...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
Kinh
Hoa Sen Chánh Pháp
HT. Thích Trí Quang dịch giải
Phần 6
Phẩm 7: Tương Quan Xa Xưa (117)
Đức Thế tôn bảo chư vị tỷ kheo, trong thì quá khứ,
cách nay vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn về thời kỳ vô số, bấy
giờ có đức Phật danh hiệu Đại thông trí thắng, bậc Đến như chư Phật,
bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự
sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa,
bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác
hoàn toàn: bậc Tôn cao nhất đời. Quốc độ của ngài tên là Hảo thành,
thời kỳ của ngài tên là Đại tướng. Chư vị tỷ kheo, ngài nhập diệt
cách nay cực kỳ lâu xa. Ví như đất của cả đại thiên thế giới này,
giả thiết có người mài ra làm mực, rồi đi qua hết một ngàn quốc độ
ở về hướng đông mới chấm một chấm chỉ lớn bằng hạt bụi nhỏ, lại
đi qua hết một ngàn quốc độ nữa mới chấm một chấm nữa. Triển chuyển
như vậy, chấm hết số mực đã mài hết số đất của cả đại thiên
thế giới, thì ý chư vị nghĩ thế nào, bao nhiêu quốc độ mà người ấy
đi qua, giáo sư toán học hay học trò của họ có thể tìm thấy giới hạn
để biết được số lượng hay không? Không, bạch đức Thế tôn. Chư vị
tỷ kheo, lại giả thiết rằng bao nhiêu quốc độ mà người ấy đi qua,
chấm hay không chấm, đều đem nghiền ra làm bụi, mỗi hạt bụi giả thiết
là một thời kỳ, thì đức Đại thông trí thắng phật đà nhập diệt đến
nay còn lâu hơn số ấy đến vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức thời kỳ
vô số. Vậy mà Như lai đem sức mạnh sự thấy biết của Phật nhìn lại
sự nhập diệt lâu xa ấy thì thấy như thể mới xảy ra ngày hôm nay. Đức
Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau
đây.
- (1) Như lai nhớ lại
- trong thì quá khứ
- vô lượng vô biên
- thời kỳ vô số,
- có đức Phật đà
- bậc đủ phước tuệ,
- danh hiệu ngài là
- Đại thông trí thắng.
- (2) Ví như có người
- tận lực mài hết
- đất cõi đại thiên
- thành ra mực cả,
- rồi đi qua hết
- một ngàn quốc độ
- mới chấm một chấm
- lớn bằng hạt bụi.
- (3- 5) Chấm lần cho đến
- hết sạch mực ấy.
- Rồi bao quốc độ
- người ấy đi qua
- chấm hay không chấm
- đều nghiền thành bụi,
- mỗi một hạt bụi
- là một thời kỳ.
- Nhưng mà so sánh
- với số bụi ấy,
- số thời kỳ này
- lại còn nhiều hơn.
- (6- 7) Trí thắng phật đà
- nhập diệt đến nay
- thời kỳ vô lượng
- đến như thế ấy.
- Vậy mà Như lai
- đem trí vô ngại
- biết đức Phật ấy
- trước khi thành đạo
- đến lúc nhập diệt,
- biết cả đệ tử
- thanh văn bồ tát,
- thấy ngài nhập diệt
- rõ như sự ấy
- mới xảy hôm nay.
- Chư vị tỷ kheo,
- nên biết tuệ giác
- của Phật như lai
- trong suốt, tinh túy,
- không còn sai sót,
- không bị ngăn chặn,
- thấu suốt thời kỳ
- vô biên vô lượng.
Đức Thế tôn lại bảo, chư vị tỷ kheo, đức Đại thông
trí thắng phật đà sống lâu năm trăm bốn mươi vạn ức trăm triệu thời
kỳ. Khi ngài ngồi nơi bồ đề tràng, phá tan quân đội ma vương rồi, sắp
được tuệ giác vô thượng của chư Phật, nhưng các pháp của tuệ giác
chư Phật ấy vẫn chưa hiện ra như ở trước mắt (118) . Như vậy hết một
cho đến mười thời kỳ bậc nhỏ, ngài ngồi xếp bằng, thân thể và
tâm trí đều không dao động, nhưng các pháp của tuệ giác chư Phật vẫn
chưa hiện ra. Bấy giờ chư thiên Đao lợi sắp trước cho ngài, ở dưới
cây bồ đề, một tòa sư tử cao đến một do tuần. Ngài sẽ thực hiện
tuệ giác vô thượng của chư Phật ở trên tòa sư tử ấy. Khi ngài mới
ngồi trên tòa sư tử thì Phạn vương rưới xuống hoa của chư thiên, khắp
diện tích một trăm do tuần. Gió thơm thỉnh thoảng lướt đến thổi hoa
héo đi, và Phạn vương rưới thay hoa mới. Liên tục như vậy, suốt mười
thời kỳ bậc nhỏ, Phạn vương hiến cúng đức Đại thông trí thắng phật
đà, và từ đó cho đến lúc ngài nhập diệt, vẫn thường xuyên rưới
hoa hiến cúng như thế. Còn bốn vị Thiên vương thì thường xuyên đánh
trống chư thiên, và chư thiên khác thì tấu các nhạc khí khác của chư
thiên, hiến cúng đức Đại thông trí thắng phật đà trọn mười thời kỳ
bạẤc nhỏ, và từ đó liên tục cho đến khi ngài nhập diệt, y như viêểc
rưới hoa. Chư vị tỷ kheo, đức Đại thông trí thắng phật đà qua mười
thời kỳ bậc nhỏ rồi các pháp của tuệ giác chư Phật mới hiện ra
như ở trước mắt, và ngài hoàn thành tuệ giác vô thượng ấy.
Đức Đại thông trí thắng phật đà, khi chưa xuất gia, đã
có mười sáu vương tử mà người đứng đầu tên là Trí tích. Những vương
tử này ai cũng có đủ thứ đồ thưởng ngoạn quí và lạ, nhưng nghe thân
phụ hoàn thành tuệ giác vô thượng thì cùng bỏ hết những thứ mình
quí, đi đến chỗ ngài. Các bà mẹ khóc, đi theo mà tiễn. Vị luân vương
tổ phụ của họ thì có một trăm đại thần và trăm ngàn vạn ức dân
chúng bao quanh, cũng theo mà đến bồ đề tràng. Ai cũng muốn đến gần đức
Đại thông trí thắng phật đà mà hiến cúng, cung kính, tôn trọng và tán
dương. Khi đến, ai cũng đem đầu mặt lạy ngang chân ngài, đi vòng quanh
ngài, rồi chuyên chú chắp tay mà chiêm ngưỡng, và nói những lời chỉnh
cú sau đây mà ca tụng.
- (8- 9)Thế tôn uy đức
- vô cùng cao cả,
- vì muốn hóa độ
- các loại chúng sinh,
- nên ngài trải qua
- vô số thời kỳ
- mới được trở thành
- một đức Phật đà,
- bao nhiêu đại nguyện
- đều trọn vẹn cả:
- lành thay là đấng
- Cát tường tối thượng!
- (10) Thế tôn là bậc
- cực kỳ hiếm có,
- một lần ngồi xuống
- mà đã trải qua
- hết cả mười lần
- thời kỳ bậc nhỏ,
- thân thể tay chân
- lặng yên bất động,
- tâm trí thanh tịnh
- chưa từng xao lãng,
- tuyệt đối vắng bặt
- cực kỳ thuần khiết.
- (11) Chúng con ngày nay
- thấy đức Thế tôn
- yên ổn hoàn thành
- tuệ giác chư Phật,
- là chúng con được
- lợi ích tốt lành,
- cho nên khen mừng
- lòng rất hoan hỷ.
- (12) Các loại chúng sinh
- thường xuyên khổ não,
- quá ư mù mờ
- không thầy dắt dẫn,
- không hề biết được
- con đường hết khổ,
- cũng không tự biết
- mong cầu giải thoát.
- (13) Trong các loài dữ
- thì tăng lên mãi
- còn trên chư thiên
- ngày càng giảm bớt,
- từ chỗ tối tăm
- vào chỗ tối tăm,
- lâu xa mãi hoài
- không nghe danh Phật.
- (14) Ngày nay Thế tôn
- đạt được tuệ giác
- tối thượng, yên ổn,
- không còn sai sót,
- chúng con cùng với
- chư thiên nhân loại
- vì được ích lợi
- siêu việt lớn lao
- cho nên cùng nhau
- cúi đầu kính lạy,
- tánh mạng quay về
- nơi đấng Vô thượng.
Mười sáu vương tử lúc ấy nói những lời chỉnh cú ca tụng
đức Đại thông trí thắng phật đà rồi, khuyến thỉnh ngài chuyển đẩy
bánh xe chánh pháp. Ai cũng nói rằng đức Thế tôn thuyết pháp thì đem lại
rất nhiều yên ổn ; xin ngài thương xót và ích lợi cho chư thiên, nhân loại.
Các vương tử lại nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (15) Thưa đấng Thế hùng,
- đấng Không ai bằng,
- tự trang hoàng mình
- bằng trăm phước đức (119) !
- Ngài đã thực hiện
- tuệ giác vô thượng,
- xin nói cho đời
- về tuệ giác ấy.
- (16) Xin cứu chúng con
- và bao chúng sinh!
- Xin phô bày ra
- tuệ giác của ngài,
- làm cho chúng con
- cùng thực hiện được.
- Chúng con nếu được
- trở thành Phật đà
- thì các chúng sinh
- cũng được như vậy.
- (17) Thế tôn biết rõ
- tất cả quan niệm,
- đường lối, trí tuệ,
- thị hiếu, phước đức,
- hành vi đời trước ...
- của bao chúng sinh.
- Ngài đã thấy biết
- tỏ rõ tất cả,
- xin hãy chuyển đẩy
- pháp luân tối thượng!
Khi ấy đức Đại thông trí thắng phật đà yên lặng hứa
nhận lời thỉnh cầu ấy.
Đức Thế tôn lại bảo, chư vị tỷ kheo, khi đức Đại
thông trí thắng phật đà hoàn thành tuệ giác vô thượng thì khắp mười
khu vức, mỗi khu vức có năm trăm vạn ức cõi Phật đều chấn động đủ
hết sáu cách. Những chỗ tối tăm giữa các cõi Phật ấy, ánh sáng sáng
nhất của mặt trời mặt trăng không thể soi đến, khi ấy cũng rất sáng
tỏ. Chúng sinh trong những chỗ ấy cùng được thấy nhau, và cùng thốt
lên: sao lại có chúng sinh khác xuất hiện ở đây! Trong các cõi Phật nói
trên, cung điện chư thiên, từ dưới lên đến Phạn thiên, cũng chấn động
đủ cả sáu cách, và được chiếu soi bằng ánh sáng vĩ đại, sáng tỏa
khắp cả và sáng hơn ánh sáng của chư thiên ấy. Bao nhiêu cung điện Phạn
thiên khắp trong năm trăm vạn ức cõi Phật thuộc khu vức chính đông đều
sáng lên rực rỡ, gấp đôi ngày thường. Các vị Phạn vương đều nghĩ
rằng, cung điện chúng ta hôm nay sáng lên một cách trước đây chưa bao giờ
có; vì lý do nào mà có cảnh tượng này? Các vị Phạn vương liền đến
suy luận với nhau về sự thể ấy. Trong chúng Phạn vương này có Đại phạn
vương tên là Cứu nhất thế, nói với cả chúng lời chỉnh cú sau đây.
- (18- 20) Cung điện chúng ta
- sáng hơn trước đây;
- vì lý do gì?
- hãy cùng tìm hiểu:
- một vị thiên nhân
- phước lớn mới sinh?
- hay một đức Phật
- xuất hiện thế gian,
- mà ánh sáng này
- chiếu rực khắp cả?
Bấy giờ các vị Phạn vương của năm trăm vạn ức cõi
Phật khu vức chính đông, với cung điện theo mình, với túi vải đựng đầy
hoa chư thiên, cùng nhau đi về khu vức chính tây, lần theo ánh sáng mà
tìm, thấy đức Đại thông trí thắng phật đà ngồi trên tòa sư tử dưới
cây bồ đề trong bồ đề tràng, có tám bộ và các chúng khác thuộc loài
người và không phải loài người, tôn kính bao quanh. Lại thấy mười sáu
vị vương tử đang thỉnh cầu ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp. Các vị
Phạn vương tức thì đem đầu mặt lạy ngang chân đức Đại thông trí thắng
phật đà, đi quanh ngài hàng trăm hàng ngàn vòng, rồi đem hoa chư thiên mà
tung rải trên ngài. Hoa ấy như núi Tu di. Các vị Phạn vương cũng dùng hoa
ấy mà hiến cúng cây bồ đề của ngài. Cây này cao đến mười do tuần.
Hiến hoa rồi, các vị Phạn vương ai cũng đem cung điện của mình dâng
lên đức Đại thông trí thắng phật đà, thưa rằng, bạch đức Thế tôn,
xin ngài thương xót mà ích lợi cho chúng con, bằng cách rủ lòng chấp nhận
và sử dụng cung điện chúng con hiến cúng. Đối trước ngài, các vị Phạn
vương nhất tâm, đồng thanh, đem lời chỉnh cú sau đây mà ca tụng.
- (21) Thế tôn hiếm có
- rất khó gặp được!
- Ngài đủ vô lượng
- phẩm chất siêu việt,
- và có năng lực
- cứu hộ tất cả.
- Là thầy cao cả
- của cả trời người,
- ngài thường thương tưởng
- toàn thể thế gian,
- mười phương chúng sinh
- đều nhờ ích lợi.
- (22) Tất cả chúng con
- đến đây từ những
- quốc độ nhiều đến
- năm trăm vạn ức,
- và cùng rời bỏ
- cái vui thiền định
- để được đến đây
- hiến cúng Thế tôn.
- (23) Nhờ phước chúng con
- làm từ đời trước
- nên được cung điện
- tráng lệ như vầy,
- hôm nay chúng con
- tôn kính hiến lên,
- xin đức Thế tôn
- từ bi nạp thọ.
Các vị Phạn vương đem lời chỉnh cú ca tụng đức Đại
thông trí thắng phật đà rồi, vị nào cũng thưa, bạch đức Thế tôn,
xin ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp: xin ngài giải thoát chúng sinh, xin
ngài mở đường niết bàn. Các vị lại nhất tâm đồng thanh mà nói lời
chỉnh cú này.
- (24- 25) Bạch đức Thế hùng
- đủ cả phước tuệ!
- xin ngài diễn giảng
- chánh pháp tối thượng,
- xin đem sức mạnh
- của đại từ bi
- cứu độ chúng sinh
- đang bị khổ não.
Khi ấy đức Đại thông trí thắng phật đà yên lặng hứa
nhận lời thỉnh cầu ấy.
Chư vị tỷ kheo, các vị Phạn vương ở năm trăm vạn ức
cõi Phật thuộc khu vức đông nam, ai cũng tự thấy cung điẹẤn của mình
sáng rực lên một cách trước đây chưa bao giờ có, nên hoan hỷ, phấn chấn,
thấy rất hy hữu, liền đến suy luận với nhau về sự thể ấy. Trong chúng
Phạn vương này có vị Đại phạn vương tên là Đại bi, nói với cả
chúng lời chỉnh cú sau đây.
- (26) Vì lý do nào
- mà có cảnh tượng
- cung điện chúng ta
- sáng hơn trước đây?
- (27- 28) Một vị thiên nhân
- phước lớn mới sinh?
- hay một đức Phật
- xuất hiện thế gian?
- (29) Trước đây chưa thấy
- cảnh tượng như vầy,
- nên hãy cùng nhau
- nhất tâm mà tìm.
- (30) Hãy cùng đi qua
- vạn ức quốc độ,
- lần theo ánh sáng
- mà tìm xuất xứ.
- Nhiều phần chắc chắn
- đây là Phật đà
- xuất hiện cứu độ
- chúng sinh đau khổ.
Bấy giờ các vị Phạn vương của năm trăm vạn ức cõi
Phật khu vức đông nam, với cung điện theo mình, với túi vải đựng đầy
hoa chư thiên, cùng nhau đi về khu vức tây bắc, lần theo ánh sáng mà tìm,
thấy đức Đại thông trí thắng phật đà ngồi trên tòa sư tử dưới cây
bồ đề trong bồ đề tràng, có tám bộ và các chúng khác thuộc loài người
và không phải loài người, tôn kính bao quanh. Lại thấy mười sáu vị vương
tử đang thỉnh cầu ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp. Các vị Phạn vương
tức thì đem đầu mặt lạy ngang chân đức Đại thông trí thắng phật đà,
đi quanh ngài hàng trăm hàng ngàn vòng, rồi đem hoa chư thiên mà tung rải
trên ngài. Hoa ấy như núi Tu di. Các vị Phạn vương cũng dùng hoa ấy mà
hiến cúng cây bồ đề của ngài. Hiến hoa rồi, các vị Phạn vương ai
cũng đem cung điện của mình dâng lên đức Đại thông trí thắng phật đà,
thưa rằng, bạch đức Thế tôn, xin ngài thương xót mà ích lợi cho chúng
con, bằng cách rủ lòng chấp nhận và sử dụng cung điện chúng con hiến
cúng. Đối trước ngài, các vị Phạn vương nhất tâm, đồng thanh, đem lời
chỉnh cú sau đây mà ca tụng.
- (31) Vị chúa thánh triết,
- vị vua chư thiên,
- tiếng như tiếng chim
- ca lăng tần dà!
- Vị thầy thương tưởng
- hết thảy chúng sinh!
- Hôm nay chúng con
- xin cùng kính lạy.
- (32- 33) Chư Phật thế tôn
- rất là hiếm có,
- thì gian lâu xa
- mới hiện một lần.
- Đã qua một trăm
- tám chục thời kỳ,
- cõi này trống rỗng
- không có Phật nào;
- ba nẻo đường dữ
- thì tràn đầy cả,
- còn chúng chư thiên
- ngày càng giảm bớt.
- (34) Ngày nay ngài đã
- xuất hiện ra đây!
- Ngài là mắt sáng
- cho các chúng sinh,
- là nơi thế gian
- cùng đến nương tựa,
- là người cứu vớt
- che chở hết thảy,
- là từ bi phụ
- của cả chúng sinh,
- là người xót thương
- ích lợi tất cả!
- Tất cả chúng con
- nhờ phước đời trước,
- ngày nay mới được
- gặp ngài xuất hiện!
Các vị Phạn vương đem lời chỉnh cú ca tụng đức Đại
thông trí thắng phật đà rồi, vị nào cũng thưa, bạch đức Thế tôn,
xin ngài thương tưởng tất cả, chuyển đẩy bánh xe chánh pháp mà hóa độ
chúng sinh. Các vị lại nhất tâm đồng thanh mà nói lời chỉnh cú này.
- (35) Bạch đức Cao cả!
- xin ngài chuyển đẩy
- bánh xe chánh pháp,
- xin ngài phát lộ
- thật tướng siêu việt
- của tất cả pháp,
- cứu độ hết thảy
- chúng sinh đau khổ,
- cho họ cùng được
- niềm vui lớn lao!
- (36) Xin cho chúng sinh
- được nghe pháp ấy,
- để được tuệ giác
- hoặc sinh chư thiên,
- để bớt nẻo dữ
- và thêm người lành.
Khi ấy đức Đại thông trí thắng phật đà yên lặng hứa
nhận lời thỉnh cầu ấy.
Chư vị tỷ kheo, các vị Phạn vương ở năm trăm vạn ức
cõi Phật thuộc khu vức chính nam, ai cũng tự thấy cung điện của mình
sáng rực lên một cách trước đây chưa bao giờ có, nên hoan hỷ, phấn chấn,
thấy rất hy hữu, liền đến suy luận với nhau về sự thể ấy, rằng vì
lý do nào mà cung điện chúng ta có ánh sáng rực rỡ như vầy? Trong chúng
Phạn vương này có vị Đại phạn vương tên là Diệu pháp, nói với cả
chúng lời chỉnh cú sau đây.
- (37) Cung điện chúng ta
- sáng quá rực rỡ,
- tất có lý do,
- cần nên tìm hiểu.
- (38) Qua rồi hàng trăm
- hàng ngàn thời kỳ,
- mà chưa hề thấy
- cảnh tượng như vầy.
- Một vị thiên nhân
- phước lớn mới sinh?
- hay một đức Phật
- xuất hiện thế gian?
Bấy giờ các vị Phạn vương của năm trăm vạn ức cõi
Phật khu vức chính nam, với cung điện theo mình, với túi vải đựng đầy
hoa chư thiên, cùng nhau đi về khu vức chính bắc, lần theo ánh sáng mà
tìm, thấy đức Đại thông trí thắng phật đà ngồi trên tòa sư tử dưới
cây bồ đề trong bồ đề tràng, có tám bộ và các chúng khác thuộc loài
người và không phải loài người, tôn kính bao quanh. Lại thấy mười sáu
vị vương tử đang thỉnh cầu ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp. Các vị
Phạn vương tức thì đem đầu mặt lạy ngang chân đức Đại thông trí thắng
phật đà, đi quanh ngài hàng trăm hàng ngàn vòng, rồi đem hoa chư thiên mà
tung rải trên ngài. Hoa ấy như núi Tu di. Các vị Phạn vương cũng dùng hoa
ấy mà hiến cúng cây bồ đề của ngài. Hiến hoa rồi, các vị Phạn vương
ai cũng đem cung điện của mình dâng lên đức Đại thông trí thắng phật
đà, thưa rằng, bạch đức Thế tôn, xin ngài thương xót mà ích lợi cho
chúng con, bằng cách rủ lòng chấp nhận và sử dụng cung điện chúng con
hiến cúng. Đối trước ngài, các vị Phạn vương nhất tâm, đồng thanh,
đem lời chỉnh cú sau đây mà ca tụng.
- (39) Thật là hiếm có
- được thấy Thế tôn,
- đấng đã hủy diệt
- mọi sự phiền não!
- Qua hết một trăm
- ba mươi thời kỳ,
- nay mới một lần
- lại được thấy Phật.
- (40) Biết bao chúng sinh
- đã quá khao khát,
- xin đổ mưa pháp
- cho sung mãn cả!
- Lâu rồi chúng con
- chưa được nhìn thấy
- đấng có tuệ giác
- không có giới hạn;
- như hoa ưu đàm,
- ngày nay mới thấy!
- (41) Bao nhiêu cung điện
- của chúng con đây
- nhờ ánh sáng ngài
- mà càng tráng lệ,
- xin ngài thương xót
- nhận cho chúng con.
Các vị Phạn vương đem lời chỉnh cú ca tụng đức Đại
thông trí thắng phật đà rồi, vị nào cũng thưa, bạch đức Thế tôn,
xin ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp để làm cho toàn thể thế gian bao
gồm chư thiên, ma vương, phạn vương, sa môn, bà la môn, ai cũng được yên
ổn, được giải thoát. Các vị lại nhất tâm đồng thanh mà nói lời chỉnh
cú này.
- (42) Đấng tôn cao nhất
- chư thiên nhân loại,
- xin chuyển bánh xe
- chánh pháp vô thượng!
- xin gióng lớn lên
- trống pháp vĩ đại!
- xin thổi vang lên
- loa pháp to lớn!
- (43) xin đổ khắp xuống
- mưa pháp cao cả,
- quảng độ vô lượng
- các loại chúng sinh!
- Cùng nhau kính lạy,
- chúng con thỉnh cầu
- Thế tôn nói lên
- tiếng nói sâu xa.
Khi ấy đức Đại thông trí thắng phật đà yên lặng hứa
nhận lời thỉnh cầu ấy.
Chư vị tỷ kheo, khu vức tây nam cho đến khu vức thiên để
cũng đều như vậy. Và đến các vị Phạn vương ở năm trăm vạn ức cõi
Phật thuộc khu vức thiên đỉnh, ai cũng tự thấy cung điện của mình
đang ở sáng rực lên một cách trước đây chưa bao giờ có, nên hoan hỷ,
phấn chấn, thấy rất hy hữu, liền đến suy luận với nhau về sự thể
ấy, rằng vì lý do nào mà cung điện chúng ta có ánh sáng rực rỡ như vầy?
Trong chúng Phạn vương ấy có vị Đại phạn vương tên là Thi khí, nói với
cả chúng lời chỉnh cú sau đây.
- (44) Vì sao hôm nay
- cung điện chúng ta
- sáng lên lộng lẫy
- huy hoàng khác thường?
- (45) Cảnh tượng như vầy
- chưa hề thấy nghe.
- (46) Một vị thiên nhân
- phước lớn mới sinh?
- hay một đức Phật
- xuất hiện thế gian?
Bấy giờ các vị Phạn vương của năm trăm vạn ức cõi
Phật khu vức thiên đỉnh, với cung điện theo mình, với túi vải đựng
đầy hoa chư thiên, cùng nhau đi về khu vức thiên để, lần theo ánh sáng
mà tìm, thấy đức Đại thông trí thắng phật đà ngồi trên tòa sư tử
dưới cây bồ đề trong bồ đề tràng, có tám bộ và các chúng khác thuộc
loài người và không phải loài người, tôn kính bao quanh. Lại thấy mười
sáu vị vương tử đang thỉnh cầu ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp.
Các vị Phạn vương tức thì đem đầu mặt lạy ngang chân đức Đại thông
trí thắng phật đà, đi quanh ngài hàng trăm hàng ngàn vòng, rồi đem hoa
chư thiên mà tung rải trên ngài. Hoa ấy như núi Tu di. Các vị Phạn vương
cũng dùng hoa ấy mà hiến cúng cây bồ đề của ngài. Hiến hoa rồi, các
vị Phạn vương ai cũng đem cung điện của mình dâng lên đức Đại thông
trí thắng phật đà, thưa rằng, bạch đức Thế tôn, xin ngài thương xót
mà ích lợi cho chúng con, bằng cách rủ lòng chấp nhận và sử dụng cung
điện chúng con hiến cúng. Đối trước ngài, các vị Phạn vương nhất tâm,
đồng thanh, đem lời chỉnh cú sau đây mà ca tụng.
- (47) Lành thay khi được
- thấy đấng Toàn giác,
- Thánh triết, Cứu đời,
- đấng có năng lực
- giải cứu chúng sinh
- trong ngục ba cõi!
- (48) Là Thầy trời người
- thấy biết khắp cả,
- ngài rất thương xót
- bao loại chúng sinh!
- Và ngài khai mở
- cửa ngỏ bất tử (120) ,
- làm cho hết thảy
- vượt đến bến bờ!
- (49) Vô số thời kỳ
- đã không có Phật!
- Ngài chưa xuất hiện,
- mười phương tối tăm:
- (50) Ba nẻo đường dữ
- mãi hoài thêm lên,
- chủng loại tu la
- cũng được phồn thịnh;
- (51) còn chúng chư thiên
- thì bị giảm bớt,
- chết thì phần nhiều
- rơi vào đường dữ,
- vì đã không được
- nghe Pháp với Phật,
- thường thường hành động
- những việc bất thiện.
- (52) Sắc đẹp, sức khỏe,
- cùng với trí tuệ,
- tất cả thứ này
- giảm sút đồng đều.
- Vì hành động ác
- mà mất hạnh phúc,
- lại mất đến cả
- ý thức hạnh phúc.
- (53) Vướng mắc khuôn phép
- chủ thuyết tà ngụy,
- nên không biết được
- qui tắc tốt lành,
- không được tiếp nhận
- ân Phật giáo hóa,
- thường bị rơi vào
- các nẻo đường dữ.
- (54) Nhưng nay thì ngài,
- con mắt của đời,
- đã xuất hiện ra
- sau thì gian dài!
- Nhưng nay thì ngài,
- vì thương chúng sinh,
- đã xuất hiện ra
- giữa thế gian này!
- (55) Ngài đã siêu việt,
- đạt được tuệ giác
- chính xác hoàn hảo:
- chúng con rất mừng!
- Và bao chúng sinh
- ai cũng hoan hỷ
- và tán dương ngài
- là bậc hiếm có!
- (56) Bao nhiêu cung điện
- của chúng con đây
- nhờ ánh sáng ngài
- mà càng tráng lệ,
- chúng con phụng hiến
- lên đấng Thế tôn,
- xin ngài thương tưởng
- mà nạp thọ cho.
- (57) Chúng con nguyện đem
- công đức như vầy
- hiến khắp tất cả
- các loại chúng sinh,
- cầu cho chúng con
- cùng với chúng sinh
- đều được thành tựu
- tuệ giác chư Phật.
Các vị Phạn vương đem lời chỉnh cú ca tụng đức Đại
thông trí thắng phật đà rồi, vị nào cũng thưa, bạch đức Thế tôn,
xin ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp, đem lại rất nhiều sự yên ổn
và rất nhiều sự giải thoát. Các vị lại nhất tâm đồng thanh mà nói lời
chỉnh cú này.
- (58) Kính xin Thế tôn
- chuyển bánh xe pháp!
- Xin ngài gióng lên
- trống pháp bất tử!
- Xin ngài giải cứu
- chúng sinh đau khổ,
- và mở chỉ ra
- đường hướng niết bàn!
- (59) Xin ngài nhận lời
- chúng con thỉnh cầu,
- sử dụng âm thanh
- cực kỳ mầu nhiệm,
- thương xót chúng con
- và bao chúng sinh,
- nói ra cái pháp
- mà ngài trải qua
- vô số thời kỳ
- mới tập hợp được (121) !
Lúc bấy giờ đức Đại thông trí thắng phật đà nhận lời
thỉnh cầu của các vị Phạn vương ở khắp mười phương, và của mười
sáu vị vương tử, tức thì chuyển đẩy bánh xe chánh pháp bốn chân lý,
bằng cách ba lần chuyển đẩy với mười hai phương thức, mà sa môn, bà
la môn, hoặc chư thiên, ma vương, phạn vương, hay bất cứ những ai còn
ở trong phạm vi thế gian, đều không thể chuyển đẩy. Rằng đây là khổ
... đây là khổ tập hợp ... đây là khổ tiêu diệt ... đây là con đường
đạt đến sự khổ tiêu diệt ... Bốn chân lý như vậy lại được nói rộng
ra thành mười hai duyên khởi: vô minh sinh thì hành sinh, hành sinh thì thức
sinh, thức sinh thì danh sắc sinh, danh sắc sinh thì lục nhập sinh, lục nhập
sinh thì xúc sinh, xúc sinh thì thọ sinh, thọ sinh thì ái sinh, ái sinh thì thủ
sinh, thủ sinh thì hữu sinh, hữu sinh thì sinh sinh, sinh sinh thì già chết lo
buồn khổ não sinh; vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt,
thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập
diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái
diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt,
sinh diệt thì già chết lo buồn khổ não diệt (122) .
Khi đức Đại thông trí thắng phật đà ở giữa đại hội
các chúng, trong đó có chư thiên và nhân loại, tuyên thuyết chánh pháp
trên đây thì có sáu trăm vạn ức trăm triệu người, vì không tham đắm
các pháp (123) , nên đối với mọi sự sơ hở (124) tâm được giải thoát;
bốn thiền, bốn định, ba minh trí, sáu thần thông và tám giải thoát, những
pháp sâu xa tinh túy như vậy họ có đủ cả. Rồi lần thứ hai, lần thứ
ba và lần thứ tư, đức Đại thông trí thắng phật đà tuyên thuyết
chánh pháp trên đây thì có ngàn vạn ức hằng sa trăm triệu chúng sinh cũng
vì không tham đắm các pháp mà đối với mọi sự sơ hở tâm được giải
thoát. Từ đó về sau, riêng chúng thanh văn cũng đã vô lượng vô biên,
không thể mô tả hay tính toán.
Phần mười sáu vị vương tử thì cùng nhau đem cái tuổi
đồng niên mà xuất gia làm sa di, các căn lanh lợi, trí tuệ thấu suốt,
vì lẽ ai cũng đã từng hiến cúng trăm ngàn vạn ức chư Phật như lai, thực
hành phạn hạnh một cách trong sáng mà cầu tuệ giác vô thượng. Tất cả
mười sáu vị ấy cùng thưa đức Đại thông trí thắng phật đà, rằng bạch
đức Thế tôn, vô số trăm ngàn vạn ức chư vị thanh văn đại đức như
thế này đã thành thục cả rồi, kính xin đức Thế tôn nói cho chúng con
về pháp của tuệ giác vô thượng. Chúng con nghe được pháp ấy thì ai cũng
cùng nhau tu học. Bạch đức Thế tôn, tâm chí của chúng con là nguyện
được sự thấy biết của Phật. Tâm chí như vậy, đức Thế tôn tự biết
cho chúng con. Lúc ấy tám vạn ức người trong số đi theo vị luân vương
tổ phụ, thấy mười sáu vị vương tử xuất gia thì cũng cầu xin xuất
gia. Vị luân vương ấy cũng chấp thuận tức khắc.
Đức Đại thông trí thắng phật đà nhận lời thỉnh cầu
của mười sáu vị sa di, nên qua hai vạn thời kỳ rồi, ở giữa đại hội
bốn chúng, nói về bản kinh đại thừa tên Diệu pháp liên hoa, bản kinh dạy
cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Ngài nói kinh ấy rồi, mười sáu vị
sa di vì tuệ giác vô thượng mà cùng tiếp nhận, ghi nhớ và đọc tụng một
cách thông suốt sắc sảo. Đức Đại thông trí thắng phật đà nói kinh
Pháp hoa thì mười sáu vị sa di tin tưởng tiếp nhận được cả. Trong chúng
thanh văn cũng có vị tin hiểu. Nhưng người khác, số lượng đến ngàn vạn
ức, đều sinh ra nghi hoặc.
Đức Đại thông trí thắng phật đà nói kinh Pháp hoa suốt
tám ngàn thời kỳ mà không lúc nào ngưng bỏ. Nói rồi, ngài vào tịnh thất,
đặt mình vào sự thiền định đến tám vạn bốn ngàn thời kỳ. Bấy giờ
mười sáu vị sa di bồ tát biết ngài vào tịnh thất mà vắng lặng thiền
định, nên vị nào cũng lên pháp tòa, và cũng trong thì gian tám vạn bốn
ngàn thời kỳ ấy vị nào cũng giảng giải một cách phong phú cho cả bốn
chúng về kinh Pháp hoa. Vị nào cũng hóa độ chúng sinh nhiều như số cát
của sáu trăm vạn ức trăm triệu sông Hằng, trình bày, thuyết phục, khuyến
khích, tán thưởng (125) , làm cho ai cũng phát tâm tuệ giác vô thượng
(126) . Tám vạn bốn ngàn thời kỳ qua rồi, đức Đại thông trí thắng phật
đà xuất định, bước đến pháp tòa, thung dung mà ngồi, tuyên cáo với cả
đại hội các chúng: Mười sáu vị sa di bồ tát này thật là hiếm có,
các căn lanh lợi, trí tuệ thấu suốt, và vị nào cũng đã hiến cúng vô
số ngàn vạn ức chư Phật như lai. Nơi chư Phật như lai ấy, các vị thường
xuyên thực hành phạn hạnh, nhận được tuệ giác Phật đà, lại dạy
cho chúng sinh vào được tuệ giác ấy. Các người hãy luôn luôn thân gần
mà hiến cúng mười sáu vị ấy. Vì lẽ bất cứ thanh văn, duyên giác hay
bồ tát, người nào tin tưởng được kinh pháp do mười sáu vị sa di bồ
tát này tuyên thuyết, tiếp nhận và ghi nhớ mà không bác bỏ, thì những
người ấy ai cũng sẽ được tuệ giác Phật đà là tuệ giác vô thượng.
Khi ấy đức Thế tôn bảo chư vị tỷ kheo, mười sáu vị
sa di bồ tát thường vui thích nói kinh Pháp hoa. Những số chúng sinh nhiều
như cát sáu trăm vạn ức trăm triệu sông Hằng mà mỗi vị giáo hóa thì
đời đời sinh ra ở đâu cũng chung với mỗi vị, theo mỗi vị mà nghe
pháp thêm nữa, và nghe thì tin hiểu được cả. Do vậy mà những số
chúng sinh ấy gặp được bốn vạn ức chư Phật như lai, và việc ấy đến
nay vẫn chưa chấm dứt.
Chư vị tỷ kheo, nay Như lai nói để chư vị biết, mười
sáu vị sa di bồ tát, đệ tử của đức Đại thông trí thắng phật đà,
hiện nay cùng thành tựu tuệ giác vô thượng và đang thuyết pháp giáo
hóa ở khắp cả mười phương quốc độ. Vị nào cũng có vô số trăm ngàn
vạn ức bồ tát và thanh văn làm người tùy thuộc. Hai vị thành Phật ở
chính đông là A súc như lai tại quốc độ Hoan hỷ và Tu di đảnh như lai.
Hai vị thành Phật ở đông nam là Sư tử âm như lai và Sư tử tướng như
lai. Hai vị thành Phật ở chính nam là Hư không trú như lai và Thường diệt
như lai. Hai vị thành Phật ở tây nam là Đế tướng như lai và Phạn tướng
như lai. Hai vị thành Phật ở chính tây là A di đà như lai và Độ nhất
thế thế gian khổ não như lai. Hai vị thành Phật ở tây bắc là Đa ma la
bạt chiên đàn hương thần thông như lai và Tu di tướng như lai. Hai vị thành
Phật ở chính bắc là Vân tự tại như lai và Vân tự tại vương như lai.
Một vị thành Phật ở đông bắc là Hoại nhất thế thế gian bố úy như
lai. Còn vị thứ mười sáu là ta, Thích ca mâu ni như lai, thành tựu tuệ
giác vô thượng ở quốc độ Kham nhẫn này.
Chư vị tỷ kheo, như trên đã nói, khi chúng ta làm sa di bồ
tát thì vị nào cũng giáo hóa chúng sinh nhiều bằng số cát của vô số
trăm ngàn vạn ức sông Hằng. Những số chúng sinh này vì tuệ giác vô thượng
mà vẫn theo nghe pháp với chúng ta. Trong các số chúng sinh ấy, cho đến ngày
nay có những người vẫn còn ở vị trí thanh văn, thì chúng ta vẫn thường
giáo hóa cho những người này bằng pháp của tuệ giác vô thượng. Những
người này vẫn phải được đưa lần vào tuệ giác Phật đà bằng pháp
ấy, vì tuệ giác Phật đà thì thật khó tin khó hiểu.
Những người này, mà thuộc về số hằng sa chúng sinh phần
Như lai giáo hóa từ lúc Như lai còn làm sa di bồ tát, thì chính là chư vị,
và chư vị đệ tử thanh văn trong thì vị lai sau khi Như lai nhập diệt.
Chư vị đệ tử thanh văn sau khi Như lai nhập diệt cũng có những người
không nghe kinh này, không hay không biết gì về đường đi của bồ tát,
và đối với thành quả của mình thì phát sinh ý tưởng nhập được niết
bàn. Như lai bấy giờ làm đức Phật giáo chủ ở quốc độ khác, thay đổi
danh hiệu khác; những người này tuy phát sinh ý tưởng nhập được niết
bàn như vậy, nhưng ở quốc độ khác mà Như lai đang làm đức Phật giáo
chủ thì họ lại cầu tuệ giác Phật đà, được nghe kinh này và biết rằng
chỉ niết bàn bằng cỗ xe Phật đà chứ không bằng cỗ xe nào khác, ngoại
trừ Như lai phương tiện thuyết pháp.
Chư vị tỷ kheo, bất cứ ở quốc độ nào, khi Như lai tự
biết thì giờ nhập diệt sắp đến, chư tăng lại thanh tịnh, sự tin hiểu
cũng vững chắc, ai cũng thấu triệt về Không, vào sâu tư duy tu, thì Như
lai chiêu tập chúng bồ tát và chúng thanh văn mà nói cho kinh Pháp hoa này,
minh xác rằng thế gian không có cỗ xe thứ hai và cỗ xe thứ ba đưa đến
niết bàn, mà chỉ có cỗ xe Phật đà duy nhất đưa đến niết bàn mà
thôi.
Chư vị tỷ kheo, nên biết Như lai đủ mọi phương tiện,
lại đi sâu vào bản tính chúng sinh, biết chí nguyện của chúng sinh ưa thích
giáo pháp thấp nhỏ là vì vốn đã đắm sâu vào trong năm thứ dục lạc;
vì những người như vậy mà Như lai nói đến niết bàn, và họ nghe thì
tin hiểu được. Sự thể ví như con đường hiểm ác dài đến năm trăm
do tuần, nằm trong chốn hoang vắng và ghê rợn (127) . Một đoàn nhiều người
muốn vượt qua con đường ấy để đến đảo vàng ngọc. Có một vị hướng
dẫn rất thông minh, lại biết rõ con đường hiểm ác này chỗ nào thông
chỗ nào nghẽn. Vị ấy dẫn đoàn người vượt qua con đường này. Nhưng
đoàn người nửa đường đổ nhác, muốn lui, thưa với vị hướng dẫn,
rằng chúng tôi quá mệt mà lại ghê sợ, không còn đi tới được nữa.
Đường trước còn xa, chúng tôi muốn lui về. Vị hướng dẫn có lắm chước
phương tiện, nghĩ rằng đoàn người này thật đáng thương, sao lại bỏ
vàng ngọc to lớn mà muốn trở về. Nghĩ rồi, vị ấy sử dụng phương
tiện lực, ngay nơi đoạn giữa của con đường hiểm ác, chỗ đã qua ba
trăm do tuần, biến hóa một thành quách to lớn, và bảo họ, các người
đừng sợ, đừng về. Thành quách to lớn kia các người có thể vào nghỉ,
và muốn gì tùy ý: muốn ở luôn trong ấy thì yên ổn thích thú, muốn đi
tới để đến đảo vàng ngọc thì cũng đi được. Đoàn người mỏi mệt,
lúc đó, lòng rất vui mừng, khen là sự thể chưa từng có, rằng chúng ta
bây giờ thoát khỏi con đường hiểm ác và được an toàn rồi. Rồi cả
đoàn bước tới mà vào trong thành biến hóa, sinh ra ý tưởng đã vượt
qua, ý tưởng đã an toàn. Nhưng vị hướng dẫn, khi biết đoàn người nghỉ
ngơi hết mệt, tức thì diệt mất cái thành biến hóa đi, bảo đoàn người
hãy nên đi tới: đảo vàng ngọc đã gần đây. Cái thành to lớn vừa rồi
chỉ do ta hóa ra cho các người dừng nghỉ mà thôi.
Chư vị tỷ kheo, Như lai cũng vậy. Như lai làm đại đạo
sư cho chư vị. Như lai biết rõ đường dữ sống chết phiền não là con
đường đầy hiểm nạn mà lại xa dài, ai cũng phải rời bỏ, phải vượt
qua. Nhưng nếu chư vị chỉ nghe cỗ xe Phật đà duy nhất thì sẽ không
thích gặp Như lai, không muốn thân gần, vì nghĩ rằng tuệ giác Phật đà
quá dài quá xa, siêng khó lâu lắm mới được thành đạt. Như lai biết rõ
tâm lý khiếp nhược hèn kém ấy nên dùng phương tiện lực, nói ra niết
bàn của thanh văn và duyên giác (128) để cho chư vị dừng nghỉ giữa đường.
Khi chư vị đã đứng ở vị trí của thanh văn và duyên giác rồi, Như lai
liền nói cho chư vị biết việc làm của chư vị chưa được hoàn tất.
Nhưng vị trí của chư vị đang đứng thì đã gần đến tuệ giác Phật
đà. Chư vị hãy suy xét về niết bàn mà chư vị thực hiện: niết bàn
ấy không thật đâu. Niết bàn ấy chỉ do phương tiện lực của Như lai,
nơi cỗ xe Phật đà duy nhất mà phân ra nói có ba cỗ xe, tựa như vị hướng
dẫn hóa ra thành quách to lớn cho đoàn người dừng nghỉ. Dừng nghỉ rồi
thì nói cho họ biết đảo vàng ngọc gần đây, còn thành biến hóa này
không thật, chỉ do ta biến hóa ra mà thôi.
Khi ấy đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên
nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (60) Đại thông trí thắng,
- đức Phật đà ấy
- qua mười thời kỳ
- ngồi bồ đề tràng
- mà pháp chư Phật
- vẫn chưa hiện ra,
- chưa được thành tựu
- tuệ giác chư Phật.
- (61) Chư thiên, long vương,
- cùng các bộ chúng
- thường rưới thiên hoa
- để hiến cúng ngài.
- (62) Chư thiên lại đánh
- trống của chư thiên
- và hòa tấu lên
- các nhạc khí khác.
- Gió thơm lướt đến
- thổi mất hoa héo,
- chư thiên rưới thay
- hoa mới và tốt.
- (63) Hết mười thời kỳ,
- Trí thắng phật đà
- mới được thành tựu
- tuệ giác chư Phật.
- Chư thiên nhân loại
- lòng rất vui mừng.
- (64) Mười sáu vương tử
- cùng với tùy thuộc
- cả ngàn vạn ức
- cùng đến chỗ Phật.
- (65) Họ đem đầu mặt
- lạy ngang chân ngài,
- thỉnh cầu chuyển đẩy
- bánh xe chánh pháp,
- rằng bậc Sư tử
- của các thánh triết,
- xin ngài đổ xuống
- nước mưa chánh pháp
- sung túc chúng con
- cùng với tất cả!
- (66) Thế tôn là bậc
- cực kỳ khó gặp,
- sau thì gian dài
- ngài mới xuất hiện;
- và muốn thức tỉnh
- các loại chúng sinh,
- ngài làm chấn động
- tất cả quốc độ.
- (67) Trong các quốc độ
- ở hướng chính đông
- số lượng có đến
- năm trăm vạn ức,
- cung điện Phạn vương
- sáng lên lộng lẫy,
- điều mà từ xưa
- họ chưa từng thấy.
- (68) Các vị Phạn vương
- thấy cảnh tượng ấy,
- lần theo ánh sáng
- tìm đến chỗ ngài,
- cùng rải thiên hoa
- tôn kính hiến cúng,
- lại còn hiến dâng
- cung điện của mình.
- (69) Rồi thỉnh cầu ngài
- chuyển đẩy pháp luân,
- lấy lời chỉnh cú
- mà ca tụng ngài.
- Và ngài biết rõ
- thì gian chưa đến,
- nên nhận lời họ
- mà ngồi yên lặng.
- (70) Ở ba hướng khác
- cùng với bốn góc
- và trên với dưới
- cũng đều như vậy:
- (71) Cũng rải thiên hoa
- cũng hiến cung điện
- và thỉnh cầu ngài
- chuyển đẩy pháp luân.
- (72) Rằng thưa Thế tôn,
- đấng Rất khó gặp,
- xin ngài đem lòng
- từ bi cao cả
- mà mở cho rộng
- cửa ngõ bất tử,
- bằng cách chuyển đẩy
- pháp luân tối thượng!
- (73) Trí thắng phật đà
- tuệ giác vô lượng,
- nhận lời thỉnh cầu
- của các vị ấy,
- tuyên thuyết cho họ
- những pháp phong phú,
- là bốn chân lý
- mười hai duyên khởi.
- (74) Ngài nói vô minh
- cho đến già chết,
- và rằng già chết
- toàn là do sinh (129) ,
- tai họa như vậy
- các người phải biết.
- (75) Khi thuyết pháp này
- có sáu vạn ức
- trăm triệu người nghe,
- hủy diệt cùng tận
- biên cương khổ não
- mà thành La hán.
- (76) Thuyết lần thứ hai,
- ngàn vạn hằng sa
- các loại chúng sinh
- đối với các pháp
- không còn tham đắm,
- cũng thành La hán.
- (77) Từ đó về sau
- những người đắc đạo
- số đến vô số,
- vạn ức thời kỳ
- tính cũng không biết
- giới hạn số ấy.
- *
- (78) Mười sáu vương tử
- lúc ấy xuất gia
- cùng làm sa di,
- và rồi cùng nhau
- thỉnh cầu đức Phật
- Đại thông trí thắng,
- rằng xin Thế tôn
- thuyết pháp đại thừa,
- (79) để cho chúng con
- cùng với tùy thuộc
- đều sẽ thành tựu
- tuệ giác Phật đà,
- ước nguyện cùng được
- y như Thế tôn
- đấng có mắt tuệ
- trong sáng bậc nhất!
- (80- 81) Biết rõ tâm lý
- các vương tử trẻ,
- lại biết đạo hạnh
- đời trước của họ,
- ngài dùng vô số
- yếu tố, ví dụ,
- mà nói sáu pháp
- ba la mật đa,
- cùng với những sự
- thần thông diệu dụng,
- phân tích giảng giải
- về pháp chân thật -
- nghĩa là giảng giải
- đường đi bồ tát,
- (82) bằng cách nói về
- Diệu pháp liên hoa,
- với những bài kệ
- nhiều bằng hằng sa (130) .
- (83) Trí thắng phật đà
- nói kinh ấy rồi,
- vào trong tịnh thất
- mà nhập thiền định,
- một lòng mà ngồi
- ngồi nơi một chỗ
- ngồi tám vạn tư
- thời kỳ bậc nhỏ.
- (84) Bấy giờ mười sáu
- sa di bồ tát
- biết đức Trí thắng
- chưa xuất thiền định,
- nên cùng diễn giảng
- tuệ giác vô thượng
- cho vô số ức
- các loại chúng sinh.
- (85) Mỗi vị sa di
- ngồi một pháp tòa,
- và cùng diễn giảng
- về kinh Pháp hoa,
- góp sức vào việc
- đem pháp giáo hóa,
- trong suốt thì gian
- ngài nhập thiền định.
- (86) Cả mười sáu vị
- mỗi vị hóa độ
- các loại chúng sinh
- bằng với số cát
- sáu trăm vạn ức
- trăm triệu sông Hằng.
- (87) Trí thắng phật đà
- nhập niết bàn rồi,
- những người nghe pháp
- mười sáu vị này,
- tại các cõi Phật
- thường sinh với thầy.
- (88) Mười sáu vị ấy
- đã đi trọn vẹn
- đường đi của Phật,
- hiện ở mười phương
- cùng thành các đấng
- Tuệ giác chính xác.
- (89) Những người nghe pháp
- vào lúc bấy giờ,
- nay ở tại chỗ
- các đức Phật ấy;
- trong đó có người
- còn là thanh văn,
- vẫn được dạy lần
- bằng tuệ giác Phật.
- *
- (90) Như lai là một
- trong số mười sáu,
- xa xưa đã từng
- dạy bảo chư vị.
- Nên nay Như lai
- vận dụng phương tiện
- dẫn dắt chư vị
- đến mau Phật tuệ.
- (91) Do sự tương quan
- xa xưa như trên,
- Như lai ngày nay
- tuyên thuyết Pháp hoa,
- làm cho chư vị
- nhập vào Phật tuệ.
- Chư vị thận trọng,
- đừng có kinh hãi!
- (92) Ví như con đường
- rất là hiểm ác
- trong chốn hoang vu,
- có lắm thú độc,
- không cả cỏ nước,
- ai cũng khiếp sợ.
- (93) Một đoàn nhiều người
- vô số ngàn vạn
- muốn vượt đường ấy,
- con đường hiểm ác
- mà lại xa đến
- năm trăm do tuần.
- (94) Một vị hướng dẫn
- có trí, nhớ kyլ
- sáng suốt, quả quyết;
- trong đường hiểm ác,
- vị ấy hướng dẫn
- đoàn người vượt qua.
- (95) Giữa đường mới qua
- ba trăm do tuần
- thì họ mệt nhọc,
- thưa vị hướng dẫn
- chúng tôi kiệt lực
- ngang đây muốn về.
- (96) Vị hướng dẫn nghĩ
- họ thật đáng thương:
- tại sao lại muốn
- trở lui mà về,
- mất phần lấy được
- vàng ngọc rất quí.
- (97) Vị ấy liền nghĩ
- một cách phương tiện:
- ông dùng sức thần
- hóa thành quách lớn,
- trang trí đủ hết
- nhà cửa tráng lệ,
- (98) vườn rừng bao quanh,
- sông đào, ao tắm,
- cửa chồng, lầu cao,
- nam nữ đông đầy.
- (99) Hóa như vậy rồi
- an ủi đoàn người
- đừng sợ gì cả,
- các người hãy vào
- trong thành quách này
- tùy ý vui thích.
- (100) Đoàn người vào thành
- lòng rất vui vẻ,
- ai cũng sinh ra
- ý tưởng yên ổn,
- lại còn tự cho
- đã được vượt qua.
- (101) Vị hướng dẫn biết
- họ nghỉ khỏe rồi,
- tập hợp mà bảo
- tất cả các người
- hãy nên đi tới,
- còn đây chỉ là
- cái thành do ta
- hóa ra mà thôi.
- (102) Thấy các người mệt
- giữa đường muốn lui,
- nên ta phương tiện
- hóa ra thành này.
- Các người bây giờ
- hãy siêng đi tới,
- để cùng được đến
- đảo vàng ngọc lớn.
- (103) Như lai cũng vậy
- làm đại đạo sư,
- thấy người cầu đạo
- nửa đường nhác bỏ,
- không thể vượt qua
- một cách hoàn toàn
- con đường hiểm ác
- sống chết phiền não.
- (104) Do đó Như lai
- thiện dụng phương tiện:
- nói ra niết bàn
- cho họ dừng nghỉ,
- bằng cách tuyên bố
- chư vị hết khổ,
- những việc phải làm
- đã làm hoàn tất.
- (105) Như lai khi biết
- chư vị đã đến
- niết bàn như vậy
- và thành La hán,
- thì họp chư vị
- nói pháp chân thật.
- (106) Nên chư Như lai
- đem sự phương tiện
- nói ba cỗ xe,
- mà thật chỉ có
- cỗ xe Phật đà
- cỗ xe duy nhất,
- còn hai cỗ xe
- thanh văn duyên giác
- nói ra chỉ để
- làm chỗ dừng nghỉ.
- (107) Như lai ngày nay
- nói sự thật này
- cho chư vị biết:
- cái chư vị được
- không phải đã là
- niết bàn hoàn toàn.
- Để đạt cho được
- tuệ giác hoàn toàn
- của bậc Toàn giác,
- chư vị cần phải
- nổi lên tột độ
- sự đại tinh tiến!
- (108) Khi nào chư vị
- đạt được tuệ giác
- của bậc Toàn giác,
- nội dung gồm hết
- phẩm chất Phật đà
- đại loại như là
- mười đại năng lực,
- lại có đủ cả
- ba mươi hai tướng
- bậc đại trượng phu,
- bấy giờ mới thật
- niết bàn hoàn toàn.
- (109) Nói tóm đây là
- sự khéo giáo hóa (131)
- của chư Phật đà,
- bậc Đại đạo sư:
- nói ra niết bàn
- để cho dừng nghỉ;
- khi biết dừng nghỉ
- đã hết mệt rồi
- thì dắt bước tới
- tuệ giác Phật đà
Phẩm 8: Năm Trăm Đệ Tử Tiếp Nhận Thọ Ky鼯big> [^]
Lúc ấy tôn giả Phú lâu na, từ nơi đức Thế tôn,
được nghe sự tùy nghi thuyết pháp của tuệ giác và phương tiện, nghe
trao cho chư vị đại đệ tử lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng,
nghe sự tương quan từ bao đời trước, nghe thần lực đại tự tại của
đức Thế tôn, nên được sự chưa từng có, tâm trí trong sáng, phấn chấn
(132) , tức thì đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, bước đến trước đức
Thế tôn, đầu mặt lạy ngang chân ngài, rồi đứng lui một khoảng, chiêm
ngưỡng dung nhan của ngài mà mắt không tạm thời rời ra, trong lòng nghĩ
rằng đức Thế tôn rất kỳ lạ, việc ngài làm thật hiếm có. Ngài
thích ứng với bao nhiêu thành phần của thế gian, sử dụng tuệ giác và
phương tiện mà thuyết pháp cho họ, kéo họ ra khỏi mọi chỗ tham đắm
vướng mắc. Đối với đức tính của Thế tôn, lời nói của chúng ta
không thể nói hết. Chỉ có đức Thế tôn mới biết ước nguyện căn bản
trong tâm lý sâu xa của chúng ta (133) .
Vào lúc ấy đức Thế tôn bảo, chư vị tỷ kheo, chư vị
thấy tôn giả Phú lâu na đây không? Như lai thường ca tụng tôn giả là
người bậc nhất trong những người thuyết pháp, lại thường tán dương
công đức của tôn giả tinh tiến duy trì và góp sức tuyên dương đối với
chánh pháp của Như lai: có năng lực ở trong bốn chúng mà trình bày, thuyết
phục, khuyến khích và tán thưởng cho họ, giải thích phong phú chánh pháp
của Như lai mà ích lợi lớn lao cho những người đồng hành phạn hạnh.
Ngoại trừ Như lai, không ai cùng tận được sự biện thuyết của tôn giả.
Chư vị đừng nói tôn giả Phú lâu na chỉ có năng lực duy trì và tuyên dương
chánh pháp của Như lai mà thôi. Nơi chín mươi ức chư Phật quá khứ, tôn
giả cũng đã duy trì và tuyên dương chánh pháp của các ngài. Trong những
người thuyết pháp của các ngài, tôn giả cũng đứng bâểc nhất. Tôn giả
rõ ràng thấu suốt về Không mà chư Phật ấy nói, được bốn trí thông
suốt (134) , thường xuyên thuyết pháp một cách xác tín, trong sạch, không
còn nghi hoặc (135) . Tôn giả có đủ thần lực bồ tát, và sống lâu bao
nhiêu thì thực hành phạn hạnh bấy nhiêu. Người của mọi thời kỳ chư
Phật ấy ai cũng nói vị này thật là thanh văn, và tôn giả cũng đem
phương tiện như vậy mà ích lợi vô số trăm ngàn chúng sinh. Tôn giả lại
giáo hóa vô lượng vô số chúng sinh, làm cho họ đứng trong tuệ giác vô
thượng. Nói tóm, vì mục đích tịnh hóa quốc độ mà tôn giả thường làm
việc Phật làm là giáo hóa chúng sinh. Chư vị tỷ kheo, trong thời kỳ bảy
đức Phật, tôn giả Phú lâu na cũng là người đứng bậc nhất trong những
người thuyết pháp. Thời kỳ chư Phật đương lai trong Hiền kiếp này,
tôn giả cũng vẫn là người bậc nhất trong những người thuyết pháp, cũng
vẫn duy trì và tuyên dương chánh pháp của chư Phật ấy. Thời kỳ vị
lai sau đó nữa, tôn giả cũng duy trì và tuyên dương chánh pháp của vô lượng
vô biên chư Phật, cũng giáo hóa ích lợi vô số chúng sinh cho họ đứng
trong tuệ giác vô thượng, cũng vì mục đích tịnh hóa quốc độ mà thường
xuyên tinh tiến giáo hóa chúng sinh.
Khi hoàn bị dần dần về đường đi như vậy của bồ tát,
qua vô lượng vô số thời kỳ rồi, tôn giả Phú lâu na sẽ ở chính nơi
quốc độ này mà thành tựu tuệ giác vô thượng, danh hiệu là Pháp minh
như lai, đủ mười đức hiệu. Pháp minh như lai lấy những đại thiên thế
giới nhiều bằng cát sông Hằng mà làm một cõi Phật của mình, đất là
bảy chất liệu quí báu, bằng phẳng như bàn tay, không có núi gò, khe suối,
ngòi lạch, hang hóc. Lầu đài bằng bảy chất liệu quí báu thì tràn đầy
cõi Phật ấy. Cung điện chư thiên thì ở gần trong không gian, nên người
với trời giao tiếp, hai bên thấy nhau được cả. Cõi Phật ấy không có
đường dữ, nữ nhân cũng không. Mọi người đều sinh ra bằng sự biến
hóa, không có dâm dục. Ai cũng có thần thông quảng đại, thân phát ánh
sáng, bay đi tự tại, trí nhớ vững chắc, tinh tiến, trí tuệ. Thân người
nào cũng màu hoàng kim, tự trang hoàng bằng ba mươi hai tướng tốt. Cả cõi
Phật ấy ai cũng thường ăn bằng hai sự ăn : ăn bằng cái vui chánh pháp
và ăn bằng cái vui thiền định. Có chúng chư bồ tát nhiều đến vô lượng
vô số ngàn vạn ức trăm triệu, đều được thần thông quảng đại và
bốn trí thông suốt, khéo léo giáo hóa các loại chúng sinh. Còn chúng chư
thanh văn thì toán số không thể xác định, vị nào cũng trọn vẹn sáu thần
thông, ba minh trí và tám giải thoát. Cõi Phật của đức Pháp minh như lai
sẽ có vô lượng thành quả trang nghiêm như vậy. Thời kỳ của ngài tên
là Bảo minh, cõi Phật của ngài tên là Thiện tịnh, và ngài sống lâu đến
vô lượng thời kỳ vô số, giáo pháp tồn tại cũng cực kỳ lâu dài.
Ngài nhập diệt rồi, những ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu được
xây dựng lên khắp cả cõi Phật.
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những
lời chỉnh cú sau đây.
- (1) Chư vị tỷ kheo,
- hãy nghe cho kyպ
- con Phật hoàn thành
- đường đi của mình
- với những phương tiện
- đã khéo học tập,
- cho nên khó thể
- nghĩ bàn về họ.
- (2) Thấu hiểu chúng sinh
- thích giáo pháp nhỏ
- và rất e sợ
- tuệ giác vĩ đại,
- nên các vị ấy
- chính là bồ tát
- mà làm thanh văn
- hay làm duyên giác.
- (3) Áp dụng vô số
- cách thức phương tiện,
- các vị giáo hóa
- đủ loại chúng sinh,
- trong khi tự xưng
- mình là thanh văn
- cách biệt xa vời
- tuệ giác của Phật.
- (4) Các vị hóa độ
- vô lượng các chúng,
- làm cho ai nấy
- đều được thành thục:
- dẫu ai lúc đầu
- ưa thích thấp nhỏ
- và hơi biếng nhác,
- nhưng rồi các vị
- dần dần làm cho
- sẽ thành Phật cả.
- (5) Ở trong cất chứa
- việc làm bồ tát,
- bề ngoài hiện ra
- hình dáng thanh văn,
- các vị tỏ ra
- ít sự ham muốn
- chán sự sống chết,
- nhưng thật các vị
- tự làm trong sạch
- cõi Phật của mình.
- (6) Lại còn tỏ ra
- có tham sân si,
- tỏ ra thích nghi
- hình thức tà kiến.
- (7) Đệ tử Như lai
- làm đến như vậy
- để mà phương tiện
- hóa độ chúng sinh.
- Như lai nói hết
- những sự biểu hiện
- giáo hóa như vậy,
- chúng sinh nghe đến
- tất có những người
- hoài nghi lầm lẫn.
- (8- 9) Ngày nay tôn giả
- Phú lâu na đây,
- nơi ngàn ức Phật
- trong thì quá khứ
- đã siêng thực hiện
- đường đi của mình:
- tuyên dương duy trì
- chánh pháp chư Phật
- để cầu đạt được
- tuệ giác vô thượng.
- Nên tôn giả đã
- ở nơi chư Phật
- làm người đứng đầu
- trong hàng đệ tử
- về sự đa văn
- cùng với trí tuệ,
- thuyết pháp một cách
- không có e sợ
- có thể làm cho
- các chúng hoan hỷ.
- Tôn giả chưa từng
- chán nản mỏi mệt
- trong sự hỗ trợ
- việc làm của Phật.
- (10) Tôn giả vượt đến
- thần thông rộng lớn,
- lại có đủ cả
- bốn trí thông suốt,
- biết rõ mọi người
- trình độ lanh chậm,
- rồi thường tuyên thuyết
- về pháp trong sáng.
- (11) Phô bày thích thú
- nghĩa của pháp ấy,
- giáo hóa chúng sinh
- nhiều ngàn vạn ức
- cho họ ngồi vào
- cỗ xe vĩ đại,
- và bằng cách ấy
- mà tôn giả này
- tự làm trong sạch
- cõi Phật của mình.
- (12) Trong thì vị lai
- tôn giả lại còn
- hiến cúng vô số
- chư Phật như lai,
- duy trì tuyên dương
- chánh pháp các ngài,
- cũng để tịnh hóa
- cõi Phật của mình.
- (13) Thường xuyên vận dụng
- các cách phương tiện,
- tôn giả thuyết pháp
- không sợ gì cả,
- hóa độ các chúng
- không thể tính kể
- cho họ thành đạt
- tuệ giác hoàn toàn.
- (14) Hiến cúng chư Phật
- bằng cách kính giữ
- kho tàng chánh pháp
- quí báu bậc nhất,
- sau đó tôn giả
- được thành Phật đà
- với danh hiệu là
- Pháp minh như lai.
- (15- 16) Cõi Phật của ngài
- tên là Thiện tịnh,
- do bảy chất quí
- kết hợp mà thành.
- Thời kỳ của ngài
- tên là Bảo minh.
- Chúng chư bồ tát
- rất là đông nhiều,
- số lượng đạt đến
- vô số vạn ức,
- toàn đã đạt được
- thần thông quảng đại,
- uy đức năng lực
- hoàn bị đầy đủ,
- những vị như vậy
- đầy cõi của ngài.
- (17) Chúng chư thanh văn
- cũng là vô lượng,
- đủ ba minh trí
- và tám giải thoát,
- lại còn có được
- bốn trí thông suốt,
- những vị như vậy
- lấy làm Tăng bảo.
- (18) Toàn cõi Thiện tịnh
- tất cả mọi người
- đã đoạn trừ hết
- những cách dâm dục,
- thuần nhất như nhau
- sinh bằng biến hóa,
- ba mươi hai tướng
- trang hoàng thân thể.
- (19) Vui đẹp về pháp
- vui đẹp về định,
- người Thiện tịnh ăn
- bằng hai sự ấy,
- không còn tưởng đến
- những cách ăn khác.
- Cõi Phật như vậy
- không có nữ nhân,
- các nẻo đường dữ
- cũng không còn có.
- (20) Vị đại tỷ kheo
- Phú lâu na này,
- mọi phẩm chất Phật
- thành mãn cả rồi
- sẽ được cõi Phật
- trong sạch như vậy.
- Nơi đó rất nhiều
- chư vị hiền thánh
- và vô lượng việc
- cùng loại như thế,
- nay đây Như lai
- chỉ nói sơ lược (136) .
Lúc ấy một ngàn hai trăm vị La hán, những bậc tâm đã tự
tại, đều nghĩ rằng chúng ta rất hoan hỷ, được sự chưa từng có. Nếu
chúng ta được đức Thế tôn thọ ký cho như các viể đại đệ tử của
ngài thì thật thích thú. Đức Thế tôn biết rõ ý nghĩ trong lòng của chư
vị ấy nên bảo tôn giả Đại ca diếp, một ngàn hai trăm vị La hán này,
Như lai nay tuần tự trao cho họ lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng.
Đại ca diếp, trong chúng La hán này, đại đệ tử của
Như lai là tỷ kheo Kiều trần như sẽ hiến cúng sáu vạn hai ngàn ức chư
Phật, sau đó thành Phật với danh hiệu Phổ minh như lai, đủ mười đức
hiệu. Năm trăm vị trong số một ngàn hai trăm vị La hán, đại loại như
các tôn giả Tần loa ca diếp, Già da ca diếp, Na đề ca diếp, Ca lưu đà
di, Ưu đà di, A nâu lâu đà, Ly bà đa, Kiếp tân na, Bạc câu la, Châu đà,
Sa già đà, đều sẽ được tuệ giác vô thượng và cùng một danh hiệu
Phổ minh như lai.
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những
lời chỉnh cú sau đây.
- (21- 22) Vị đại tỷ kheo
- Kiều trần như này
- sẽ gặp vô lượng
- chư Phật như lai,
- trải qua thời kỳ
- nhiều đến vô số
- mới thành một bậc
- Biết khắp và đúng.
- (23) Thường xuyên phóng ra
- ánh sáng rất lớn,
- đầy đủ hết thảy
- các thần thông lực,
- danh tiếng vang động
- khắp cả mười phương,
- hết thảy chúng sinh
- ai cũng tôn kính,
- và thường tuyên thuyết
- tuệ giác vô thượng,
- vì vậy mà được
- danh hiệu Phổ minh.
- (24- 25) Quốc độ trong sạch,
- bồ tát dũng mãnh,
- ai cũng lên ngự
- lầu đài đẹp đẽ,
- bay dạo khắp cả
- mười phương quốc độ,
- đem những cúng phẩm
- giá trị tối thượng
- cung kính hiến lên
- chư Phật như lai.
- (26) Hiến cúng thế rồi
- lòng rất hoan hỷ,
- giây lát về lại
- quốc độ của mình:
- thần lực họ có
- đến như thế ấy.
- (27) Phổ minh như lai
- sống lâu đến số
- sáu vạn thời kỳ,
- giáo pháp nguyên chất
- tồn tại gấp đôi
- thì gian sống lâu.
- (28) Giáo pháp tương tự
- lại tồn tại đến
- gấp đôi thì gian
- giáo pháp nguyên chất.
- Và khi giáo pháp
- ẩn mất không còn
- thì cả trời người
- đều rất lo buồn.
- (29) Còn năm trăm vị
- tỷ kheo khác nữa
- đều sẽ tuần tự
- mà thành Phật đà,
- và cùng danh hiệu
- Phổ minh như lai.
- (32) Chư Phật như vậy
- triển chuyển tuần
- tự thọ ký cho nhau,
- rằng khi Như lai
- nhập niết bàn rồi,
- vị này kế vị
- làm Phật giáo chủ,
- giáo hóa thế gian
- y như Như lai
- giáo hóa hiện giờ (137) .
- (30- 31) Đến như quốc độ
- đẹp sạch ra sao,
- năng lực thần thông
- quảng đại thế nào,
- thanh văn bồ tát
- nhiều đến bao nhiêu,
- giáo pháp nguyên chất
- giáo pháp tương tự
- cùng với đời sống
- nhiều ít thế nào,
- hết thảy đều như
- ở trên đã nói.
- (33) Này Đại ca diếp,
- tôn giả đã biết
- về năm trăm vị
- Tâm tự tại rồi,
- còn các vị khác
- trong chúng thanh văn
- tất cả cũng được
- thọ ký như vậy.
- Vị nào vắng mặt
- trong đại hội này,
- tôn giả truyền đạt
- cho vị ấy biết.
Năm trăm vị La hán đối trước đức Thế tôn được thọ
ký rồi, hoan hỷ, phấn chấn, tức thì đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi,
đến trước đức Thế tôn, đầu mặt lạy ngang chân ngài, hối lỗi, tự
trách, bằng cách thưa rằng, bạch đức Thế tôn, chúng con thường có ý
nghĩ tự cho đã được niết bàn cuối cùng. Ngày nay mới biết ý nghĩ ấy
thật như một kẻ vô trí. Tại sao, vì chúng con phải được tuệ giác của
Phật, vậy mà tự cho tuệ giác nhỏ mọn đã là đầy đủ.
Bạch đức Thế tôn, ví như có kẻ đến nhà bạn thân,
say rượu nằm ngủ. Bấy giờ người bạn sắp đi việc công, nên đem viên
ngọc vô giá buộc vào áo trong (138) của người ấy. Cho như vậy rồi đi.
Người ấy ngủ say, không hay biết gì cả. Tỉnh dậy thì lang thang đến xứ
khác. Vì cơm áo mà ra sức làm lụng rất cực nhọc. Và kiếm được chút
ít thì tự cho đã đủ. Về sau người bạn thân gặp lại, thấy mà phải
kêu lên, quái lạ cho một kẻ nam nhi, sao lại vì cơm áo mà đến nông nỗi
này! Trước đây, tôi muốn làm cho anh yên vui sung sướng, mặc ý hưởng
thụ năm thứ dục lạc, nên ngày tháng năm ấy, tôi đã đem viên ngọc vô
giá buộc vào áo trong của anh. Nay đang còn kia. Sao anh không biết, để phải
khó nhọc, lo lắng kiếm cách mới sống. Anh thật khờ dại. Bây giờ anh
hãy đem viên ngọc ấy đổi lấy những thứ cần dùng, thì luôn luôn vừa
ý, không còn thiếu thốn gì nữa.
Đức Thế tôn cũng vậy. Khi ngài làm bồ tát, đã giáo
hóa chúng con phát ra chí nguyện mong cầu tuệ giác của bậc Toàn giác, nhưng
chúng con quên ngay, không hay biết gì hết. Được đạo quả La hán là tự
cho đã niết bàn, như kẻ kiếm sống cực nhọc nên chỉ được chút ít
mà tự cho đã đủ. Trong khi đó chí nguyện về tuệ giác của bậc Toàn
giác vẫn còn y nguyên, không mất đi đâu cả. Ngày nay đức Thế tôn thức
tỉnh chúng con, bằng cách dạy rằng, chư vị tỷ kheo, cái mà chư vị được
chưa phải niết bàn cuối cùng. Như lai từ xưa đã dạy cho chư vị gieo trồng
gốc rễ điều lành của Phật; chỉ vì phương tiện nên Như lai nói cái
chư vị được là niết bàn, vậy mà chư vị lại cho là thật được niết
bàn. Bạch đức Thế tôn, ngày nay chúng con mới biết mình thật là bồ
tát, được nhận lời ghi về tuệ giác vô thượng. Do vậy mà chúng con
cùng cực hoan hỷ, được sự chưa từng có.
Tôn giả Kiều trần như, và các vị đồng đẳng, lặp lại
ý nghĩa đã thưa bằng những lời chỉnh cú sau đây.
- (34) Chúng con nghe được
- âm thanh tối thượng
- của đức Thế tôn
- an ủi thọ ký,
- lòng rất vui mừng
- được chưa từng có.
- Chúng con chí thành
- kính lạy Thế tôn,
- một bậc Tuệ giác
- không có giới hạn!
- (35) Ngày nay chúng con
- đối trước Thế tôn
- xin tự sám hối
- lầm lỗi ngày xưa.
- Vàng ngọc Thế tôn
- thật là vô lượng,
- chúng con chỉ được
- ít phần niết bàn,
- mà đã in như
- một kẻ vô trí,
- tự cho mình được
- đầy đủ cả rồi.
- (36) Như kẻ nghèo nàn
- đến nhà bạn thân.
- Bạn giàu có lớn
- đãi đủ cỗ bàn;
- (37) đem ngọc vô giá
- buộc vào áo trong,
- yên lặng biếu cho
- để đó mà đi,
- trong khi người nghèo
- say ngủ không biết.
- (38) Người nghèo thức dậy
- lang thang xứ khác,
- tìm kiếm cơm áo
- để tự nuôi mình.
- Kiếm sống như vậy
- rất là cực nhọc.
- (39) Và được chút ít
- đã hài lòng rồi,
- không còn ước nguyện
- ưa thích gì nữa.
- Không biết áo trong
- có ngọc vô giá.
- (40) Người bạn cho ngọc
- sau gặp người nghèo,
- trách mắng nghiêm khắc
- rồi chỉ cho anh
- viên ngọc vô giá
- đã buộc áo trong.
- (41) Người nghèo được ngọc
- lòng rất vui thích.
- Viên ngọc làm anh
- giàu có của cải,
- năm thứ dục lạc
- mặc sức thụ hưởng.
- (42) Chúng con cũng vậy.
- Thế tôn từ xưa
- đã thường thương tưởng
- giáo hóa chỉ dạy,
- gieo vào chúng con
- chí nguyện tối thượng (139) .
- (43) Chúng con vô trí
- không hay không biết;
- chỉ mới đạt được
- ít phần niết bàn,
- đã tự thỏa mãn
- không cầu gì nữa.
- (44) Ngày nay Thế tôn
- thức tỉnh chúng con:
- cái chúng con được
- chưa thật niết bàn;
- đạt được tuệ giác
- vô thượng của Phật,
- bấy giờ mới là
- niết bàn chân thật.
- (45) Ngày nay chúng con
- từ đức Thế tôn
- nghe sự huy hoàng
- ngài thọ ký cho,
- nghe sẽ tuần tự
- thọ ký cho nhau,
- thì cả thân tâm
- tràn đầy hoan hỉ.
Chân thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp
và Nguyễn Anh Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File,
VPS font sang dạng Word, VNI font. Thích Nhật Từ 3-5-2000
Phần | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 |
|
|