ ba cỗ xe.
- (118) Ngay khi Như lai
- suy nghĩ như vậy,
- chư Phật mười phương
- đều hiện trước mắt,
- dùng tiếng Phạn thiên
- khuyến khích Như lai,
- nói rằng tốt lắm
- Thích ca thế tôn!
- (119) Ngài là vị thầy
- dẫn đạo bậc nhất!
- Ngài đã hoàn thành
- cái pháp tối thượng,
- thì nên thể theo
- hết thảy chư Phật
- mà cùng dùng đến
- nghệ thuật phương tiện.
- (120) Chư Phật chúng tôi
- cũng hoàn thành được
- cái pháp bậc nhất
- rất tinh túy ấy,
- và vì chúng sinh
- các loại khác nhau
- nên phải phân ra
- nói ba cỗ xe.
- Vì kẻ trí nhỏ
- chỉ thích pháp nhỏ,
- không thể tự tín
- mình sẽ làm Phật.
- (121) Do vậy chúng tôi
- áp dụng phương tiện,
- phân nói các loại
- tuệ giác ba xe,
- và tuy nói cả
- tuệ giác ba xe,
- kỳ thật chỉ dạy
- các vị bồ tát.
- (122) Này Xá lợi phất,
- tôn giả nên biết,
- Như lai nghe được
- tiếng nói tuyệt diệu
- trong thanh thâm thúy
- của chư Như lai -
- những bậc Sư tử
- của các thánh triết,
- tức thì hoan hỷ
- và thốt lên rằng:
- Tôi xin tôn kính
- chư vị Phật đà (70) !
- (123) Như lai lại nghĩ:
- Như lai xuất hiện
- nhằm vào thời kỳ
- dữ dội vẩn đục,
- thì như lời lẽ
- của chư Phật nói,
- Như lai cũng phải
- thể theo mà làm.
- (124) Như lai nghĩ rồi
- liền đến Lộc uyển.
- Thật tướng các pháp
- vốn rất vắng lặng,
- không thể diễn tả
- bằng những lời chữ,
- nhưng mà Như lai
- áp dụng phương tiện
- nói pháp ấy ra
- cho năm tỷ kheo.
- (125) Như vậy gọi là
- quay bánh xe pháp,
- thế gian liền có
- danh hiệu Niết bàn,
- lại còn có cả
- danh hiệu La hán,
- có Pháp có Tăng
- danh hiệu khác biệt.
- (126) Từ đó đến nay
- Như lai ca tụng
- niết bàn hết hẳn
- cái khổ sống chết.
- Như lai thường xuyên
- đã nói như vậy.
- (127) Nhưng Xá lợi phất,
- tôn giả nên biết,
- Như lai lại thấy
- có những con Phật
- quyết chí cầu được
- tuệ giác Phật đà.
- Số ấy nhiều đến
- vô lượng vạn ức.
- (128) Ai cũng cung kính
- đến chỗ Như lai,
- vì các đời trước
- họ đã từng nghe
- pháp mà chư Phật
- phương tiện tuyên thuyết.
- (129) Như lai lúc ấy
- suy nghĩ như vầy:
- Sở dĩ Như lai
- xuất hiện thế gian
- là để tuyên thuyết
- tuệ giác Phật đà,
- thì nay chính là
- thì gian tuyên thuyết.
- (130) Này Xá lợi phất,
- tôn giả nên biết,
- những kẻ trí nhỏ,
- các căn chậm chạp,
- chấp trước hình thức,
- kiêu căng ngạo mạn,
- thì không thể nào
- tin được pháp này.
- Nhưng mà pháp này
- bồ tát sẽ nghe (71) .
- (131) Thế nên ngày nay
- Như lai cảm thấy
- hoan hỷ hết sức,
- chứ không e ngại.
- Ngay giữa đại chúng
- chư vị bồ tát,
- Như lai thẳng thắn
- loại bỏ phương tiện,
- chỉ còn nói đến
- tuệ giác vô thượng.
- (132) Chư vị bồ tát
- nghe được pháp này
- thì lưới ngờ vực
- thoát bỏ được cả,
- mà ngàn hai trăm
- chư vị la hán
- ai nấy cũng sẽ
- được làm Phật đà.
- (133- 134) Cho nên y như
- thể thức thuyết pháp
- của chư Phật đà
- trong ba thì gian,
- ngày nay Như lai
- cũng làm như vậy:
- tuyên thuyết về pháp
- không có khác nhau (72) .
- *
- (135) Chư Phật xuất thế
- là sự khó có,
- vì lẽ lâu xa
- mới gặp một lần.
- Mà dẫu chư Phật
- đã xuất thế rồi,
- nói về pháp này
- là sự khó có.
- Vô số thời kỳ
- mới nghe pháp này,
- nên sự nghe ấy
- là sự khó có.
- Và rồi những ai
- nghe nổi pháp này,
- thì người như vậy
- là người khó có.
- (136) Như hoa ưu đàm
- ai cũng ưa thích,
- đến như chư thiên
- cũng thấy hiếm có,
- vì lẽ thỉnh thoảng
- mới trổ một lần.
- (137) Những người nghe nổi
- pháp như thế này,
- nghe rồi hoan hỷ
- ca tụng tán dương,
- thì dẫu đến nỗi
- chỉ phát một lời,
- cũng đã hiến cúng
- tam thế chư Phật.
- Nên người như vậy
- hết sức khó có,
- khó có hơn cả
- hoa thiêng ưu đàm.
- (138) Tất cả các chúng,
- các người đừng nghi!
- Như lai là bậc
- vua của các pháp,
- phổ cáo các người
- biết rằng Như lai
- chỉ đem giáo pháp
- cỗ xe duy nhất
- mà giáo hóa cho
- chư vị bồ tát.
- Như lai không có
- đệ tử thanh văn.
- (139) Này Xá lợi phất,
- tất cả các người,
- bất luận thanh văn
- hay là bồ tát,
- đều phải biết rằng
- pháp tinh túy này
- chính là bí yếu
- của chư Phật đà.
- (140) Thời kỳ dữ dội
- đầy năm vẩn đục,
- con người chỉ thích
- đắm say dục lạc,
- không bao giờ muốn
- cầu tuệ giác Phật.
- (141) Nên những kẻ ác
- trong tương lai ấy
- dẫu được nghe đến
- cỗ xe duy nhất
- của Như lai nói,
- cũng ngu và lầm,
- không thể tin tưởng,
- không chịu tiếp nhận,
- phá hoại pháp ấy
- và sa đường dữ.
- (142) Chỉ có những ai
- hổ thẹn, trong sạch,
- quyết chí tìm đến
- tuệ giác Phật đà,
- thì cần phải vì
- những người như vậy
- tán dương rộng rãi
- cỗ xe duy nhất.
- *
- (143) Này Xá lợi phất,
- chư vị phải biết,
- nguyên tắc chư Phật
- là như thế đó:
- vận dụng phương tiện
- tùy nghi thuyết pháp.
- Ai không tu học
- không thể hiểu thấu.
- (144) Đến như chư vị
- khi đã biết được
- sự thể tùy nghi
- phương tiện thuyết pháp
- của chư Phật đà,
- bậc Thầy thế gian,
- thì đừng còn nữa
- những sự nghi hoặc:
- Tất cả chư vị
- hãy vui mừng lên,
- khi tự biết chắc
- mình sẽ làm Phật.
Kết thúc tụng kinh Pháp hoa, con xin
hồi hướng:
Vạn ức thời kỳ không thể nói
được mới được có lúc Phật nói Pháp hoa. Vạn ức thời kỳ không thể
nói được mới được có lúc nghe nói Pháp hoa. Chúng con nương nhờ Phật
Pháp Tăng lực mới được trì tụng Diệu pháp liên hoa. Chúng con nguyện
đem công đức như vầy hiến khắp tất cả các loại chúng sinh, cầu cho
chúng con cùng với chúng sinh đều được thành tựu tuệ giác chư Phật.
Kính lạy kinh Diệu pháp liên hoa, bản
kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được
Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười
phương quốc độ.
Kính lạy đức Thích ca mâu ni, đức
Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp hoa. Kính lạy đức Đa
bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp hoa toàn là chân thật. Kính lạy
đức Di lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp hoa và tiếp dẫn
những người hành trì Pháp hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất
cả Phật bảo trong kinh Pháp hoa, trong quốc độ này và trong mười phương
quốc độ.
Kính lạy bồ tát Văn thù, vị
pháp sư Pháp hoa. Kính lạy bồ tát Phổ hiền, vị khuyến phát Pháp hoa.
Kính lạy bồ tát Quan âm, vị đại sĩ toàn diện, ban cho chúng sinh sự
không sợ hãi. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị
Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp hoa, trong quốc độ này và
trong mười phương quốc độ.
Chân
thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh
Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng
Word, VNI font. Thích Nhật Từ 3-5-2000
Phần | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 |
|
|