...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
Kinh
Hoa Sen Chánh Pháp
HT. Thích Trí Quang dịch giải
Phần
8
Phẩm 14: Sống Yên Vui [^]
Vào lúc bấy giờ, Văn thù đại
sĩ, vị thái tử của đức Pháp vương, thưa với ngài rằng, bạch đức
Thế tôn, các vị bồ tát này thật hiếm có. Các vị kính thuận đức Thế
tôn nên phát ra thệ nguyện cao cả, nguyện ở trong thời kỳ dữ dội sau
này mà kính giữ Pháp hoa bằng cách đọc tụng diễn giảng kinh ấy. Nhưng
bạch đức Thế tôn, bồ tát đại sĩ ở trong thời kỳ dữ dội sau này,
làm thế nào để diễn giảng Pháp hoa? Đức Thế tôn dạy, Văn thù, bồ
tát đại sĩ ở trong thời kỳ dữ dội sau này, muốn diễn giảng Pháp hoa
thì phải đặt mình vững chắc vào trong bốn cách sống yên vui (173) .
Cách sống yên vui thứ nhất là đặt
mình vững chắc vào phạm vi đi và phạm vi thân của bồ tát, mới có năng
lực diễn giảng Pháp hoa cho mọi người.
Văn thù, phạm vi đi của bồ tát
là gì? Là bồ tát đi trong đường đất nhẫn nhục, ôn hòa, khéo thuận,
không thô bạo, không kinh hoảng. Hơn nữa, đối với các pháp thì không
đi theo pháp nào mà chỉ nhìn thật tướng của các pháp ấy, cũng không
đi theo sự không nhận thức các pháp (174) . Như vậy gọi là phạm vi đi của
bồ tát.
Phạm vi thân của bồ tát là gì?
Là bồ tát không thân gần quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng.
Không thân gần tu sĩ ngoại đạo, Ni kiền tử. Không thân gần những kẻ
tạo ra văn bút, thi ca và tác phẩm trần tục. Không thân gần những kẻ
theo chủ thuyết xuôi với đời hay chủ thuyết ngược với đời. Cũng không
thân gần những kẻ chơi những trò chơi hung hãn như đâm nhau, vật nhau;
những kẻ hóa trang, ảo thuật. Không thân gần chiên đà la và những kẻ
ác luật nghi như nuôi heo dê gà chó, săn bắn chài lưới (175) . Tất cả
những kẻ trên đây có khi đến với bồ tát, thì bồ tát nên thuyết
pháp cho họ mà không ước vọng gì về danh lợi. Lại không thân gần bốn
chúng cầu niết bàn của thanh văn, không hỏi thăm, không ở chung trong
phòng, chỗ kinh hành hay trong giảng đường (176) . Các vị ấy có khi đến
với bồ tát thì bồ tát tùy nghi thuyết pháp mà không ước vọng gì về
danh lợi. Văn thù, đối với thân thể nữ nhân, bồ tát không vì những
hình dáng phát sinh tư tưởng về dục mà thuyết pháp cho họ, cũng không
ham gặp. Đến nhà người, đừng nói chuyện với thiếu nữ, xử nữ, quả
phụ... Đừng gần mà thân thiết với năm loại người phi nam (177) . Đừng
một mình đến nhà người; có lý do phải đến một mình thì chuyên tâm
nghĩ nhớ đến Phật. Thuyết pháp cho nữ nhân thì không cười bày răng,
không để hở ngực, và đến nỗi vì chánh pháp cũng không thân thiết với
nữ nhân, huống chi vì gì khác (178) . Không thích nuôi đệ tử sa di nhỏ
tuổi, trẻ con, cũng không thích cùng thầy với họ. Thường ưa ngồi thiền,
ở chỗ không bị quấy nhiễu, tập trung mà sửa chữa tâm mình. Văn thù,
như vậy gọi là phạm vi thân thứ nhất của bồ tát. Bồ tát lại xét
các pháp là Không ẩ thấy thật tướng các pháp: không thác loạn, không
dao động, không suy thoái, không chuyển biến; thấy như hư không: không phải
những sự sở hữu của tư duy, không phải những sự mô tả của ngôn ngữ
(179) , không phát sinh, không xuất hiện, không nổi dậy, không danh từ,
không khái niệm; thấy thật là không thật: không số lượng, không giới
hạn, không trở ngại, không ngăn cách ẩ chỉ do sự tương quan mà có, và
từ sự nhận thức thác loạn mà phát sinh và diễn tả. Thường thích
quán sát về thật tướng như vậy. Đó là phạm vi thân thứ hai của bồ
tát.
Khi ấy đức Thế tôn muốn lặp lại
ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (1) Thời ác sau này,
- vị bồ tát nào
- không có e sợ,
- muốn nói Pháp hoa,
- (2) thì phải vào nơi
- chỗ đi chỗ thân.
- Thường xa quốc vương,
- cùng với vương tử,
- (3) đại thần, quan trưởng,
- kẻ chơi hung hãn,
- kẻ làm ảo thuật,
- kẻ chiên đà la,
- và những tu sĩ
- các phái ngoại đạo.
- (4) Cũng không thân gần
- người tăng thượng mạn,
- học giả thuộc cả
- ba tạng tiểu thừa (180) ,
- tỷ kheo phá giới,
- La hán giả danh.
- (5- 6) Những tỷ kheo ni
- ưa thích cười giỡn,
- những nữ tín đồ
- quá ham ngũ dục,
- với những người ấy
- đều chớ thân gần.
- Và sự thể này
- nên coi như là
- tìm kiếm niết bàn
- ngay trong hiện tại (181) .
- (7) Những người trên đây
- bằng tâm lý tốt
- đến chỗ bồ tát
- để được nghe nói
- về tuệ giác Phật,
- bồ tát phải đem
- sự không khiếp sợ,
- và không ẩn ý
- ước vọng danh lợi,
- mà thuyết pháp cho.
- (8) Quả phụ, xử nữ,
- và những phi nam,
- đừng nên gần gũi
- làm người thân thiết.
- (9- 12) Cũng đừng thân gần
- thầy trò thợ thịt.
- Săn bắn chài lưới
- vụ lợi sát hại,
- sinh sống bằng nghề
- buôn bán thịt cá,
- ma cô tú bà
- buôn bán nữ sắc,
- những kẻ như vậy
- cũng đừng thân gần.
- (13) Đô vật hung hãn,
- các loại trò chơi,
- cũng như dâm nữ
- đều không thân gần.
- Đừng ngồi chỗ khuất
- và ngồi một mình
- mà thuyết chánh pháp
- cho các nữ nhân,
- khi thuyết chánh pháp
- thì đừng đùa giỡn.
- (14) Đi vào khất thực
- nơi chỗ dân cư
- thì phải đi với
- một vị tỷ kheo,
- nếu không có được
- vị tỷ kheo ấy
- thì phải chuyên tâm
- nghĩ nhớ đến Phật.
- (15) Như vậy gọi là
- chỗ đi chỗ thân;
- nhờ hai chỗ ấy
- thuyết pháp yên vui.
- (16) Lại không đi theo
- pháp cao vừa thấp,
- hữu vi vô vi,
- thật với không thật.
- (17) Cũng không phân biệt
- này đây là nam
- này đây là nữ,
- không biết không thấy
- không tìm ra được
- các pháp là thật.
- (18) Như vậy gọi là
- chỗ bồ tát đi.
- (19) Tất cả các pháp
- không phải thật có:
- không phải thường còn
- không phải sinh diệt,
- đó là chỗ thân
- của bậc có trí.
- (20) Nhận thức thác loạn
- nên thấy các pháp
- có không, thật giả,
- và sinh với diệt.
- (21) Ở chỗ trống vắng
- tập trung tâm trí,
- an nhiên bất động
- như núi Tu di,
- mà xét các pháp
- thì thấy là Không.
- (22) Tựa như hư không
- không gì cố định :
- không là phát sinh
- cũng không xuất hiện,
- không là suy thoái
- cũng không dao động,
- vĩnh viễn duy nhất,
- ấy là chỗ thân.
- (23) Sau khi Như lai
- nhập niết bàn rồi,
- bấy giờ nếu có
- tỷ kheo bồ tát
- nhập vào chỗ đi
- và chỗ thân này,
- thì nói Pháp hoa
- không có khiếp nhược.
- (24- 25) Có lúc vị ấy
- vào trong tịnh thất,
- ghi nhớ chính xác
- xét pháp theo nghĩa,
- rồi xuất thiền định
- mà giảng Pháp hoa;
- diễn giảng khai thị
- cho hàng quốc vương,
- vương tử, thần dân,
- và bà la môn,
- mà tâm an nhiên
- không có khiếp nhược.
- Văn thù đại sĩ,
- như vậy gọi là
- bồ tát đứng vững
- nơi cách thứ nhất,
- có thể ở trong
- thời ác sau này
- tuyên thuyết phong phú
- Diệu pháp liên hoa.
Văn thù, sau khi Như lai nhập diệt,
trong thời kỳ giáo pháp cuối cùng, ai muốn diễn giảng Pháp hoa thì phải
đặt mình vững chắc vào trong cách sống yên vui thứ hai. Là miệng chỉ
diễn giảng hay đọc tụng kinh điển, không thích nói nhược điểm của
người, của kinh điển. Không khinh ngạo các vị diễn giảng khác. Không
nói những sự tốt xấu giỏi dở của mọi người. Đối với thanh văn,
không đem tên ra mà nói xấu hay khen tốt. Tâm lý oán ghét hiềm khích
không hề nổi dậy, là vì khéo tu cái tâm yên vui. Ai muốn nghe pháp cũng
không nghịch ý họ. Họ hỏi gì thì không trả lời bằng giáo pháp cỗ xe
thấp nhỏ, chỉ đem giáo pháp cỗ xe vĩ đại mà giảng giải, làm cho họ
đạt được tuệ giác Biết tất cả. Đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa
đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (26- 30) Bồ tát là người
- luôn luôn thư thái
- yên vui thuyết pháp.
- Một cái pháp tòa
- được sắp đặt cho
- nơi chỗ sạch sẽ.
- Trước đó tắm rửa
- sạch hết dơ bẩn,
- lấy dầu xoa mình,
- mặc áo sạch mới.
- Trong ngoài sạch rồi
- đến ngồi pháp tòa,
- tùy người thưa hỏi
- mà giảng nói cho.
- Đối diện tỷ kheo
- và tỷ kheo ni,
- hoặc ưu bà tắc
- với ưu bà di,
- quốc vương vương tử
- quần thần sĩ dân,
- đều đem nghĩa lý
- tinh túy sâu xa
- mà nói cho họ
- với mặt hiền hòa.
- (31) Có ai gạn hỏi,
- đáp theo nghĩa lý;
- yếu tố, ví dụ,
- diễn giảng, phân tích,
- dùng những cách này
- làm họ phát tâm
- tăng dần lợi ích
- vào tuệ giác Phật.
- (32) Loại bỏ biếng nhác,
- tách xa bực dọc,
- đem tâm từ bi
- mà thuyết chánh pháp.
- (33) Ngày đêm thường thuyết
- chánh pháp vô thượng,
- đem mọi yếu tố
- và lắm ví dụ
- khai thị cho người
- làm ai cũng vui.
- (34) Đồ mặc đồ nằm
- đồ ăn đồ uống
- cùng với thuốc thang,
- đối với tất cả
- những thứ như vậy
- không mong ước gì.
- (35) Chỉ một tâm nguyện
- nguyện nhờ thuyết pháp
- mà mình với người
- cùng được thành Phật,
- và đó chính là
- những sự ích lợi,
- lạc thú, hiến cúng
- vô cùng lớn lao.
- (36) Sau khi Như lai
- nhập niết bàn rồi,
- bấy giờ nếu có
- tỷ kheo bồ tát
- có thể diễn giảng
- Diệu pháp liên hoa,
- thì lòng không còn
- ganh tị, tức bực,
- không bị quấy phá
- không gặp trở ngại,
- không còn lo rầu
- không ai thóa mạ,
- (37) không bị khủng bố,
- hành hung, xua đuổi,
- vì đã đứng vững
- trong sự ẩn nhẫn.
- (38) Người có trí tuệ
- khéo tu tâm mình
- bằng cách sống theo
- cách sống yên vui
- mà ở trên đây
- Như lai đã dạy,
- thì bao hiệu quả
- mà người ấy có,
- vạn ức thời kỳ
- áp dụng toán số
- hay sự ví dụ
- nói cũng không hết.
Văn thù, cách sống yên vui thứ ba
là, sau này, trong thời kỳ cuối cùng, khi giáo pháp sắp ẩn mất, những
người kính giữ (182) Pháp hoa thì đừng ôm giữ tâm lý ganh ghét, dua nịnh
và dối trá. Đừng khinh khi thóa mạ những người học tập tuệ giác của
Phật, đừng tìm kiếm điều hay cái dở của những người ấy. Đối với
bốn chúng tỷ kheo, tỷ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, đối với các vị cầu
cỗ xe thanh văn, cỗ xe duyên giác, cỗ xe bồ tát, thì đừng quấy rối, làm
cho họ thắc mắc, hối tiếc, bằng cách nói rằng các người cách xa tuệ
giác của Phật, không bao giờ thực hiện được tuệ giác Biết tất cả,
vì lẽ các người là những kẻ bất thường, biếng nhác đối với tuệ
giác ấy (183) . Đừng bàn chơi các pháp, cãi cọ lẫn nhau. Đối với chúng
sinh thì nghĩ đến đại bi, đối với Phật đà thì nghĩ là từ phụ, đối
với bồ tát thì nghĩ là đại sư. Đối với bồ tát mười phương thì
tôn kính sâu xa, đối với chúng sinh đủ loại thì thuyết pháp bình đẳng.
Nhưng thuận với chánh pháp nên không nói nhiều cũng không nói ít, thậm
chí đối với những người ưa thích chánh pháp một cách sâu xa cũng không
vì họ mà nói nhiều. Văn thù, sau này, trong thời kỳ cuối cùng, khi giáo
pháp sắp ẩn mất, các vị bồ tát có ai thành tựu cách sống yên vui thứ
ba này thì lúc diễn giảng Pháp hoa không ai quấy phá được. Người ấy còn
được đồng học rất tốt, chung nhau đọc tụng Pháp hoa; được các
chúng đến nghe mà nghe rồi nhớ được, nhớ rồi tụng được, tụng rồi
giảng được, giảng rồi tự mình sao chép hay khuyên người sao chép, và
hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương đối với cuốn kinh ấy. Đức Thế
tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (39) Muốn giảng Pháp hoa,
- phải bỏ tâm lý
- ganh tức, ngạo mạn,
- dua nịnh, tà ngụy,
- mà thường tu sửa
- đức tính chất trực.
- (40) Đừng khinh miệt người,
- cũng đừng bàn chơi
- đối với các pháp,
- đừng làm người khác
- thắc mắc hối tiếc
- bằng cách nói rằng
- các người không thể
- thành đức Phật đà.
- (41) Con Phật như vậy
- diễn giảng Pháp hoa
- thường xuyên ôn hòa
- và hay ẩn nhẫn,
- từ bi giáo hóa
- tất cả các chúng,
- không hề sinh ra
- tâm tư biếng nhác.
- (42) Chư đại bồ tát
- ở mười phương hướng,
- vì thương chúng sinh
- du hóa khắp cả;
- thì với các ngài
- phải nên tôn kính,
- rằng đó là bậc
- đại sư của tôi.
- (43) Đối với chư vị
- Đại giác thế tôn
- thì thờ làm bậc
- từ phụ tối thượng.
- Dẹp bỏ tất cả
- tâm lý kiêu căng,
- nên thuyết chánh pháp
- không gặp trở ngại.
- (44) Cách sống thứ ba
- là như thế ấy,
- người có trí tuệ
- phải giữ cho đúng.
- Đồng nhất tâm mình
- với cách sống vui,
- thì được vô lượng
- các chúng tôn kính.
Văn thù, cách sống yên vui thứ tư
là, sau này, trong thời kỳ cuối cùng, khi giáo pháp sắp ẩn mất, bồ tát
có vị nào kính giữ Pháp hoa thì đối với những người tại gia và xuất
gia phải có lòng lành, đối với những người không phải bồ tát phải
có lòng thương; nên nghĩ như vầy: những người ấy mất mát rất lớn nếu
không nghe không biết không hay, không hỏi không tin không hiểu gì về sự
phương tiện tùy nghi thuyết pháp của đức Thế tôn, nghĩa là không hỏi
không tin không hiểu gì về Pháp hoa. Dầu vậy, ta vẫn nguyện rằng khi
được tuệ giác vô thượng rồi, tùy những người này ở vào bất cứ vị
trí nào, ta cũng đem thần thông lực và trí tuệ lực mà dẫn dắt cho họ
được đứng vào trong Pháp hoa. Văn thù, sau khi Như lai nhập diệt, bồ tát
có ai thành tựu cách sống yên vui thứ tư này thì diễn giảng Pháp hoa
không có lầm lỗi, thường được bốn chúng, được quốc vương, vương
tử, đại thần, dân chúng, bà la môn, cư sĩ, và mọi thành phần khác,
cùng hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương. Chư thiên ở trong không
gian, vì nghe pháp nên cũng thường xuyên theo hầu. Khi vị ấy ở những nơi
thôn xóm thành thị, hoặc ở những chỗ núi rừng thanh vắng, có ai đến
muốn gạn hỏi, thì chư thiên ngày đêm thường vì pháp mà hộ vệ vị
ấy, làm cho người nghe ai cũng hoan hỷ. Tại sao, vì Pháp hoa là bản kinh
được sự giữ gìn của thần lực chư Phật quá khứ vị lai cùng với hiện
tại. Văn thù, trong vô lượng quốc độ, kinh Pháp hoa này đến nỗi cái
tên còn khó được nghe đến, huống chi được nhìn thấy, thọ trì đọc
tụng đối với kinh ấy.
Văn thù, ví như vị luân vương hùng
cường, muốn sử dụng uy thế làm cho các nước thần phục. Nhưng các quốc
vương không tuân lịnh. Luân vương phải động binh chinh phạt. Và thấy tướng
sĩ chiến đấu ai có công thì luân vương mừng, tùy công mà thưởng bằng
cách hoặc cho ruộng đất, nhà cửa, thôn xóm, thành thị, hoặc cho y phục
và những đồ trang sức thân thể, hoặc cho những thứ quí báu như bạc,
vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, hoặc cho voi ngựa, xe thuyền,
tôi tớ, dân chúng. Chỉ viên ngọc sáng trong bối tóc (184) thì không đem
cho, vì chỉ trên đỉnh đầu của luân vương mới có viên ngọc sáng ấy.
Nếu đem cho thì tướng sĩ của luân vương tất hết sức kinh dị. Văn thù,
Như lai cũng vậy, nhờ định lực và tuệ lực mà có quốc gia chánh pháp,
ngự trị ba cõi. Nhưng chúa tể các loại ma không chịu khuất phục. Tướng
sĩ hiền thánh của Như lai phải chiến đấu với chúa tể các loại ma ấy.
Và ai có công thì Như lai hoan hỷ, ở giữa bốn chúng mà nói cho họ các
kinh pháp để họ đẹp dạ, thưởng cho họ bao nhiêu là tài sản chánh
pháp đại loại như thiền định, giải thoát, căn bản và năng lực thuần
khiết (185) , lại ban cho họ đô thành niết bàn, tuyên ngôn họ được niết
bàn để dẫn đạo cho lòng họ hoan hỷ. Nhưng không nói cho họ kinh Pháp
hoa này.
Văn thù, vị luân vương thấy tướng
sĩ ai có công lớn mới rất mừng, và đem viên ngọc sáng, một viên ngọc
khó có ai tin nổi giá trị của nó, từ lâu luân vương để trong bối tóc,
không bừa bãi cho ai mà nay thưởng cho. Như lai cũng vậy, làm vị Pháp vương
vĩ đại trong cả ba cõi, đem chánh pháp giáo hóa hết thảy chúng sinh, thấy
tướng sĩ hiền thánh chiến đấu với ma hợp thể, ma phiền não và ma chết
chóc (186) mà ai có công lớn diệt ba độc, vượt ba cõi, phá lưới ma, thì
bấy giờ Như lai rất hoan hỷ, và đem kinh Pháp hoa, bản kinh có năng lực
làm cho chúng sinh đạt đến tuệ giác của bậc Toàn giác, hết thảy thế
gian phần nhiều oán ghét khó tin, trước đây chưa nói bao giờ mà nay nói
cho. Văn thù, Pháp hoa là pháp thoại bậc nhất của chư Phật. Trong các
pháp thoại, Pháp hoa sâu xa hơn hết, nên cuối cùng Như lai mới nói mà ban
cho, như vị luân vương hùng cường giữ mãi viên ngọc sáng, ngày nay mới
đem ban thưởng. Văn thù, Pháp hoa là kho tàng bí mật của chư Phật, ở trên
hết trong các kinh pháp, Như lai giữ gìn từ lâu, không nói bừa bãi, ngày
nay mới đem phát lộ cho chư vị.
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (45) Thường xuyên nhẫn nhục,
- xót thương tất cả,
- mới diễn giảng được
- kinh Phật tán dương.
- (46) Trong thời cuối cùng,
- kính giữ Pháp hoa,
- thì với những vị
- tại gia xuất gia
- cùng với những vị
- không phải bồ tát,
- phải có từ bi
- thương người không nghe
- không tin Pháp hoa
- là rất mất mát.
- (47) Nguyện rằng khi được
- tuệ giác Phật đà
- thì dùng phương tiện
- nói cho Pháp hoa,
- để làm cho họ
- đứng trong pháp ấy.
- *
- (48) Ví như luân vương
- năng lực hùng cường,
- thấy các tướng sĩ
- chiến đấu có công,
- thì đem tưởng thưởng
- đủ cả mọi vật:
- voi ngựa xe thuyền,
- đồ trang sức mình,
- cùng với nhà đất,
- thôn xóm thị thành.
- (49) Hoặc cho y phục,
- các thứ vàng ngọc,
- tôi tớ tài sản
- vui vẻ cho cả.
- (50) Nhưng ai mạnh nhất
- làm việc khó làm,
- mới mở bối tóc
- lấy cho ngọc sáng.
- (51) Như lai cũng vậy:
- làm vua các pháp,
- có sức mạnh lớn
- là sức nhẫn nhục,
- và kho báu lớn
- là kho tuệ giác,
- vận dụng đại từ
- cùng với đại bi
- giáo hóa thế giới
- một cách đúng cách.
- (52) Là thấy mọi người
- chịu bao khổ não,
- muốn thoát khổ não
- nên chiến với ma;
- Như lai vì họ
- nói các chánh pháp,
- đem phương tiện
- khéo nói bao khế kinh.
- (53) Khi biết mọi người
- đắc lực cả rồi,
- cuối cùng nói cho
- kinh Pháp hoa này;
- tựa như luân vương
- lấy viên ngọc sáng
- để trong bối tóc
- đem ra ban thưởng.
- (54) Pháp hoa tôn quí
- trên hết các kinh,
- Như lai giữ gìn
- không nói bừa bãi.
- Nay mới đúng lúc
- nói cho chư vị.
- (55) Sau khi Như lai
- nhập niết bàn rồi,
- những ai tìm kiếm
- tuệ giác Phật đà,
- muốn được yên vui
- giảng nói Pháp hoa
- thì phải thân gần
- bốn cách sống vui.
- *
- (56) Đọc tụng Pháp hoa
- thì không lo bực,
- cũng không đau ốm,
- sắc tướng sáng tươi;
- không sinh hay sống
- ở trong những chỗ
- nghèo nàn khốn cùng
- thấp hèn xấu xí.
- (57) Ai cũng thích nhìn
- như mến hiền thánh.
- Đồng tử chư thiên
- làm người phục dịch.
- (58) Dao gậy vô phương,
- độc tố hết phép.
- Ai muốn mắng chưởi
- miệng lưỡi tắc nghẽn.
- (59) Như sư tử chúa
- đi đâu chẳng sợ.
- Trí tuệ chiếu sáng
- như mặt trời chiếu.
- (60) Trong mộng thì thấy
- toàn việc tốt đẹp.
- Được thấy Như lai
- ngồi tòa sư tử,
- đang thuyết pháp cho
- tỷ kheo bao quanh.
- (61) Được thấy tám bộ
- chư thiên thiện thần
- nhiều bằng hằng sa
- cung kính chắp tay,
- và thấy chính mình
- thuyết pháp cho họ.
- (62) Được thấy Như lai
- thân đầy tướng quí
- toàn màu hoàng kim,
- phóng ra vô số
- các tia ánh sáng
- chiếu soi khắp cả,
- lại còn sử dụng
- âm thanh Phạn thiên
- tuyên thuyết diễn giảng
- các loại chánh pháp.
- (63) Lại thấy Như lai
- nói pháp tối thượng
- cho cả bốn chúng,
- và thấy bản thân
- ở trong bốn chúng
- chắp tay ca tụng,
- (64) nghe pháp, hoan hỷ,
- và hiến cúng ngài,
- được pháp tổng trì
- thành trí bất thoái.
- (65) Và thấy Như lai
- biết mình vào sâu
- tuệ giác Phật đà
- nên thọ ký cho
- sẽ thành một đấng
- Biết rất chính xác,
- bằng cách nói rằng
- này thiện nam tử,
- sau này ông được
- cái trí vô lượng
- là trí vĩ đại
- của chư Phật đà,
- (66) với một quốc độ
- tráng lệ sạch sẽ
- và lớn đến nỗi
- không cõi nào bằng;
- trong quốc độ ấy
- cũng có bốn chúng
- chắp tay lắng nghe
- chánh pháp tối thượng.
- (67) Lại thấy bản thân
- ở trong núi rừng,
- tu tập thiện pháp
- thấu suốt thật tướng
- vào sâu thiền định
- thấy chư Như lai.
- (68) Thấy thân Như lai
- toàn màu hoàng kim,
- tướng quí trăm phước
- cực kỳ trang nghiêm;
- thấy mình nghe pháp
- Như lai tuyên thuyết,
- và đem pháp ấy
- nói lại cho người.
- Những người đọc tụng
- Diệu pháp liên hoa
- thì thường được có
- mộng đẹp như vậy.
- (69) Lại mộng thấy mình
- làm vị quốc vương,
- rời bỏ cung điện
- cùng với hoàng gia,
- bỏ cả năm thứ
- dục lạc thượng thặng,
- và rồi đi đến
- nơi bồ đề tràng;
- (70) ngồi tòa sư tử
- dưới cây bồ đề,
- và qua bảy ngày
- suy tầm tuệ giác
- là được hoàn thành
- tuệ giác của Phật;
- (71) sau khi hoàn thành
- tuệ giác vô thượng,
- đứng lên chuyển đẩy
- bánh xe chánh pháp,
- giảng diễn chánh pháp
- cho cả bốn chúng
- trải qua đến cả
- vạn ức thời kỳ;
- (72) giảng diễn chánh pháp
- thuần khiết tinh túy,
- giáo hóa cứu độ
- vô lượng chúng sinh,
- sau đó nhập vào
- niết bàn hoàn toàn,
- tựa như đèn tắt
- khói cũng không còn.
- (73) Chính trong thời kỳ
- dữ dội sau này,
- ai diễn giảng được
- cái pháp bậc nhất,
- thì người như vậy
- được đại lợi ích
- là những hiệu quả
- đã nói trên đây.
Phẩm 15: Từ Đất Xuất Hiện [^]
Lúc ấy các vị bồ tát đại sĩ từ
các quốc độ khác đến quốc độ này, nhiều hơn số cát của tám sông
Hằng, đứng dậy trong đại hội, chắp tay đảnh lễ mà thưa, bạch đức
Thế tôn, nếu ngài cho phép chúng con, sau khi ngài nhập diệt, ở tại quốc
độ Kham nhẫn này, nỗ lực tinh tiến mà kính giữ Pháp hoa, thì chúng con
nguyện ở tại đây mà diễn giảng kinh ấy một cách phong phú. Đức Thế
tôn bảo các vị bồ tát đại sĩ, hãy thôi, chư thiện nam tử, khỏi phiền
chư vị kính giữ Pháp hoa tại quốc độ này. Quốc độ này của Như lai
tự có sáu vạn hằng sa bồ tát đại sĩ, mỗi vị lại có sáu vạn hằng
sa tùy thuộc. Thầy trò các vị này có thể, sau khi Như lai nhập diệt, kính
giữ Pháp hoa bằng cách đọc tụng, công bố rộng rãi...
Khi đức Thế tôn nói như vậy thì
đất của toàn thể đại thiên quốc độ Kham nhẫn đều chấn động mà
nứt ra, và từ đó có vô số ngàn vạn ức bồ tát đại sĩ cùng lúc vọt
lên. Các vị ấy thân toàn màu hoàng kim, đủ cả ba mươi hai tướng quí,
và ánh sáng thì vô số lượng. Các vị cùng ở trong không gian phía dưới
quốc độ Kham nhẫn này, nghe tiếng đức Thế tôn nói như trên nên từ đó
dũng xuất. Các vị toàn là những bậc đạo sư, dẫn theo đại chúng bồ
tát tùy thuộc: Nhiều vị, mỗi vị dẫn theo sáu vạn hằng sa tùy thuộc;
nhiều vị hơn nữa (187) , mỗi vị chỉ dẫn theo năm vạn, bốn vạn, ba vạn,
hai vạn hay một vạn hằng sa tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ
dẫn theo một hằng sa, một phần nửa của một hằng sa, một phần tư của
một hằng sa, cho đến một phần ngàn vạn ức trăm triệu của một hằng
sa tùy thuộc. Nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo ngàn vạn ức trăm
triệu tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo ức vạn tùy
thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo ngàn vạn, trăm vạn cho
đến một vạn tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo một
ngàn, một trăm cho đến một chục tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị
chỉ dẫn theo năm, bốn, ba, hai hay một tùy thuộc. Và nhiều vị hơn nữa,
mỗi vị chỉ đến đơn độc, vì thích sống tách rời. Thầy trò các vị
bồ tát đại sĩ như thế này thật vô lượng vô biên, toán số ví dụ cũng
không thể xác định.
Thầy trò các vị từ đất xuất
hiện rồi, cùng đến chỗ đức Đa bảo và đức Thích ca, nơi ngôi tháp
do bảy chất liệu quí báu kết hợp, ở trong không gian. Đến rồi, các vị
hướng về hai ngài mà đem đầu mặt lạy ngang chân. Các vị lại đến chỗ
chư Phật hóa thân ngồi trên tòa sư tử ở dưới các cây ngọc, làm lễ
cũng như vậy. Theo chiều bên phải, các vị đi quanh chư Phật hóa thân mỗi
ngài ba vòng, chắp tay, cung kính, đem những cách thức tán dương của bồ
tát mà tán dương các ngài. Rồi đứng lại một phía, các vị hân hoan
chiêm ngưỡng đức Đa bảo và đức Thích ca. Thì gian các vị mới xuất
hiện cho đến tán dương xong, trải qua hết năm chục thời kỳ bậc nhỏ.
Trong thì gian ấy, đức Thế tôn ngồi yên lặng. Bốn chúng cũng yên lặng
trong năm chục thời kỳ bậc nhỏ ấy. Nhưng do thần lực của đức Thế
tôn nên làm cho cả đại hội coi như nửa ngày mà thôi.
Lại nhờ thần lực của đức Thế
tôn mà bốn chúng thấy các vị bồ tát đại sĩ như thế này đầy khắp
không gian của quốc độ Kham nhẫn mà, lúc bấy giờ, quang cảnh tựa như
không gian của vô lượng trăm ngàn vạn ức quốc độ. Rồi bốn vị trong
số các vị đạo sư, thứ nhất danh hiệu Thượng hạnh, thứ hai danh hiệu
Vô biên hạnh, thứ ba danh hiệu Tịnh hạnh, thứ tư danh hiệu An lập hạnh,
là bốn vị đạo sư thượng thủ, cùng đứng trước đại chúng bồ tát
ấy, chắp hai tay lại, nhìn đức Thích ca mà vấn an, rằng bạch đức Thế
tôn, ngài ít bịnh, ít phiền, sống yên vui chăng? Những người đáng được
ngài hóa độ, họ có tiếp nhận sự hóa độ ấy một cách dễ dàng để
làm cho ngài khỏi phải mệt nhọc chăng? Bốn vị cùng lặp lại sự vấn
an của mình bằng lời chỉnh cú sau đây.
- (1) Thế tôn yên vui
- ít bịnh ít phiền,
- hóa độ chúng sinh
- không mệt nhọc chăng?
- (2) Chúng sinh dễ dàng
- tiếp nhận hóa độ
- để làm cho ngài
- khỏi mệt nhọc chăng?
Khi ấy đức Thế tôn bảo đại chúng
bồ tát, đúng như vậy, chư thiện nam tử; Như lai yên vui, ít bịnh ít phiền,
những người đáng được hóa độ cũng dễ hóa độ, không mệt nhọc
gì. Những người này bao đời đến nay thường tiếp nhận sự giáo hóa của
Như lai, lại hiến cúng tôn trọng mà gieo trồng thiện căn ở nơi chư Phật
quá khứ. Những người này mới thấy thân Như lai, mới nghe lời Như lai,
là tức thì tin tưởng chấp nhận, nhập vào tuệ giác Như lai. Ngoại trừ
những người trước đây tu học theo giáo pháp cỗ xe thấp nhỏ; những người
như vậy ngày nay Như lai cũng làm cho nghe được Pháp hoa mà nhập được
Phật tuệ. Nghe đức Thế tôn dạy như vậy, bốn đại bồ tát lại nói lời
chỉnh cú sau đây.
- (3) Tốt thay, lành thay,
- Thế tôn đại hùng!
- bao nhiêu chúng sinh
- hóa độ dễ dàng!
- (4) Họ có thể hỏi
- về tuệ giác Phật
- cực kỳ sâu xa,
- hỏi rồi nghe được
- nghe rồi tin được
- tin rồi làm được.
- Tất cả chúng con
- kính xin tùy hỷ.
Đức Thế tôn tán dương bốn vị
đại bồ tát thượng thủ, tốt lắm, chư thiện nam tử, các vị có thể
có sự tùy hỷ như vậy đối với Như lai.
Vào lúc bấy giờ, đức Di lạc cùng
chúng chư bồ tát nhiều đến tám ngàn hằng sa, đều nghĩ rằng, từ trước
đến nay, chúng ta không thấy không nghe chúng đại bồ tát như vầy, từ
đất dũng xuất, đang đứng trước đức Thế tôn mà chắp tay hiến cúng
và vấn an. Đức Di lạc biết ý nghĩ trong lòng tám ngàn hằng sa bồ tát,
lại muốn giải trừ nghi hoặc của mình, nên chắp tay hướng về đức Thế
tôn mà thưa hỏi bằng những lời chỉnh cú sau đây.
- (5) Đại chúng bồ tát
- vô lượng vạn ức
- như thế này đây
- con chưa từng thấy.
- Thưa đấng hoàn hảo
- phước đức tuệ giác!
- xin ngài dạy cho
- chúng con được rõ.
- (6- 7)Các vị như vầy
- từ đâu đến đây?
- vì lý do nào
- mà qui tụ lại?
- Thân thể cao lớn,
- thần thông quảng đại,
- trí tuệ khó lường,
- trí nhớ vững chắc,
- nhẫn lực vĩ đại,
- ai cũng thích nhìn:
- các vị như vậy
- từ đâu đến đây?
- (8) Mỗi vị đại sư
- dẫn theo đệ tử
- số lượng vô số
- nhiều bằng hằng sa.
- (9) Có những đại sư
- dẫn theo đệ tử
- số lượng nhiều bằng
- sáu vạn hằng sa,
- mà con xem ra
- đệ tử như vậy
- ai cũng nhất tâm
- cầu tuệ giác Phật.
- (10) Những đại sư này
- đã nhiều bằng số
- sáu vạn hằng sa,
- cùng nhau đến đây
- để được hiến cúng
- đối với Thế tôn,
- và được coi giữ
- kinh Pháp hoa này (188) .
- (11- 22) Còn các đại sư
- dẫn theo đệ tử
- năm vạn hằng sa,
- số đại sư này
- lại còn nhiều hơn
- số đại sư trên.
- Các vị dẫn theo
- bốn vạn ba vạn
- hai vạn một vạn
- một ngàn một trăm
- đến một hằng sa,
- phần nửa phần ba
- cùng với phần tư,
- cho đến một phần
- vạn ức trăm triệu
- của một hằng sa,
- số đại sư này
- càng nhiều hơn trên.
- Các vị dẫn theo
- vạn ức trăm triệu,
- dẫn theo vạn ức,
- cho đến nửa ức,
- số đại sư này
- càng nhiều hơn trên.
- Các vị đại sư
- dẫn theo trăm vạn,
- cho đến một vạn,
- một ngàn một trăm
- năm chục một chục
- đến ba hai một;
- và các đại sư
- chỉ đến đơn độc,
- vì thích đơn độc
- không có đệ tử.
- Tất cả cùng đến
- chỗ Thế tôn đây,
- số lượng tuần tự
- càng nhiều hơn trên.
- (23) Đại chúng bồ tát
- như con vừa nói,
- nếu ai phát thẻ
- để đếm số lượng,
- thì qua thời kỳ
- nhiều hơn hằng sa,
- cũng vẫn không thể
- đếm mà biết hết.
- (24) Đại chúng bồ tát
- mà cả uy đức
- và sự tinh tiến
- cùng vĩ đại này,
- ai đã thuyết pháp
- giáo hóa tác thành?
- (25) Họ từ vị nào
- bắt đầu phát tâm?
- và đã tuyên dương
- giáo pháp Phật nào?
- đã từng tiếp nhận
- thực hành kinh nào?
- và từ Phật nào
- họ tu Phật tuệ?
- (26- 27) Đại chúng bồ tát
- như thế này đây
- thần lực trí lực
- thật là vĩ đại:
- khắp quốc độ này
- đất chấn động cả,
- và họ từ đó
- mà cùng dũng xuất.
- (28) Bạch đức Thế tôn,
- từ trước đến nay
- con chưa hề thấy
- sự trạng như vầy.
- Xin ngài nói cho
- danh hiệu quốc độ
- mà các vị này
- từ đó đến đây.
- (29) Con thường du hóa
- khắp các quốc độ,
- mà chưa hề thấy
- các vị như vầy.
- (30) Trong các vị này
- đến nỗi một người
- con cũng không biết.
- Các vị bỗng nhiên
- từ đất xuất hiện.
- Xin đức Thế tôn
- nói rõ nguyên ủy
- của các vị ấy.
- (31) Trong đại hội đây
- chúng chư bồ tát
- vô số vạn ức
- muốn biết điều này.
- (32) Nguyên ủy gốc ngọn
- của các vị ấy
- là như thế nào,
- thưa đấng Thế tôn
- trí đức vô lượng,
- xin ngài dạy rõ
- để giải ngờ vực
- cho cả các chúng.
Chư Phật hóa thân của đức Thế
tôn, đến đây từ vô số ngàn vạn ức quốc độ ở mọi phương hướng,
hiện vẫn ngồi xếp bằng trên tòa sư tử dưới các cây ngọc khắp cả
tám hướng. Các vị thị giả của chư Phật ấy ai cũng thấy đại chúng
bồ tát vọt lên từ đất khắp cả đại thiên quốc độ này, và đứng
trong không gian. Mỗi vị thị giả thưa với đức Phật của mình, rằng bạch
đức Thế tôn, đại chúng bồ tát vô lượng vô biên vô số này từ đâu
đến đây? Chư Phật ngài nào cũng bảo vị thị giả của mình, rằng thiện
nam tử, hãy chờ một lát. Vị đại bồ tát danh hiệu Di lạc, người được
đức Thích ca thế tôn thọ ký làm Phật kế ngài, đã hỏi ngài về việc
này. Ngài sắp giải đáp, nhân đó các người sẽ được nghe.
Khi ấy đức Thế tôn bảo, tốt lắm,
Di lạc, đại sĩ có thể hỏi Như lai về việc quan trọng như vậy. Chư vị
hãy cùng nhau tập trung tâm trí, khoác áo giáp tinh tiến, phát ý chí cứng
chắc. Như lai nay muốn phát lộ về tuệ giác của Như lai, thần thông của
Như lai, khí lực của Như lai, uy lực của Như lai (189) . Đức Thế tôn muốn
lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (33) Hãy cố nỗ lực
- tập trung tâm trí.
- Như lai sắp nói
- về sự thể này.
- Chư vị đừng có
- hoài nghi thắc mắc.
- Tuệ giác Như lai
- ngoài tầm lý luận.
- (34) Hôm nay chư vị
- hãy xuất sức mạnh
- của sự tin tưởng,
- hãy đứng vững chắc
- trong sự nhận định
- và sự tế nhị.
- Vì lẽ những gì
- xưa nay chưa nghe
- thì nay chư vị
- sẽ được nghe đến.
- (35) Như lai hôm nay
- an ủi như vậy,
- để cho chư vị
- khỏi ngờ khỏi sợ.
- Như lai không có
- lời nói không thật (190) ,
- tuệ giác Như lai
- không thể lường nổi.
- (36) Cái pháp bậc nhất
- Như lai thực hiện,
- là pháp rất sâu,
- trên sự phân tích (191) .
- Pháp ấy Như lai
- nay sắp nói đến.
- Tất cả chư vị
- chú ý lắng nghe.
Nói những lời chỉnh cú ấy rồi,
đức Thế tôn bảo đức Di lạc, hôm nay, giữa đại hội các chúng như vầy,
Như lai tuyên cáo để chư vị biết. Di lạc, đại chúng bồ tát vô lượng
vô số, từ đất dũng xuất và chư vị xưa nay chưa thấy đây, là do Như
lai ở thế giới hệ Kham nhẫn này, thành tựu tuệ giác vô thượng rồi
giáo hóa chỉ dẫn cho các vị ấy thuần hóa tính ý, phát tâm tuệ giác.
Các vị ấy ở trong không gian phía dưới thế giới hệ này. Đối với
kinh pháp, các vị đọc tụng thông suốt, suy xét, phân tích và ghi nhớ
chính xác. Di lạc, các thiện nam tử này không thích ở chỗ đông đảo và
nói năng nhiều lời, thường xuyên thích nơi yên tĩnh, nỗ lực tinh tiến,
chưa từng dừng nghỉ. Các vị không sống với nhân loại hay chư thiên.
Các vị thường ưa thích tuệ giác sâu xa, không bị trở ngại, nghĩa là
thường ưa thích giáo pháp chư Phật, chuyên tâm tinh tiến mà cầu đạt
cho được tuệ giác vô thượng. Đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã
nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (37) Di lạc đại sĩ,
- chư vị nên biết,
- đại chúng bồ tát
- như thế này đây,
- vô số thời kỳ
- cho đến bây giờ,
- thường xuyên tu tập
- tuệ giác Phật đà.
- (38) Các vị toàn do
- Như lai giáo hóa
- làm cho phát ra
- tâm đại bồ đề.
- Các vị như vầy
- là con Như lai,
- và sống ngay nơi
- thế giới hệ này.
- (39) Thường hành đầu đà
- thích nơi yên tĩnh,
- tách rời đông đảo
- ồn ào náo nhiệt,
- không ưa nói bàn
- nhiều điều lắm chuyện.
- Những con Phật này
- học tập về pháp
- tuệ giác vô thượng
- của Như lai đây,
- ngày đêm thường xuyên
- nỗ lực tinh tiến
- để cầu đạt được
- tuệ giác Phật ấy.
- (40- 41) Tất cả các vị
- cùng nhau ở trong
- không gian phía dưới
- quốc độ Kham nhẫn.
- Trí lực khí lực
- đều rất vững chắc,
- thường xuyên tinh tiến
- cầu tuệ giác Phật.
- Các vị tuyên thuyết
- đủ loại chánh pháp
- mà trong tâm tưởng
- không e sợ gì.
- (42) Như lai ngồi dưới
- bồ đề đại thọ
- gần thành Già da,
- thành tựu tuệ giác
- tuyệt đối chính xác,
- chuyển đẩy bánh xe
- chánh pháp tối thượng,
- bấy giờ Như lai
- mới giáo hóa cho
- các vị như vầy,
- làm họ bắt đầu
- phát tâm tuệ giác,
- đến nay cùng đến
- vị trí bất thoái,
- và ai cũng sẽ
- thành đức Phật đà.
- (43) Như lai hôm nay
- nói lời rất thật.
- Chư vị một lòng
- mà tin Như lai.
- Rằng chính Như lai
- từ lâu đến nay
- giáo hóa đại chúng
- bồ tát như vầy.
Bấy giờ trong lòng đức Di lạc và
vô số bồ tát lại sinh nghi hoặc, lấy làm quái lạ, cho là một sự chưa
từng có mà nghĩ rằng, đức Thế tôn làm cách nào mà trong một thì gian
ít ỏi, đã giáo hóa cho đại bồ tát vô lượng vô số như vầy, làm cho
tất cả đều đứng vững ở trong tuệ giác vô thượng? Nghĩ như vậy nên
đức Di lạc thưa rằng, bạch đức Thế tôn, ngài làm thái tử, thoát ly
hoàng cung họ Thích, cách thành Già da không xa, ngồi nơi bồ đề tràng,
thành đạt tuệ giác vô thượng, từ đó đến nay mới hơn bốn mươi
năm. Trong thì gian ngắn ngủi như vậy mà tại sao ngài có thể làm được
một cách lớn lao việc làm của Phật, ấy là đem khí lực của Phật và
dùng đức tính của Phật mà giáo hóa số đại bồ tát như vầy sẽ thành
tuệ giác vô thượng -- số đại bồ tát mà giả sử có người đếm đến
ngàn vạn ức thời kỳ cũng không biết được số lượng, không tìm được
giới hạn, số đại bồ tát mà chắc chắn từ lâu xa cho đến bây giờ
đã ở nơi chỗ vô biên chư Phật mà gieo trồng gốc rễ pháp lành, thành
thục đường đi của bồ tát, thường xuyên tu tập phạn hạnh? Bạch đức
Thế tôn, điều đó quả là cả thế gian đều khó tin. Ví như có kẻ sắc
tốt, tóc đen, tuổi mới hai mươi lăm, mà chỉ những người trăm tuổi, nói
rằng đây là con ta, những người trăm tuổi cũng chỉ người trẻ tuổi,
nói rằng đây là cha, đã sinh ra và nuôi lớn chúng ta, thì đó là việc thật
khó tin. Đức Thế tôn cũng vậy. Từ khi ngài thực hiện tuệ giác vô thượng
cho đến ngày nay thật ra chưa lâu, còn đại chúng bồ tát này thì chắc
chắn đã trải qua vô lượng ngàn vạn ức thời kỳ, vì tuệ giác Phật
đà mà nỗ lực tinh tiến, khéo vào khéo ở và khéo ra đối với vô số
trăm ngàn vạn ức chánh định, được đại thần thông, lâu tu phạn hạnh,
lại khéo tuần tự tu tập các loại thiện pháp, khéo hỏi khéo đáp, nói
tóm, họ là bảo vật trong mọi người, hiếm có nhất thế giới. Vậy mà
ngày nay đức Thế tôn lại bảo ngài thực hiện tuệ giác Phật đà rồi
mới làm cho các vị ấy phát tâm đại bồ đề, giáo hóa chỉ dẫn cho
các vị ấy hướng đến tuệ giác vô thượng. Nghĩa là đức Thế tôn trở
thành đấng Toàn giác chưa bao lâu mà thực hiện được thành quả vĩ đại
như vậy! Dẫu rằng chúng con tin sự tùy nghi thuyết pháp của đức Thế tôn,
tin lời đức Thế tôn nói chưa bao giờ không thật, tin sự thấy biết của
đức Thế tôn là thấu suốt tất cả, nhưng các vị bồ tát mới phát
tâm, sau khi đức Thế tôn nhập diệt mà nghe thấy những lời này, thì có
thể có kẻ không tin tưởng tiếp nhận, sinh ra cái lỗi bài bác chánh
pháp. Dạ, chính vì vậy, bạch đức Thế tôn, con xin ngài giảng dạy, giải
trừ nghi hoặc cho chúng con, lại làm cho bao nhiêu thiện nam và thiện nữ
trong thì vị lai nghe được việc này cũng không nghi hoặc. Đức Di lạc muốn
lặp lại ý nghĩa đã thỉnh cầu, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (44) Trước đây Thế tôn
- thoát ly hoàng cung
- của dòng họ Thích,
- đến gần Già da
- mà ngồi ở nơi
- bồ đề đại thọ.
- Từ đó đến nay
- chưa được bao lâu.
- (45) Vậy mà Thế tôn
- lại có những người
- con Phật như vầy
- số lượng vô số,
- từ lâu đi theo
- tuệ giác của Phật,
- đã đứng vững vàng
- trong thần thông lực,
- đã khéo tu học
- đường đi bồ tát.
- (46) Không hề nhuốm bẩn
- theo thói thế gian
- y như hoa sen
- ở ngay trong nước,
- những con Phật này
- từ đất xuất hiện,
- và cùng cung kính
- đứng trước Thế tôn.
- (47) Sự thể thế này
- thật khó suy luận.
- Làm sao tin được
- Thế tôn thành tựu
- tuệ giác Phật đà
- mới rất gần đây,
- lại tác thành cho
- rất nhiều bồ tát
- đã được nhiều việc
- như thế này đây?
- Để giải nghi ngờ
- cho cả các chúng,
- con xin Thế tôn
- chỉ dạy đúng như
- sự thực được có
- trong vấn đề này.
- (48- 49) Như người trẻ mạnh
- tuổi mới hâm lăm
- mà nói với người:
- những kẻ trăm tuổi
- tóc bạc mặt nhăn
- già cả thế kia
- là con tôi sinh,
- những người thế kia
- cũng nói người trẻ
- là cha chúng tôi.
- Cha trẻ con già,
- đời ai tin được.
- (50- 51) Thế tôn cũng vậy;
- từ khi thực hiện
- tuệ giác vô thượng
- cho đến ngày nay,
- thì gian được có
- mới rất gần đây.
- Còn các bồ tát
- đến như thế này
- trí nhớ vững chắc,
- không còn khiếp nhược,
- vô lượng thời kỳ
- cho đến ngày nay
- đi theo con đường
- của bồ tát đi,
- khéo hỏi khéo đáp
- tâm không sợ hãi,
- ẩn nhẫn cực nhục,
- tâm trí quyết đoán,
- tướng mạo tuyệt myլ
- uy đức toàn hảo,
- Phật đà mười phương
- đều ca tụng cả,
- khéo léo phân tích
- diễn giảng pháp nghĩa,
- (52) không thích ở nơi
- những chỗ đông người
- mà thường thích thú
- ở trong thiền định,
- vì cầu tuệ Phật
- mà họ cùng nhau
- ở trong không gian
- dưới quốc độ này.
- (53- 54) Chúng con trực tiếp
- nghe Thế tôn nói,
- nên với việc này
- không ngờ vực gì.
- Nhưng xin Thế tôn
- vì người tương lai
- giải thích việc này
- cho họ hiểu rõ.
- Vì lẽ nếu ai
- ngờ vực không tin
- kinh Pháp hoa này
- thì sa đường dữ,
- nên con thỉnh cầu
- ngài giải thích cho:
- Đại chúng bồ tát
- vô số như vầy,
- tại sao Thế tôn
- trong thì gian ngắn
- có thể dạy cho
- bắt đầu phát tâm
- cho đến đến nơi
- vị trí bất thoái?
Phẩm 16:
Sự Sống Lâu Của Đức Thế Tôn
[^]
Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn bảo
chư vị bồ tát, và toàn thể các chúng ở trong đại hội, chư thiện nam
tử, các người hãy tin hiểu lời nói chắc thật của Như lai. Một lần nữa,
đức Thế tôn bảo toàn thể đại hội, các người hãy tin hiểu lời nói
chắc thật của Như lai. Lại một lần nữa, đức Thế tôn bảo toàn thể
đại hội, các người hãy tin hiểu lời nói chắc thật của Như lai. Bấy
giờ đại chúng bồ tát mà bậc thượng thủ là đức Di lạc, chắp tay mà
thưa, bạch đức Thế tôn, xin ngài chỉ dạy, chúng con sẽ tin tưởng tiếp
nhận lời ngài. Các vị thưa như vậy đến ba lần rồi, vẫn nói xin ngài
chỉ dạy, chúng con sẽ tin tưởng tiếp nhận lời ngài. Thấy chư vị bồ
tát thỉnh cầu đến ba lần mà không ngưng, nên đức Thế tôn bảo, chư vị
hãy nghe cho kyՍ về thần lực bí mật của Như lai.
Chư thiện nam tử, tất cả thế giới
như chư thiên nhân loại và tu la, ai cũng nói đời này đức Thích ca thế
tôn rời khỏi hoàng cung họ Thích, cách thành Già da không xa, ngồi nơi bồ
đề tràng mà được tuệ giác vô thượng. Nhưng, chư thiện nam tử, Như
lai thật sự trở thành Phật đà thì đến nay đã vô lượng vô biên trăm
ngàn vạn ức trăm triệu thời kỳ. Ví như năm trăm ngàn vạn ức trăm triệu
vô số đại thiên quốc độ, giả thiết có người đem nghiền thành bụi
nhỏ, rồi đi về hướng đông, qua khỏi năm trăm ngàn vạn ức trăm triệu
vô số quốc độ mới bỏ xuống một hạt bụi nhỏ ấy. Tuần tự như vậy
mà đi về hướng đông và bỏ hết số bụi. Chư thiện nam tử, trong ý chư
vị nghĩ thế nào, bao nhiêu quốc độ mà người ấy đi qua, có thể nào
nghĩ và tính mà biết được số lượng hay không? Đức Di lạc và các vị
đồng chúng cùng thưa, bạch đức Thế tôn, quốc độ như vậy vô lượng
vô biên, không phải toán số biết được, cũng không phải trí lực biết
thấu. Tất cả các vị thanh văn duyên giác vận dụng tuệ giác không còn
sơ hở cũng không thể nghĩ mà biết được số lượng ấy. Chúng con là
những người đã ở địa vị Không thoái chuyển mà đối với số lượng
ấy cũng không thấu suốt. Bạch đức Thế tôn, quốc độ như vậy thật
vô lượng vô biên.
Đức Thế tôn bảo các vị đại bồ
tát, chư thiện nam tử, Như lai nay tuyên ngôn rõ ràng cho chư vị biết, bao
nhiêu quốc độ ấy, được hay không được bỏ bụi xuống, đều đem hết
ra mà nghiền làm bụi nữa, rồi mỗi hạt bụi giả thiết một thời kỳ,
thì Như lai thành Phật đến nay, còn hơn số ấy đến trăm ngàn vạn ức
trăm triệu vô số thời kỳ. Từ đó đến nay, Như lai thường ở tại quốc
độ Kham nhẫn này mà thuyết pháp giáo hóa, lại ở trăm ngàn vạn ức trăm
triệu vô số quốc độ khác nữa mà dắt dẫn ích lợi cho các loại
chúng sinh. Chư thiện nam tử, trong thì gian ấy và trong những quốc độ
ấy, Như lai tự nói là các đức Như lai khác, đại loại như Nhiên đăng
như lai, lại nói đến sự nhập diệt của các đức Như lai ấy. Như vậy
toàn là phương tiện mà nói (192) . Chư thiện nam tử, có ai đến chỗ Như
lai thì Như lai đem mắt Phật mà nhìn tín tiến niệm định tuệ, các căn
ấy của họ lanh hay chậm, rồi tùy sự nên hóa độ như thế nào mà, tại
mỗi quốc độ, Như lai tự nói danh hiệu khác nhau, tuổi tác lớn nhỏ, lại
nói sẽ nhập diệt. Như lai còn dùng đủ cách phương tiện mà nói chánh
pháp tinh túy, làm cho chúng sinh ai cũng hoan hỷ. Chư thiện nam tử, Như lai
thấy chúng sinh ưa thích giáo pháp thấp nhỏ, đức mỏng tội nặng, thì
vì những người ấy mà nói rằng Như lai lúc trẻ tuổi đã xuất gia và mới
được tuệ giác vô thượng gần đây. Nhưng thật sự Như lai thành Phật
đến nay đã lâu xa như trên đã nói, chỉ vì phương tiện giáo hóa chúng
sinh cho họ nhập vào tuêể giác của Phật, nên nói mới thành Phật gần
đây.
Chư thiện nam tử, Như lai thuyết
ra kinh pháp toàn là để hóa độ chúng sinh, nên nói mình qua thân mình hay
nói mình qua thân khác, nói mình biểu hiện qua thân mình hay nói mình biểu
hiện qua thân khác, nói mình biểu hiện qua việc mình hay nói mình biểu hiện
qua việc khác (193) , mọi cách nói đều trung thực, không dối trá. Vì lẽ
Như lai đúng như sự thật của ba cõi mà thấy ba cõi không sinh không chết,
không lui mất không hiện ra, không tồn tại không nhập diệt, không thật
không giả, không như nhau không khác nhau. Không như chúng sinh ba cõi nhìn thấy
ba cõi; ba cõi như vậy Như lai nhìn thấy rõ ràng, không có lầm lẫn. Chỉ
vì các loại chúng sinh có đủ thứ cá tính, thị hiếu, hành động và tư
tưởng khác nhau, mà Như lai thì muốn làm cho ai cũng được phát sinh gốc
rễ điều thiện, nên đem bao nhiêu yếu tố, ví dụ và lời chữ mà thuyết
pháp đủ cách, làm việc Phật làm mà chưa bao giờ tạm thời ngừng bỏ.
Như vậy là Như lai thành Phật đến nay đã cực kỳ lâu xa, sống lâu vô
lượng vô số thời kỳ, vĩnh viễn tồn tại mà không có nhập diệt.
Chư thiện nam tử, Như lai xưa kia
đang đi đường đi của bồ tát mà sự sống lâu có được, đến nay vẫn
chưa hết, thì gian còn nhiều hơn bội phần số lượng đã nói ở trên;
huống chi Như lai ngày nay đã thành Phật, và sự sống lâu của Như lai là
của một đức Phật (194) ? Như lai nay không thật nhập diệt mà tuyên bố
sẽ nhập diệt, là Như lai dùng phương tiện ấy để giáo hóa chúng sinh.
Tại sao, vì nếu Như lai tồn tại lâu dài thì những kẻ phước đức mỏng
mảnh không lo gieo trồng gốc rễ điều lành, y nguyên nghèo nàn hèn hạ,
tham đắm năm thứ dục lạc, sa vào mạng lưới tư tưởng sai lầm. Những
kẻ ấy nếu thấy Như lai thường tồn tại mà không nhập diệt thì khinh
thường, phóng túng mà nhàm chán, biếng nhác, chứ không có ý tưởng Như
lai khó gặp, không sinh tâm lý tôn kính. Do vậy mà Như lai phương tiện nói
rằng chư vị tỷ kheo, phải biết các đức Như lai xuất thế rất là khó
gặp. Trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức thời kỳ, những kẻ phước
đức mỏng mảnh mới thấy Như lai hoặc vẫn không thấy được. Vì sự
thể này mà Như lai nói rằng chư vị tỷ kheo, Như lai rất là khó gặp. Những
kẻ phước đức mỏng mảnh nghe nói như vậy thì tất nghĩ đến sự khó
gặp ấy mà trong lòng luyến mộ, khao khát và ngưỡng vọng đối với Như
lai, tự nhiên gieo trồng gốc rễ điều lành. Vì vậy nên Như lai không thật
nhập diệt mà tự nói nhập diệt. Chư thiện nam tử, cách thức hóa độ
của các đức Như lai là như vậy, vì hóa độ chúng sinh mà nói, nên nói
thế nào cũng trung thực chứ không sai lầm, dối trá.
Ví như một vị lương y trí tuệ
thông suốt, chế thuốc hay và chữa bịnh giỏi. Lương y nhiều con, mười
người, hai mươi người, cho đến cả trăm. Vì có việc nên lương y đi
xa, đến các nước khác. Các con ông, sau khi ông đi, dùng nhằm thuốc độc
của kẻ khác. Độc phát nên sảng loạn, lăn lóc mặt đất. Khi ấy người
cha trở về. Các con dùng nhằm thuốc độc hoặc mất trí hoặc không mất,
nhưng thấy cha từ xa thì cùng mừng mà quì lạy, chào đón, rằng cha về
yên lành. Chúng con ngu muội, dùng lầm thuốc độc, xin cha cứu chữa cho chúng
con sống còn. Người cha thấy các con đau đớn như vậy thì y theo sách thuốc
mà soạn ra một phương thuốc, tìm cây thuốc tốt với sắc hương vị đều
tốt, đem quết thật nhuyễn, rây thật mịn, hòa trộn với nhau, rồi đưa
cho các con mà bảo, dược phẩm này rất quí, sắc hương vị đều tốt, các
con dùng đi, thì mau hết đau đớn, không độc chất nào mà còn được nữa.
Trong các con, ai không mất trí, thấy dược phẩm sắc hương vị đều tốt
ấy thì dùng liền và bịnh lành hết. Còn những người mất trí thì thấy
cha về tuy cũng mừng, cũng chào đón, cũng xin chữa bịnh, nhưng cho thuốc
lại không chịu dùng; tại sao, vì độc tố quá sâu, làm cho mất trí, nên
dược phẩm sắc hương vị đều tốt mà cho là không tốt. Người cha
nghĩ rằng, những đứa con này thật đáng thương, trúng độc đến nỗi
loạn trí, tuy thấy ta cũng mừng, cũng xin cứu chữa, nhưng thuốc tốt như
vầy lại không chịu dùng. Ta phải lập chước phương tiện làm cho các
con chịu dùng thuốc ấy. Ông bảo, các con phải biết ta già rồi, giờ chết
đã đến. Dược phẩm tốt này ta để lại ở đây, các con lấy dùng thì
khỏi lo không lành. Chỉ dạy như vậy rồi ông lại đến nước khác, cho
sứ giả về bảo cha các người chết rồi. Bấy giờ các con nghe nói cha
chết, lòng rất lo buồn mà nghĩ, cha còn thì thương mà cứu chữa bảo vệ
chúng ta. Nay cha bỏ chúng ta mà chết xa xôi ở xứ người! Tự nghĩ côi
cút, không nơi nương tựa! Nghĩ mãi nên tỉnh trí. Và nhận ra được dược
phẩm sắc hương vị đều tốt, tức khắc lấy dùng và bịnh lành liền.
Người cha nghe các con lành cả thì về lại cho các con thấy. Chư thiện
nam tử, ý chư vị nghĩ thế nào, có người nào chỉ trích được rằng vị
lương y như vậy có lỗi dối trá chăng? Không, bạch đức Thế tôn. Chư
thiện nam tử, Như lai cũng vậy. Như lai thành Phật đến nay đã vô lượng
vô biên trăm ngàn vạn ức trăm triệu vô số thời kỳ, chỉ vì cứu độ
chúng sinh mà Như lai phương tiện tuyên bố nhập diệt, nhưng không ai có
thể nói đúng cách rằng Như lai có lỗi nói dối.
Muốn lặp lại ý nghĩa đã nói,
nên khi ấy đức Thế tôn nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (1- 2) Như lai từ khi
- thành Phật đến giờ,
- trải qua thời kỳ
- nhiều đến vô lượng
- trăm ngàn vạn ức
- con số vô số.
- Trong thì gian ấy
- Như lai thường xuyên
- thuyết pháp giáo hóa
- vô số chúng sinh,
- trong đó có số
- bồ tát dũng xuất (195) ,
- đặt họ vào trong
- tuệ giác Phật đà
- cũng lâu đến số
- vô lượng thời kỳ.
- (3) Chỉ vì hóa độ
- chúng sinh biếng nhác,
- Như lai phương tiện
- nói rằng nhập diệt;
- nhưng thật Như lai
- không có nhập diệt,
- mà thường ở đây
- thuyết pháp giáo hóa.
- (4) Như lai thường ở
- tại quốc độ này,
- nhưng vì thần lực
- cực kỳ siêu việt (196) ,
- vì mọi chúng sinh
- ảo giác thác loạn,
- Như lai bên cạnh
- mà vẫn không thấy.
- (5) Chúng sinh nếu thấy
- Như lai nhập diệt
- thì cúng xá lợi
- một cách lớn lao,
- và cùng cảm thấy
- lưu luyến hâm mộ
- mà sinh tâm lý
- khao khát ngưỡng vọng.
- (6) Khi họ tin tưởng,
- chân thành, ôn nhu,
- thiết tha muốn được
- nhìn thấy Như lai
- mà không tiếc nuối
- đến cả tính mạng,
- bấy giờ Như lai
- cùng với Tăng chúng
- đồng xuất hiện ra
- tại Linh sơn này (197) .
- (7) Và nói với họ
- cho biết Như lai
- thường còn tại đây
- chứ không nhập diệt.
- Nói rằng nhập diệt
- rằng không nhập diệt
- chỉ do Như lai
- phương tiện mà nói.
- (8) Ở quốc độ khác
- có những chúng sinh
- tôn kính, tin tưởng,
- thích thú Như lai,
- Như lai lại hiện
- tại quốc độ ấy,
- tuyên thuyết cho họ
- chánh pháp tối thượng.
- Chư vị không nghe
- về sự thể ấy,
- chỉ nói Như lai
- đã nhập diệt rồi.
- (9) Như lai nhìn thấy
- bao người cam tâm
- trầm mình ở trong
- mọi sự khổ não,
- nên không hiện thân
- cho họ nhìn thấy,
- để họ sinh ra
- khao khát ngưỡng vọng;
- và khi lòng họ
- lưu luyến hâm mộ,
- bấy giờ Như lai
- lại hiện thân ra
- tuyên thuyết cho họ
- chánh pháp tối thượng.
- (10) Thần lực Như lai
- là như thế ấy,
- vô số thời kỳ
- thường ở Linh sơn
- cùng với bao nhiêu
- chỗ ở khác nữa.
- (11) Chúng sinh nhìn thấy
- thì thấy hoại kiếp
- lửa dữ đốt cháy
- cả quốc độ này.
- Nhưng chính lúc ấy
- quốc độ Như lai
- vẫn thường yên ổn,
- chư thiên nhân loại
- vẫn thường tràn đầy
- trong quốc độ ấy.
- (12) Vườn rừng lầu đài
- trang trí vàng ngọc,
- cây ngọc sum sê
- những hoa và quả,
- mọi người thích thú
- du ngoạn trong đó.
- (13) Chư thiên thì đánh
- trống của chư thiên,
- lại thường diễn tấu
- các thứ nhạc khí
- và rưới hoa xuống
- loại như mạn đà,
- rải trên Như lai
- và cả đại chúng.
- (14) Tịnh độ Như lai
- tồn tại như thế,
- vậy mà chúng sinh
- thấy lửa đốt hết,
- thấy bao lo sợ,
- kinh hoàng, đau đớn.
- Những nỗi khổ ấy
- thấy đầy khắp cả.
- (15) Bao chúng sinh ấy
- vì những nhân tố
- hành vi tội ác,
- mà bao thời kỳ
- danh hiệu Tam bảo
- cũng không được nghe,
- huống chi được thấy
- thân thể Như lai.
- (16) Những ai tu hành,
- chân thành, ôn nhu,
- thì đều thấy được
- thân thể Như lai
- thường ở tại đây
- tuyên thuyết chánh pháp.
- (17) Vì những người này
- mà Như lai nói
- đời sống Như lai
- vô biên vô lượng;
- còn ai lâu lắm
- mới thấy Như lai,
- Như lai vì họ
- nói Phật khó gặp.
- (18) Trí lực Như lai
- là như thế đó.
- Ánh sáng trí ấy
- chiếu soi vô tận,
- đời sống Như lai
- vô số thời kỳ,
- là do Như lai
- lâu xa tu tập
- hành vi thích đáng
- mà thực hiện được.
- (19) Tất cả chư vị
- là người có trí,
- với sự thể này
- đừng sinh ngờ vực.
- Hãy loại bỏ hết
- mọi sự ngờ vực,
- vì lời Như lai
- thật chứ không dối.
- (20) Ví như lương y
- khéo chước phương tiện;
- để chữa cho những
- đứa con cuồng sảng,
- nên thật còn sống
- mà nói chết rồi,
- nhưng ai nói được
- ông ấy dối trá?
- (21) Như lai cũng vậy;
- là vị từ phụ
- cứu chữa bao kẻ
- đau khổ thác loạn:
- chính vì cứu chữa
- bao kẻ thác loạn
- mà thật thường còn
- lại nói nhập diệt.
- (22) Vì nếu để họ
- thường thấy Như lai
- thì họ sinh ra
- kiêu căng, mặc ý,
- phóng túng tham đắm
- năm thứ dục lạc,
- và sa vào trong
- các nẻo đường dữ.
- (23) Như lai thường xuyên
- thấy biết chúng sinh
- ai có ai không
- đi theo đường chánh,
- rồi tùy trường hợp
- cần phải hóa độ
- cho họ thế nào,
- Như lai nói pháp
- với những cách nói
- thích ứng cho họ.
- Như lai thường xuyên
- nghĩ với ý nghĩ
- là làm cách nào
- cho các chúng sinh
- cùng được nhập vào
- tuệ giác vô thượng,
- mau chóng thành tựu
- thân thể Như lai.
Chân
thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh
Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng
Word, VNI font. Thích Nhật Từ 3-5-2000
Phần | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 |
|
|