...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
Kinh
Hoa Sen Chánh Pháp
HT. Thích Trí Quang dịch giải
Phần
5
Phẩm 4: Tin Hiểu [^]
Lúc ấy Tu bồ đề, vị tôn giả lấy
tuệ giác làm sinh mạng, cùng các tôn giả Ca chiên diên, Đại ca diếp và
Mục kiền liên, từ nơi đức Thế tôn nghe được điều chưa từng có,
là nghe đức Thế tôn trao cho tôn giả Xá lợi phất lời ghi thành tựu tuệ
giác vô thượng, thì thấy thật là hiếm có, nên hoan hỷ, phấn chấn, tức
thì từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa pháp y, trần vai phải, đầu gối bên
phải quì xuống chấm đất, chuyên nhất tâm trí mà chắp tay chiêm ngưỡng
đức Thế tôn, rồi cúi mình, cung kính thưa rằng, bạch đức Thế tôn,
chúng con ở vào địa vị đứng đầu chư tăng, tuổi cùng già cả, ai cũng
tự cho đã được niết bàn, không kham làm gì được nữa, không thể bước
tới mà cầu tuệ giác vô thượng. Trước đây, mỗi khi đức Thế tôn
thuyết pháp lâu, thì chúng con lúc ấy cũng ngồi tại chỗ nghe pháp, nhưng
cơ thể mệt mỏi, chỉ nghĩ nhớ về không, không sắc tướng và không ưa
thích (103) . Còn đối với pháp bồ tát, như thần thông du hóa mà làm sạch
thế giới làm nên chúng sinh, thì chúng con không có ý gì thích thú. Như vậy
là vì đức Thế tôn đã làm cho chúng con thoát ba cõi, chứng niết bàn,
thêm nữa tuổi chúng con đã già cả, nên đối với tuệ giác vô thượng
mà đức Thế tôn dạy cho bồ tát, chúng con không có một ý niệm ham
thích. Ngày nay, đối trước đức Thế tôn, chúng con được nghe ngài trao
cho thanh văn lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng thì lòng quá hoan hỷ,
được sự chưa từng có. Chúng con không ngờ ngày nay bỗng nhiên được
nghe điều hiếm cóấy. Chúng con tự mừng một cách sâu xa vì được ích
lợi vĩ đại, vô số ngọc báu chúng con không cầu mà tự được cả.
Bạch đức Thế tôn, bây giờ
chúng con thích thú mà trình bày một sự ví dụ để thưa rõ ý nghĩa như
vậy. Vínhư có người tuổi đã nhỏ dại mà lại bỏ cha trốn đến xứ
khác, ở lâu mười năm, hai mươi năm, cho đến năm mươi năm. Khi tuổi lớn
rồi, lại thêm nghèo khốn, người ấy bôn ba khắp nơi để kiếm cơm áo,
lần hồi đến nhằm đô thành cha ở (104) . Còn người cha thì từ trước
đến giờ tìm con mà không được, nên dừng lại mà ở tại đô thành ấy
(105) . Ông rất giàu có. Tài sản và bảo vật, đại loại như bạc vàng,
lưu ly, san hô, hổ phách, pha lê và chân châu thì vô số. Mọi kho tàng đều
tràn đầy. Có lắm phụ tá, môn lại và tôi tớ. Voi ngựa, xe cộ và bò
dê thì vô số kể. Lợi tức thu chi khắp cả các nước. Thương khách rất
đông đảo.
Người con nghèo khốn đi qua các
vùng dân cư, hết xứ lớn đến xứ nhỏ, và rồi đến nhằm đô thành
cha ở. Người cha vẫn thường nhớ con. Xa con hơn năm mươi năm mà ông chưa
bao giờ nói việc ấy với ai, chỉ nghĩ riêng mà buồn tiếc. Ông lo già cả,
nhiều của, vàng ngọc kho tàng tràn đầy mà không có con cháu, một mai chết
đi thì của ấy tiêu tan vì không có người để giao phó. Lo nghĩ như vậy
nên ông thường tha thiết nhớ con. Ông nghĩ nếu gặp con để giao của thì
hết lo hết nghĩ, vui thích biết mấy.
Bạch đức Thế tôn, người con nghèo
khốn làm thuê làm mướn, lần hồi đến nhằm lâu đài người cha, đứng
lại bên cửa, xa thấy người cha ngồi trên ngai sư tử mà ghế đẩu nâng
chân cũng trang hoàng vàng ngọc. Bà la môn, sát lợi và cư sĩ thì kính cẩn
bao quanh. Thân ông trang sức bằng chuỗi ngọc chân châu giá trị ngàn vạn
tiền vàng. Môn lại và tôi tớ thì cầm quạt lông trắng đứng hầu hai bên.
Trên đầu thì che trướng đính ngọc và treo rủ xuống là những dải phan
kết hoa. Dưới đất thì được rưới nước thơm và rải những thứ hoa
danh tiếng. Bảo vật thì la liệt và đang được thu chi. Đủ thứ hoa myՠvà
đặc biệt tôn nghiêm như vậy. Người con nghèo khốn thấy người cha tư
thế lớn lao đến thế thì sợ hãi, hối tiếc đến nhằm chỗ này. Nghĩ
thầm đây là vua hoặc ngang với vua, không phải chỗ mình làm mướn kiếm
ăn. Chẳng bằng đi đến xóm nghèo, có chỗ bán sức, cơm áo dễ kiếm hơn.
Ta đứng mãi ở đây thì có thể bị cưỡng bách làm việc. Nghĩ vậy nên
bỏ chạy thật mau. Người cha, vị trưởng giả giàu có ấy, ngồi trên
ngai sư tử nhưng thấy con thì nhận biết được liền, lòng rất vui mừng,
nghĩ rằng bảo vật kho tàng của ta nay đã có người để giao phó rồi.
Ta nhớ mãi đứa con này, không làm sao gặp được mà nay nó bỗng nhiên tự
đến, rất hợp nguyện ước của ta. Ta già rồi mà vẫn ham con tiếc của!
Tức thì sai phái viên cấp tốc chạy theo dẫn về. Phái viên chạy mau đến
bắt. Người con nghèo khốn kinh hãi, lớn tiếng kêu oan, tôi đâu có xúc
phạm gì đến các người, tại sao các người bắt tôi? Phái viên bắt
càng gấp, kéo bừa dẫn về. Người con nghèo khốn tự nghĩ vô tội mà bị
bắt như bắt tù thì chắc phải chết. Càng nghĩ càng sợ nên ngất đi mà
ngã xuống đất. Người cha từ xa thấy vậy thì bảo phái viên, ta không cần
người này nữa; đừng dẫn người này về theo cách cưỡng bách như thế.
Hãy lấy nước lạnh rưới mặt cho người này tỉnh lại, nhưng đừng nói
gì với người này nữa. Người cha bảo như vậy vì biết con mình ý chí
thấp hèn. Ông tự biết chính sự cao sang của mình làm cho con mình khiếp
sợ. Biết đích là con trai của mình, nhưng người cha áp dụng phương tiện,
không nói với ai rằng người này là con tôi. Ông bảo phái viên nói với
con mình, rằng ta thả anh, anh đi đâu tùy ý. Người con nghèo khốn mừng
như được sự chưa từng có, từ đất đứng dậy, đi đến xóm nghèo để
kiếm cơm áo.
Trưởng giả muốn dẫn dụ con mình
nên lập chước phương tiện. Ông kín đáo sai hai phái viên hình sắc tiều
tụy, không oai phong gì, dặn rằng các người đi tìm người nghèo khốn vừa
rồi, từ từ nói rằng ở đây ta có việc thuê làm, trả giá gấp đôi.
Người ấy chịu thì các người dẫn về cho làm. Người ấy có hỏi muốn
thuê làm gì, thì các người bảo thuê quét dọn dơ bẩn (106) , và chúng
tôi cùng làm với anh. Hai phái viên tức khắc đi tìm người con nghèo khốn.
Tìm được rồi nói rõ mọi việc. Người con nghèo khốn hỏi biết giá
thuê, rồi đi liền đến lâu đài người cha mà quét dọn dơ bẩn với hai
người kia.
Người cha thấy con như vậy thì vừa
thương xót vừa quái lạ. Ngày khác, từ trong cửa sổ, ông xa thấy thân
con gầy ốm tiều tụy, phân đất bụi bặmlàm bẩn cả người. Tức khắc
ông cởi chuỗi ngọc, cởi áo mềm mịn thượng hạng và bao nhiêu đồ
trang sức khác, thay vào, ông mặc chiếc áo thô rách cáu bẩn,lại làm cho
bụi đất lấm lem cả người, rồi tay phải cầm dụng cụ quét dọn dơ bẩn,
bộ dáng có vẻ ghê sợ đồ dơ, đến bảo những người làm thuê: các người
hãy làm cho siêng, đừng nhác đừng nghỉ. Với cách phương tiện ấy ông
mới gần được con ông. Sau đó lại bảo: chàng trai này, hãy làm luôn ở
đây, đừng đi đâu nữa. Ta sẽ trả thêm tiền thuê cho anh. Cần gì về
thau chậu, gạo bún, muối giấm, thì đừng có e ngại. Có người sai vặt
vừa già vừa xấu kia, cần thì ta cấp cho. Anh hãy yên tâm. Ta như cha anh,
anh đừng lo nghĩ gì cả. Ta đối xử như vậy là vì ta già cả mà anh trai
trẻ, với lại anh làm việc thường không dối không nhác, không tức giận
không oán than. Ta không thấy anh có những tính xấu ấy như các người làm
thuê khác. Từ nay về sau anh như con trai của ta sinh ra. Trưởng giả tức
thì đặt cho cái tên gọi là con. Người con nghèo khốn, dẫu mừng vì sự
đãi ngộ ấy, vẫn tự xưng như cũ, rằng mình là người ngoài, người làm
thuê hèn hạ. Do vậy mà trong hai mươi năm trời, vẫn chỉ được bảo quét
dọn dơ bẩn. Qua thì gian này rồi lòng mới tin nhau, và người con nghèo khốn
ra vào trong lâu đài một cách không e ngại gì nữa. Nhưng chỗ ở thì vẫn
thích ở chỗ cũ.
Bạch đức Thế tôn, bấy giờ trưởng
giả bị bịnh, tự biết gần mất, mới bảo người con nghèo khốn, ta có
lắm vàng ngọc, kho tàng tràn đầy. Trong đó nhiều ít và đáng thu đáng
chi thế nào, con phải biết cho rõ. Ý cha như vậy, con phải thể theo. Nay
thì cha với con không khác gì cả. Con phải chú ý,đừng để thất thoát.
Người con nghèo khốn, khi ấy, tức thì vâng lời, lãnh nhận và biết rõ
mọi thứ, từ vàng ngọc cho đến kho tàng. Nhưng không có ý gì mong lấy
cho đủ một bữa ăn, và chỗ ở vẫn ở chỗ cũ, tâm lý thấp kém cũng
chưa bỏ được. Phải qua ít lâu nữa, cha biết con tâm trí đã thênh
thang, chí lớn đã thành đạt, đã biết tự khinh bỉ tâm lý ngày trước
của mình, nên lúc sắp chết, ông gọi con và triệu tập họ hàng, quốc vương,
đại thần, sát lợi, cư sĩ. Mọi người tập hợp cả rồi, ông tự
tuyên bố, rằng xin các vị biết cho, người này là con trai của tôi, do
tôi sinh ra. Trước đây, tại đô thành cũ, con tôi đã bỏ tôi mà trốn chạy,
lưu lạc khổ sở hơn năm mươi năm. Con tôi vốn tên như vậy, tôi tên như
vậy. Ngày xưa, tại đô thành ấy tôi lo lắng tìm kiếm mà không được,
ngày nay, tại đô thành này bỗng nhiên tôi gặp được con tôi. Nó thật
con tôi, tôi thật cha nó. Ngày nay, hết thảy tài sản bảo vật của tôi
đều là của con tôi, và trước đây thu chi thế nào, con tôi đã biết rõ
cả. Bạch đức Thế tôn, khi người con nghèo khốn nghe lời ấy của người
cha trưởng giả thì cùng cực vui mừng, được sự chưa từng có, nghĩ rằng
mình vốn không có lòng nào mong cầu, vậy mà ngày nay kho báu tự đến.
Bạch đức Thế tôn, người cha, vị
trưởng giả giàu có ấy là đức Thế tôn. Chúng con chỉ như con Phật,
nhưng đức Thế tôn vẫn thường gọi chúng con là con Phật. Bạch đức Thế
tôn, chúng con vì ba sự đau khổ (107) mà chịu bao nhiêu nóng rát phiền bực
trong chốn sống chết, đời này vẫn ngu và lầm, không biết nhận thức
gì hết nên ưa thích giáo pháp thấp nhỏ. Đức Thế tôn phải bảo chúng
con vận dụng tư duy tu mà quét dọn cho sạch hý luận dơ bẩn đối với các
pháp. Trong huấn dụ ấy, chúng con nỗ lực tinh tiến, đạt được niết bàn
như cái giá một ngày làm thuê. Đạt được như vậy mà lòng chúng con rất
mừng, tự cho đầy đủ, và tự bảo, ở trong giáo pháp của đức Thế tôn,
chúng con nhờ nỗ lực tinh tiến mà đã nhận được rất nhiều. Nhưng đức
Thế tôn biết tâm lý chúng con vốn đắm say dục lạc thô tệ, bị khổ
vì thế mà thành ra ưa thích giáo pháp thấp nhỏ, nên tạm thời buông thả,
bỏ đó mà chưa phán bảo rằng các người cũng có phần nhận được kho
tàng tuệ giác của Như lai, mặc dầu đức Thế tôn đã khéo léo nói cho
chúng con biết về kho tàng tuệ giác ấy. Chúng con, từ đức Thế tôn, nhận
được niết bàn chỉ như cái giá làm thuê một ngày mà lại cho là đã
được lớn lao, còn đối với cỗ xe vĩ đại thì chúng con không có chí
nguyện gì mong cầu. Chúng con cũng dựa vào tuệ giác của đức Thế tôn
mà diễn giảng tuệ giác ấy cho chư vị bồ tát (108) , nhưng tự mình thì
không có chí mong ước. Như vậy là vì đức Thế tôn biết tâm lý chúng
con ưa thích giáo pháp thấp nhỏ nên áp dụng phương tiện mà thuyết pháp
theo tâm lý chúng con, và chúng con không hề biết mình là thật con Phật.
Ngày nay chúng con mới biết đức Thế tôn không tiếc lẫn gì về tuệ
giác của ngài; chỉ vì chúng con tuy xưa nay vẫn là thật con Phật mà lại
ưa thích thấp nhỏ, nếu biết ưa thích vĩ đại thì ngài đã dạy cho
giáo pháp vĩ đại. Ngày nay, qua kinh Pháp hoa này, đức Thế tôn tuyên bố
chỉ có cỗ xe Phật đà duy nhất, như vậy ngày trước, trước mặt chư vị
bồ tát, ngài chê thanh văn chúng con ưa thích giáo pháp thấp nhỏ là, sự
thật, ngài chỉ muốn đem giáo pháp vĩ đại mà giáo hóa chúng con. Do vậy
nên chúng con nói chúng con vốn không có tâm nguyện gì mong cầu mà ngày
nay kho báu vĩ đại của đấng Pháp vương tự đến với chúng con: con Phật
đáng nhận được gì thì chúng con đã nhận được cả.
Lúc ấy tôn giả Đại ca diếp muốn
lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (1) Nay chúng con nghe
- tiếng nói Thế tôn,
- lòng mừng rộn rã
- được chưa từng có.
- (2) Đức Thế tôn nói
- chư vị thanh văn
- sẽ được làm Phật,
- như vậy có nghĩa
- đống ngọc tối thượng
- của đức Thế tôn,
- chúng con không cầu
- mà tự nhận được.
- (3) Như đứa bé trai
- nhỏ dại ngu ngơ,
- bỏ cha trốn đi
- đến xứ xa lạ.
- (4) Lang thang các xứ
- hơn năm mươi năm.
- Người cha lo nhớ
- tìm kiếm khắp nơi.
- (5) Tìm kiếm quá mệt
- dừng một đô thành,
- tạo lập lâu đài
- vui với ngũ dục.
- (6- 8)Ông rất giàu sang
- có lắm bạc vàng
- xa cừ mã não
- chân châu lưu ly,
- voi ngựa dê bò,
- xe liễn xe dư
- và xe thuyền khác;
- có lắm ruộng đất
- lắm người phục dịch
- và nhiều môn lại.
- Lợi tức thu chi
- khắp cả các nước,
- thương khách buôn bán
- ở đâu cũng có.
- Có vạn ức người
- kính trọng hướng về.
- Thường được vua chúa
- quí mến quan tâm,
- quan quyền thân hào
- ai cũng tôn trọng.
- Vì nhiều duyên cớ
- đông người qua lại.
- (9- 10) Giàu sang đến thế
- thế lực lại lớn,
- nhưng mà tuổi già
- nên càng nhớ con,
- ngày đêm lo nghĩ.
- Rằng chết sắp đến,
- con dại bỏ ta
- hơn năm mươi năm,
- kho tàng bảo vật
- rồi làm sao đây.
- (11) Người con nghèo khốn
- vì kiếm cơm áo
- từ xứ nhỏ này
- đến xứ nhỏ khác,
- từ xứ lớn khác
- đến xứ lớn này.
- (12) Chỗ thì cũng có,
- chỗ không có gì,
- đói khát gầy ốm
- mình sinh ghẻ chốc.
- (13) Lần hồi đi đến
- nhằm ngay đô thành
- của người cha ở,
- làm thuê làm mướn
- lại lần đến nhằm
- lâu dài người cha.
- (14) Trưởng giả lúc ấy
- ngồi ở trong cửa,
- chăng trướng báu lớn
- ngồi ngai sư tử.
- Tùy thuộc bao quanh
- lắm kẻ phục dịch.
- (15) Lại có những người
- kế toán vàng ngọc,
- thu chi tiền của,
- ghi chép giấy tờ.
- (16) Người nghèo thấy cha
- sang cả tôn nghiêm
- thì cho là vua
- hoặc ngang với vua,
- sợ và tự quái
- đến chi chốn này!
- (17) Lại nghĩ nếu ta
- đứng mãi ở đây,
- có thể bị ép
- bắt buộc làm việc.
- Nghĩ suy như thế
- người nghèo bỏ chạy
- để hỏi xóm nghèo
- mà đến làm thuê.
- (18) Trưởng giả lúc ấy
- ngồi ngai sư tử,
- xa thấy con mình
- biết mà không nói,
- sai ngay phái viên
- đuổi bắt đem về.
- (19) Người nghèo kêu hoảng
- ngất xỉu xuống đất,
- vì nghĩ người này
- bắt mình chắc giết;
- vị gì cơm áo
- đến nhằm chỗ này (109) !
- (20) Trưởng giả biết con
- u mê hèn kém,
- chắc chắn không tin
- ta nói là cha.
- (21) Ông liền phương tiện
- đổi sai vài người
- chột mắt, lùn xấu,
- không chút oai phong,
- rằng hãy tìm bảo
- muốn thuê mướn nó,
- (22) quét dọn dơ bẩn
- giá trả gấp đôi.
- (23) Người nghèo nghe nói
- vui vẻ đi theo
- đến dọn dơ bẩn
- làm sạch phòng nhà.
- (24) Nhìn qua cửa sổ
- trưởng giả thường xuyên
- quan sát con mình,
- nghĩ rằng con mình
- ngu muội thấp kém
- thích làm việc hèn.
- (25) Do đó trưởng giả
- đổi mặc áo dơ
- cầm đồ dọn bẩn
- đi đến chỗ con,
- phương tiện gần gũi
- bảo hãy siêng làm.
- (26) Ta thêm tiền công
- cho dầu xoa chân
- ăn uống đầy đủ
- đệm chiếu dày ấm.
- (27) Trưởng giả la mắng
- anh làm cho siêng,
- lại dịu dàng bảo
- anh như con ta.
- (28) Trưởng giả khéo léo,
- lần hồi sai bảo
- ra vào lâu đài.
- Sau hai mươi năm,
- bảo nắm mọi việc
- trong lâu đài ấy.
- (29) Ông chỉ cho biết
- tất cả vàng ngọc,
- tài sản thu chi
- cũng cho biết cả.
- (30) Được đãi như vậy
- nhưng người nghèo khốn
- vẫn ở ngoài cửa
- nương náu chòi tranh,
- tự nghĩ mình nghèo
- đâu có của đó.
- (31- 33) Thêm ít lâu nữa
- trưởng giả biết con
- tâm chí dần dần
- đã lớn rộng ra.
- Muốn giao tài sản,
- ông họp họ hàng
- quốc vương đại thần
- sát lợi cư sĩ.
- Trước những người ấy
- ông nói người này
- là con trai tôi,
- bỏ tôi mà trốn
- đi đến xứ khác
- đến năm mươi năm.
- Từ khi gặp lại
- cho đến ngày nay
- cũng đã trải qua
- hai mươi năm nữa.
- Xưa nơi thành ấy
- mất người con này,
- tôi tìm khắp nơi
- mới đến ở đây.
- (34) Ngày nay tất cả
- tài sản tôi có,
- kể cả lâu đài
- và bao gia nhân
- đều giao con tôi
- mặc ý sử dụng.
- (35) Người nghèo khi ấy
- tự nghĩ xưa kia
- mình quá nghèo khốn
- tâm chí thấp hèn,
- nay từ nơi cha
- cả được vàng ngọc
- được luôn lâu đài
- được hết tài sản,
- nên rất vui mừng
- như chưa từng có.
- *
- (36) Thế tôn cũng vậy.
- Biết rõ chúng con
- chí thích thấp nhỏ,
- nên ngài chưa hề
- tuyên bố chúng con
- cũng được làm Phật,
- chỉ nói chúng con
- đạt được một ít
- thành quả thuần khiết
- và thành những vị
- đệ tử thanh văn
- trong cỗ xe nhỏ (110) .
- (37) Thế tôn sắc bảo
- chúng con giảng nói
- đường lối tối thượng,
- đường lối mà ai
- tu tập trọn vẹn
- đều sẽ thành Phật.
- (38) Vâng lời Thế tôn
- chúng con cũng đã
- vận dụng những thứ
- yếu tố ví dụ
- cùng bao lời chữ
- mà giảng nói về
- đường lối tối thượng
- cho đại bồ tát.
- (39) Những con Phật ấy
- từ nơi chúng con
- nghe đường lối này,
- ngày đêm tư duy
- nỗ lực tu tập,
- bấy giờ Thế tôn
- cùng với chư Phật
- liền thọ ký cho,
- rằng trong vị lai
- sẽ được làm Phật.
- (40) Do vậy chúng con
- từng nghĩ lầm rằng
- kho tàng bí yếu
- của Phật thế tôn
- chỉ có bồ tát
- mới được nói cho,
- chúng con không được
- nói cho pháp ấy.
- Ngày nay chúng con
- tự biết in như
- kẻ nghèo khốn kia
- dầu được gần cha
- và biết bảo vật
- mà không mong lấy;
- (41) chúng con giảng nói
- kho báu chánh pháp
- của Phật thế tôn,
- mà tự chúng con
- không chí muốn có
- hì cũng như vậy.
- (42) Chúng con mới được
- niết bàn nội tại
- mà lại tự cho
- đã là đầy đủ,
- chỉ biết sự ấy
- không biết gì hơn.
- Chúng con nếu được
- nghe nói những việc
- làm sạch thế giới
- làm nên chúng sinh
- thì không cảm thấy
- thích thú chút nào.
- (43) Tại sao như vậy,
- bởi vì toàn thể
- các pháp đều không:
- không sinh không diệt
- không lớn không nhỏ
- đã không phiền não
- cũng không khử trừ,
- tư duy như vậy
- cho nên chúng con
- không còn thích gì.
- (44) Với tuệ giác Phật
- chúng con trường kỳ
- không ham không mê
- không chí ưa thích,
- trong khi đối với
- niết bàn của mình
- thì lại tự cho
- đã là cứu cánh.
- (45) Chúng con trường kỳ
- tu tập về Không,
- thoát được cái họa
- khổ não ba cõi,
- làm cho thân này
- thành thân cuối cùng,
- và thực hiện được
- niết bàn chưa toàn (111) ;
- thế là đối với
- giáo huấn Thế tôn
- chúng con tự cho
- đã thực hiện được
- một cách chắc chắn,
- và cho thế là
- đã báo đáp được
- hồng ân Thế tôn.
- (46) Cho dẫu chúng con
- nói pháp bồ tát
- cho các con Phật
- để họ cầu được
- tuệ giác Phật đà,
- nhưng chính chúng con
- đối với pháp ấy
- không thích bao giờ.
- (47) Đức Đại đạo sư
- bỏ qua chúng con
- chính vì xét thấy
- tâm lý như vậy.
- Và chưa bao giờ
- ngài khuyên chúng con
- tinh tiến bước tới,
- bằng cách nói rõ
- bước tới thì có
- ích lợi chân thật.
- (48) Như trưởng giả giàu
- biết con chí kém
- nên dùng phương tiện
- khắc phục lòng con,
- rồi sau mới giao
- tất cả tài sản.
- (49) Thế tôn cũng vậy,
- làm việc hiếm có:
- biết rằng chúng con
- chí thích thấp nhỏ
- nên đức Thế tôn
- dùng phương tiện lực
- trước hết thuần hóa
- tâm trí chúng con,
- sau đó mới dạy
- tuệ giác vĩ đại.
- *
- (50) Ngày nay chúng con
- được chưa từng được,
- vốn không hy vọng
- nay tự được cả,
- như người nghèo khốn
- được bao của báu.
- (51) Bạch đức Thế tôn,
- ngày nay chúng con
- mới được tuệ giác
- và được thành quả:
- được mắt trong suốt
- thấy pháp thuần khiết.
- Chúng con trường kỳ
- nghiêm trì tịnh giới,
- ngày nay bắt đầu
- nhận được thành quả.
- (52) Ở trong giáo pháp
- của đức Pháp vương,
- chúng con lâu ngày
- thực hành phạn hạnh,
- ngày nay nhận được
- thành quả vĩ đại
- đã rất thuần khiết
- lại không gì hơn.
- (53) Chúng con ngày nay
- mới thật Thanh văn:
- đem cái tiếng nói
- của tuệ giác Phật
- mà phát lộ ra
- cho mọi người nghe.
- (54) Chúng con ngày nay
- cũng thật La hán:
- khắp trong thế gian
- bao gồm tất cả
- chư thiên nhân loại
- ma vương phạn thiên,
- chúng con ứng thọ
- cho họ hiến cúng.
- (55) Hồng ân Thế tôn
- thật là cao cả:
- ngài đã vận dụng
- mọi cách hiếm có
- thương xót giáo hóa
- ích lợi chúng con.
- Nên dẫu trải qua
- vô số thời kỳ,
- ai mà trả được
- hồng ân như vậy.
- (56) Tay chân phục dịch
- đầu đỉnh lễ kính,
- cúng hiến tất cả
- cũng không trả được.
- Đội bằng đỉnh đầu
- vác với hai vai,
- hằng sa thời kỳ
- tôn kính hết lòng;
- (57- 58) lại hiến cỗ bàn
- cực kỳ myՠvị,
- hay dâng vải quí
- nhiều đến vô lượng,
- đồ nằm thuốc thang
- cúng hiến đủ cả;
- đem gỗ đàn hương
- và những vàng ngọc
- mà dựng bảo tháp
- và cất tự viện,
- rồi dùng vải quí
- mà trải mặt đất;
- với những cách ấy
- hiến cúng Thế tôn
- hằng sa thời kỳ
- cũng không trả được.
- (59) Thế tôn là bậc
- cực kỳ hiếm có,
- lại có đủ cả
- vô lượng vô biên
- đại thần thông lực
- ngoài tầm nghĩ bàn;
- ngài không sai sót
- lại không xao động,
- làm một vị vua
- thống lãnh các pháp,
- vậy mà có thể
- vì kẻ thấp kém,
- ngài nhẫn chịu được
- mọi sự thấp kém.
- (60) Đối với bao kẻ
- phàm phu cố chấp,
- ngài vẫn tùy nghi
- mà thuyết pháp cho,
- bởi vì đối với
- tất cả các pháp
- Thế tôn đã được
- sự rất tự tại.
- (61) Thế tôn biết hết
- thị hiếu, sở thích,
- chí hướng, năng lực
- của các chúng sinh,
- tùy sức của họ
- kham nhiệm được gì
- thì dùng vô lượng
- những sự ví dụ
- mà thuyết cho họ
- giáo pháp phong phú.
- (62) Lại tùy căn lành
- mà chúng sinh có
- từ các đời trước,
- và biết rất rõ
- ai đã thuần hóa
- ai chưa thuần hóa;
- xét đủ mọi mặt
- biết rành tất cả,
- rồi chính ở nơi
- cỗ xe duy nhất,
- Thế tôn tùy nghi
- nói ba cỗ xe.
Phẩm 5: Cỏ Thuốc [^]
Khi ấy đức Thế tôn bảo tôn giả
Đại ca diếp, và các vị đại đệ tử của ngài, rằng tốt lắm Đại
ca diếp, tôn giả đã nói rất khéo về công đức thật của Như lai. Thật
đúng như lời tôn giả đã nói. Đại ca diếp, Như lai còn có vô lượng vô
biên vô số công đức mà các vị nói đến vô số vạn ức thời kỳ cũng
không thể hết được.
Đại ca diếp, tôn giả nên biết,
Như lai là vua của các pháp, nói ra điều nào cũng không trống rỗng. Đối
với các pháp, Như lai đem phương tiện của tuệ giác Như lai mà tuyên thuyết,
và pháp được tuyên thuyết toàn là để đạt đến địa vị Tuệ giác
hoàn toàn. Như lai xét biết ý nghĩa của các pháp, biết đạo hạnh của
chúng sinh, biết một cách thông suốt, vô ngại, và bằng sự xét biết tường
tận như vậy mà Như lai khai thị cho chúng sinh về tuệ giác hoàn toàn.
Đại ca diếp, ví như toàn cõi đại
thiên thế giới, núi đồi hang rãnh và ruộng đất mọc lên cây cỏ và cỏ
thuốc, với bao nhiêu là chủng loại mà tên gọi và màu sắc không giống
với nhau. Nhưng mây dày nổi lên và dăng bủa khắp cả đại thiên thế giới
ấy, mưa xuống một cách đồng thời và đồng đều, thì nước mưa thấm
khắp tất cả. Tất cả cây cỏ và cỏ thuốc, rễ nhỏ thân nhỏ nhánh nhỏ
lá nhỏ, rễ vừa thân vừa nhánh vừa lá vừa, rễ lớn thân lớn nhánh lớn
lá lớn, các cây thì tùy chủng loại lớn nhỏ và cỏ thuốc thì tùy tính
chất tốt vừa kém mà hấp thụ đủ cả. Một loại mây đổ mưa xuống,
xứng hết với các mầm, nên thứ nào cũng được sinh ra, lớn lên, trổ
hoa, ra trái và kết hạt. Cùng một đất mọc lên, một mưa thấm xuống,
nhưng các cây cỏ và cỏ thuốc vẫn có khác nhau.
Đại ca diếp, Như lai cũng vậy.
Như lai xuất hiện thế gian in như mây lớn nổi lên. Rồi in như mây lớn
bủa khắp đại thiên thế giới, Như lai xuất ra âm thanh rất lớn, vang khắp
thế giới chúng sinh, trong đó có chư thiên, nhân loại và tu la, phổ cáo tất
cả các chúng, rằng Như lai là bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến
cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết
bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người,
bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn: bậc Tôn cao nhất đời.
Ai chưa vượt đến bờ bến Như lai làm cho vượt đến, ai chưa cởi mở ràng
buộc Như lai làm cho cởi mở, ai chưa yên ổn Như lai làm cho yên ổn, ai chưa
niết bàn Như lai làm cho niết bàn. Đời này đời sau, Như lai biết đúng
như sự thật. Như lai là người biết tất cả, người thấy tất cả,
người biết đường, người mở đường, người chỉ đường. Tất cả các
chúng hãy nên đến Như lai, đến để nghe pháp. Bấy giờ vô số vạn ức
chủng loại chúng sinh đều đến chỗ Như lai mà nghe pháp. Như lai lúc ấy
xét chúng sinh này các căn lanh chậm thế nào, siêng nhác ra sao, rồi tùy năng
lực của họ mà thuyết pháp đủ cách, làm cho ai cũng hoan hỷ, thích thú
vì được lợi lành. Họ nghe pháp rồi thì đời này yên vui, đời sau sinh
chỗ hiền lành, đem đạo lý mà hưởng thụ hạnh phúc, và được nghe pháp
thêm nữa. Nghe rồi thoát được mọi sự trở ngại, đối với pháp được
nghe thì năng lực làm được, nên dần dần vào được tuệ giác Như lai.
Sự thể ví như mây lớn đổ mưa xuống tất cả cây cỏ và cỏ thuốc, xứng
với các mầm nên thứ nào cũng thấm nhuần mà sinh trưởng được cả.
Như lai thuyết pháp cũng vậy. Pháp ấy chỉ có màu sắc và mùi vị đồng
nhất, là màu sắc mùi vị giải thoát, tách rời và hủy diệt dục vọng,
cứu cánh đạt đến tuệ giác Biết tất cả. Lại nữa, sự thể cũng
như cây cỏ và cỏ thuốc không thứ nào tự biết chủng loại lớn nhỏ
và tính chất tốt vừa kém (112) , chúng sinh nào nghe pháp của Như lai mà
ghi nhớ, đọc tụng và thực hành như lời được nghe, thì thành quả họ
đạt được họ không thể tự biết. Chỉ có Như lai thấy biết chủng loại
và tính chất của những chúng sinh ấy nhớ việc gì nghĩ việc gì tu việc
gì, nhớ thế nào nghĩ thế nào tu thế nào, đem pháp gì mà nhớ đem pháp
gì mà nghĩ đem pháp gì mà tu, bằng pháp nào thì được pháp nào và ở vị
trí nào, chỉ có Như lai thấy biết đúng như sự thật, thấy biết thấu
suốt, vô ngại.
Như lai biết về pháp có màu sắc
mùi vị đồng nhất là màu sắc mùi vị giải thoát, tách rời và hủy diệt
dục vọng, cứu cánh niết bàn theo như bản thể thường tự vắng lặng,
kết cục qui về nơi Không. Biết về pháp ấy rồi, Như lai quán sát tâm
tính và thị hiếu của chúng sinh mà tế nhị nâng đỡ cho họ, nên không
đột ngột nói ngay cho họ về tuệ giác Biết tất cả. Đại ca diếp,
chư vị thật hiếm có, biết được Như lai tùy nghi thuyết pháp, tin được
nhận được. Như lai tán dương như vậy, vì sự tùy nghi thuyết pháp của
chư Phật như lai thì khó hiểu khó biết.
Khi ấy đức Thế tôn muốn lặp lại
ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (1) Là vị Pháp vương
- phá hủy ba cõi,
- Như lai xuất hiện
- trong thế gian này,
- tùy theo thị hiếu
- của các chúng sinh
- mà thuyết pháp cho
- bằng đủ mọi cách.
- (2) Như lai cao trọng,
- tuệ giác sâu xa,
- từ lâu yên lặng
- không ham vội vã
- nói về cái pháp
- bí yếu như vầy.
- (3) Vì người có trí
- nghe thì tin hiểu,
- không trí đột nhiên
- nghe thì ngờ vực,
- và như thế thì
- lầm lạc lâu dài.
- (4) Vì vậy Ca diếp,
- Như lai tùy theo
- năng lực chúng sinh
- mới nói cho họ,
- bằng cách vận dụng
- mọi thứ yếu tố,
- làm họ đạt được
- thấy biết của Phật.
- (5) Ca diếp nên biết
- ví như mây lớn
- nổi trong không gian,
- bủa khắp tất cả.
- (6) Mây tuệ giác ấy
- chứa nước thấm mát,
- điện chớp sáng lóa
- sấm nổ vang xa,
- làm cho vạn vật
- thức tỉnh vui đẹp.
- (7) Mặt trời bị khuất
- mặt đất mát mẻ,
- mây bủa thấp xuống
- như với nắm được,
- và mưa đồng đều
- khắp nơi cùng đổ.
- (8- 11) Trút nước vô số
- mặt đất thấm cả.
- Núi đồi hang rãnh
- sâu mấy mà có
- cây cỏ, cỏ thuốc,
- các cây lớn nhỏ,
- các giống lúa má,
- và mía với nho,
- trận mưa thấm cho
- đầy đủ hết thảy.
- Đất khô thấm đều,
- thuốc, cây cùng tốt.
- (12) Mây lớn đổ xuống
- nước mưa một vị,
- các loại cỏ cây
- tùy phần thấm nhuần.
- (13) Tất cả cỏ cây
- tốt vừa kém gì
- cũng xứng lớn nhỏ
- mà được sinh trưởng.
- (14) Rễ thân nhánh lá
- hoa trái màu sắc,
- một mưa khắp hết
- nên tươi tốt cả.
- (15) Đúng như tính chất
- tốt vừa và kém,
- xứng với chủng loại
- lớn cũng như nhỏ,
- thấm nhuần là một
- cùng tốt tươi riêng.
- *
- (16) Như lai cũng vậy,
- xuất hiện thế gian
- là như mây lớn
- bủa khắp hết thảy.
- Sau khi xuất hiện
- Như lai tuyên thuyết
- chân lý các pháp
- cho bao chúng sinh.
- (17) Như lai đại giác
- tuyên cáo các chúng
- chư thiên nhân loại
- mà nói như vầy:
- Ta là Như lai
- phước tuệ cao cả,
- xuất hiện thế gian
- in như mây lớn.
- (18) Ta mưa thấm hết
- chúng sinh khô cằn,
- làm cho hết khổ
- được vui yên ổn
- là vui thế gian
- và vui niết bàn.
- (19) Chư thiên, nhân loại,
- hãy nghe Như lai!
- hãy nên đến đây
- ngắm đức Vô thượng!
- Như lai là đấng
- tôn cao nhất đời,
- tất cả thế gian
- không ai sánh bằng,
- muốn làm chúng sinh
- được yên vui cả
- cho nên xuất hiện
- trong thế giới này.
- (20) Chính vì vô số
- các loại chúng sinh,
- Như lai tuyên thuyết
- về pháp cam lộ
- tinh khiết trong suốt,
- chỉ một mùi vị
- ấy là mùi vị
- giải thoát niết bàn.
- (21) Chỉ dùng âm thanh
- nhiệm mầu duy nhất,
- Như lai diễn đạt
- về pháp như vậy,
- thường tạo yếu tố
- bước tới đại thừa.
- Nhìn khắp chúng sinh
- coi rất bình đẳng,
- cho nên Như lai
- không có tâm lý
- phân chia riêng rẽ
- người này kẻ kia,
- kẻ đáng thương mến
- người nên ghét bỏ.
- (22) Như lai cũng không
- có ý tham lam
- hay hạn chế gì,
- chỉ thường thuyết pháp
- cho các chúng sinh
- một cách bình đẳng,
- như vì một người
- thuyết pháp thế nào
- thì vì nhiều người
- thuyết pháp cũng vậy.
- (23) Cho nên Như lai
- thường xuyên thuyết pháp,
- bận rộn độc nhất
- với sự vụ ấy.
- Dầu khi đi lại
- hay lúc đứng ngồi,
- Như lai thuyết pháp
- không hề chán mệt.
- (24) Tựa như nước mưa
- thấm nhuần khắp cả,
- Như lai sung mãn
- niềm vui cho đời,
- bất kể sang hèn,
- cao thượng thấp kém,
- giữ hay không giữ
- giới luật trong suốt.
- (25- 26) Uy nghi hoàn hảo
- hay không hoàn hảo,
- kiến thức chính xác
- hay là sai lầm,
- các căn lanh lợi
- hay là chậm chạp,
- đối với tất cả
- những người như vậy,
- Như lai đồng đều
- mưa xuống mưa pháp
- mà không bao giờ
- biếng nhác mỏi mệt.
- (27- 28) Hết thảy chúng sinh
- nghe pháp Như lai
- đều theo sức mình
- mà tiếp nhận được,
- và được ở vào
- những vị trí này:
- Ở trong trời người
- được ngôi Luân vương,
- Phạn vương, Đế thích,
- là cỏ thuốc kém.
- (29- 30) Thấu pháp thuần khiết
- được sự niết bàn,
- được sáu thần thông
- và ba minh trí,
- nghĩa là những vị
- được tuệ Thanh văn;
- riêng ở núi rừng
- thường hành thiền định
- được tuệ Duyên giác,
- là cỏ thuốc vừa.
- (31) Cầu chỗ Như lai,
- biết sẽ làm Phật,
- tinh tiến kiên định,
- là cỏ thuốc tốt.
- (32) Những người con Phật
- chuyên tâm hạnh Phật,
- thường hành từ bi
- tự biết làm Phật,
- quyết định, không nghi,
- đó là cây nhỏ.
- (33) Vận dụng năng lực
- thần thông quảng đại,
- chuyển đẩy bánh xe
- không còn thoái chuyển,
- cứu độ vô số
- ức ngàn chúng sinh,
- Bồ tát như vậy
- gọi là cây lớn.
- (34) Như lai thuyết pháp
- một cách bình đẳng
- y như nước mưa
- chỉ một mùi vị,
- chúng sinh tùy tính
- tiếp nhận không đồng
- in như cây cỏ
- hấp thụ khác cả.
- (35) Như lai giả thiết
- ví dụ như vầy
- là để phương tiện
- khai thị cho biết:
- bao nhiêu lời chữ
- đều để tuyên thuyết
- về pháp đồng nhất,
- và với trí Phật
- chỉ như giọt nước
- xuất từ biển cả.
- (36) Như lai mưa xuống
- nước mưa chánh pháp
- tràn đầy cho cả
- chúng sinh thế gian.
- Đối với chánh pháp
- một mùi vị ấy,
- họ tùy sức họ
- mà tu hành theo.
- (37) Sự thể in như
- các thứ cỏ thuốc
- cùng các thứ cây
- tùy loại lớn nhỏ,
- nhưng cùng thấm nhuần
- nước mưa một vị
- và cùng lớn dần
- hoa quả tốt tươi.
- (38) Chánh pháp Như lai
- thường đem một vị
- làm cho chúng sinh
- tiếp nhận đủ hết,
- và tu tập dần
- mà được đạo quả:
- (39) Thanh văn, Duyên giác
- ở chốn núi rừng,
- bằng thân cuối cùng
- nghe pháp được đạo,
- đó là cỏ thuốc
- cùng được lớn lên.
- (40) Còn chư Bồ tát
- trí tuệ vững chắc,
- thấu triệt ba cõi,
- cầu xe tối thượng,
- đó là cây nhỏ
- cùng được lớn lên.
- (41) Lại có Bồ tát
- ở trong thiền định
- được sức thần thông,
- nghe đạo lý Không
- của tất cả pháp
- lòng rất hoan hỷ,
- phóng ra vô số
- ánh sáng mầu nhiệm,
- hóa độ vô số
- các loại chúng sinh,
- đó là cây lớn
- cùng được lớn lên.
- (42) Như vậy Ca diếp,
- Như lai thuyết pháp
- in như mây lớn
- đổ mưa một vị
- thấm khắp hoa người
- kết trái hạt cả.
- (43) Ca diếp nên biết,
- đem các yếu tố
- và mọi ví dụ
- để mà chỉ dạy
- tuệ giác Phật đà
- cho cả chúng sinh,
- đó là phương tiện
- của Như lai đây
- và của tất cả
- chư vị Phật đà.
- (44) Như lai nay nói
- sự rất thật này:
- chư vị thanh văn
- chưa thật niết bàn;
- tất cả chư vị
- toàn là đi theo
- đường đi bồ tát,
- cho nên chư vị
- tu học dần dần
- sẽ thành Phật đà (113) .
Phẩm 6: Thọ Ký [^]
Nói những lời chỉnh cú trên đây
rồi, đức Thế tôn tuyên cáo với toàn thể đại hội các chúng: Đại đệ
tử của Như lai là tôn giả Đại ca diếp đây, trong thì vị lai, sẽ được
phụng hầu ba trăm vạn ức chư Phật như lai, hiến cúng cung kính tôn trọng
tán dương, tuyên thuyết rộng rãi vô số chánh pháp vĩ đại của các
ngài, rồi thân cuối cùng thành đức Phật đà danh hiệu Quang minh như lai,
đủ mười đức hiệu. Quốc độ tên Quang đức, thời kỳ tên Đại trang
nghiêm. Quang minh như lai sống lâu mười hai thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp
nguyên chất tồn tại thế gian hai mươi thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương
tự cũng tồn tại hai mươi thời kỳ bậc nhỏ. Quốc độ huy hoàng, không
có những thứ dơ và xấu như ngói sỏi gai góc và đại tiểu tiện lợi.
Quốc độ ấy lại bằng thẳng, không có cao thấp, hầm hố gò đống. Đất
bằng lưu ly, cây ngọc thành hàng, dây hoàng kim phân chia lề đường. Rải
các hoa quí, đâu cũng sạch sẽ. Trong quốc độ ấy chúng bồ tát vô số
ngàn ức, chúng thanh văn cũng vô lượng như vậy. Không có việc ma ; vua ma
và dân ma tuy có, nhưng toàn là những kẻ hộ trì Phật pháp. Đức Thế tôn
lặp lại ý nghĩa đã nói bằng những lời chỉnh cú sau đây.
- (1) Này chư tỷ kheo,
- Như lai sử dụng
- con mắt Phật đà
- nhìn thấy tôn giả
- Đại ca diếp đây
- trong thì vị lai
- vô số thời kỳ
- sẽ thành Phật đà.
- (2) Vị lai tôn giả
- phụng hầu hiến cúng
- ba trăm vạn ức
- chư Phật như lai,
- vì tuệ giác Phật
- mà tu phạn hạnh.
- (3) Sau khi hiến cúng
- chư Phật như lai
- phước tuệ tối thượng,
- và tu tập về
- tuệ giác tối thượng
- biết khắp tất cả,
- thì thân cuối cùng
- được thành đức Phật.
- (4- 6) Quốc độ sạch sẽ,
- lưu ly làm đất.
- Có lắm cây ngọc
- hàng lối bên đường.
- Dây vàng chia đường
- ai thấy cũng thích.
- Cây phát hương thơm,
- rải xuống hoa quí
- đủ loại đẹp lạ,
- sử dụng trang hoàng.
- Đất ấy bằng thẳng,
- không có hố đồi.
- (7) Chúng chư bồ tát
- thì hết tính toán,
- tâm trí thuần hóa
- được đại thần lực,
- kính giữ kinh pháp
- đại thừa của Phật.
- (8) Chúng chư thanh văn
- toàn thân cuối cùng,
- không còn phiền não,
- làm con Pháp vương,
- số lượng các ngài
- cũng khó tính toán,
- dùng mắt chư thiên
- đếm cũng không nổi.
- (9) Quang minh như lai
- sống lâu mười hai
- thời kỳ bậc nhỏ,
- giáo pháp nguyên chất
- tồn tại hai mươi
- thời kỳ bậc nhỏ,
- giáo pháp tương tự
- tồn tại cũng vậy.
- Quang minh như lai
- việc ngài như thế.
Bấy giờ tôn giả Mục kiền liên,
tôn giả Tu bồ đề và tôn giả Ca chiên diên, đều chấn động cả người,
chuyên chú mà chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế tôn, mắt không rời ngài một
thoáng, và đồng thanh thưa ngài bằng những lời chỉnh cú sau đây.
- (10) Bạch đức Thế tôn
- bậc đại hùng lực!
- thưa đấng Pháp vương
- dòng họ Thích ca!
- xin ngài thương xót
- hết thảy chúng con,
- ban cho chúng con
- tiếng nói của Phật.
- (11) Thế tôn nếu biết
- thâm tâm chúng con,
- trao cho chúng con
- lời ghi làm Phật,
- thì như rưới nước
- cam lộ mát ngọt
- làm cho chúng con
- hết nóng được mát.
- (12) Y như những kẻ
- đến từ nước đói,
- bỗng gặp cỗ bàn
- của đức vua lớn,
- nhưng còn nghi sợ
- chưa dám dùng liền,
- nếu được vua bảo
- mới dám ăn dùng.
- (13) Chúng con cũng vậy,
- thường nghĩ nhược điểm
- của pháp thấp nhỏ,
- không biết làm sao
- sẽ được tuệ giác
- vô thượng của Phật.
- (14) Dẫu chúng con nghe
- Thế tôn đã nói
- chúng con rồi ra
- sẽ làm Phật cả,
- nhưng còn lo sợ
- chưa dám dùng ngay.
- (15) Nếu được đội ơn
- Thế tôn thọ ký,
- chúng con mới được
- yên vui hoàn toàn.
- (16) Bạch đức Thế tôn,
- đấng đại hùng lực
- thường muốn yên vui
- cho cả thế giới!
- xin ngài ban cho
- lời ghi làm Phật,
- như kẻ đang đói
- cần bảo dùng đi!
Đức Thế tôn biết lòng mong ước
của các vị đại đệ tử, nên bảo chư vị tỷ kheo, vị tôn giả Tu bồ
đề này trong thì vị lai, phụng hầu ba trăm vạn ức trăm triệu (114) chư
Phật như lai, hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương, thường tu phạn hạnh,
đi trọn đường đi bồ tát, và thân cuối cùng được thành Phật đà,
danh hiệu là Danh tướng như lai, đủ mười đức hiệu. Thời kỳ của ngài
tên là Hữu bảo, quốc độ của ngài tên là Bảo sinh. Quốc độ ấy bằng
thẳng, đất là pha lê, cây ngọc tráng lệ, không có núi đồi, hầm hố,
cát sỏi, gai góc, tiện lợi dơ bẩn. Hoa quí phủ đất, đâu cũng sạch sẽ.
Người quốc độ ấy đều ở đài ngọc và lầu ngọc. Đệ tử của đức
Danh tướng như lai thuộc chúng thanh văn thì vô lượng vô biên, toán số
ví dụ không thể xác định; thuộc chúng bồ tát thì vô số ngàn vạn ức
trăm triệu. Danh tướng như lai sống lâu mười hai thời kỳ bậc nhỏ, giáo
pháp nguyên chất tồn tại thế gian hai mươi thời kỳ bậc nhỏ, giáo
pháp tương tự cũng tồn tại hai mươi thời kỳ bậc nhỏ. Danh tướng
như lai thường đứng trong không gian mà thuyết pháp cho các chúng, hóa độ
vô lượng bồ tát và thanh văn. Đức Thế tôn lặp lại ý nghĩa đã nói bằng
những lời chỉnh cú sau đây.
- (17) Này chư tỷ kheo,
- nay bảo chư vị
- hãy cùng nhất tâm
- nghe Như lai nói.
- Vị đại đệ tử
- Tu bồ đề này
- sẽ thành Phật đà
- hiệu là Danh tướng.
- (18) Sau khi hiến cúng
- vô số chư Phật,
- đi theo đường hướng
- chư Phật đã đi,
- dần dần hoàn chỉnh
- tuệ giác vĩ đại;
- (19) thì thân cuối cùng
- đủ bâm hai tướng,
- trang nghiêm tráng lệ
- tựa như núi ngọc.
- (20) Quốc độ của đức
- Danh tướng như lai
- đẹp sạch bậc nhất
- ai thấy cũng thích.
- Ngài ở trong không
- của quốc độ ấy
- thuyết pháp hóa độ
- vô lượng các chúng.
- (21) Trong giáo pháp ngài
- có nhiều bồ tát,
- toàn là những bậc
- các căn lanh lợi,
- chuyển đẩy bánh xe
- không còn lui lại.
- Quốc độ của ngài
- thường lấy các vị
- bồ tát như vậy
- làm sự trang hoàng.
- (22) Chúng chư thanh văn
- không thể tính toán,
- được ba minh trí
- và sáu thần thông,
- đặt mình vững vàng
- trong tám giải thoát,
- vị nào cũng có
- uy đức rất lớn.
- (23) Danh tướng như lai
- thuyết pháp thì hiện
- vô lượng thần biến
- siêu việt nghĩ bàn,
- chư thiên nhân loại
- nhiều bằng hằng sa
- đều chắp tay lại
- nghe nhận lời ngài.
- (24) Ngài sống mười hai
- thời kỳ bậc nhỏ,
- giáo pháp nguyên chất
- tồn tại hai mươi
- thời kỳ bậc nhỏ,
- giáo pháp tương tự
- cũng được tồn tại
- với thì gian ấy.
Đức Thế tôn lại bảo chư vị tỷ
kheo, Như lai bây giờ lại tuyên cáo với chư vị, vị tôn giả Ca chiên
diên này, trong thì vị lai, đem những cúng phẩm mà hiến cúng phụng sự
tám ngàn ức chư Phật như lai, cung kính tôn trọng. Sau khi các ngài nhập
diệt, đối với ngài nào tôn giả Ca chiên diên cũng xây dựng bảo tháp
cao một ngàn do tuần, và chu vi năm trăm do tuần, toàn đem bạc, vàng, lưu
ly, xa cừ, mã não, chân châu và mai khôi, bảy chất liệu quí báu như vậy
hợp lại tạo thành. Lại hiến cúng các bảo tháp ấy bằng các loại hoa,
vòng hoa, các hương liệu, lọng dù và tràng phan (115) . Sau đó tôn giả Ca
chiên diên còn hiến cúng hai vạn ức chư Phật như lai nữa, cũng với sự
hiến cúng như trên. Hiến cúng chư Phật như lai, đi trọn đường đi bồ
tát rồi, tôn giả Ca chiên diên sẽ thành đức Phật đà với danh hiệu
là Diêm phù na đề kim quang như lai, đủ mười đức hiệu. Quốc độ của
ngài bằng thẳng và đất là pha lê, cây ngọc tráng lệ, dây hoàng kim
phân chia lề đường, hoa đẹp phủ đất, khắp nơi sạch sẽ, ai nhìn cũng
thích. Không có bốn đường dữ là địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh và tu
la, mà lại có nhiều chư thiên và nhân loại. Còn thanh văn chúng và bồ
tát chúng thì vô số vạn ức, trang hoàng cho quốc độ ấy. Diêm phù na đề
kim quang như lai sống lâu mười hai thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất
tồn tại thế gian hai mươi thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tự cũng
tồn tại hai mươi thời kỳ bậc nhỏ. Đức Thế tôn lặp lại ý nghĩa đã
nói bằng những lời chỉnh cú sau đây.
- (25) Chư vị tỷ kheo,
- nhất tâm mà nghe!
- Như lai lại nói
- lời không sai lầm.
- (26) Đại ca chiên diên
- sẽ đem bao nhiêu
- cúng phẩm tốt đẹp
- hiến cúng chư Phật.
- Chư Phật nhập diệt,
- dựng tháp bảy báu
- và đem hoa hương
- hiến cúng xá lợi.
- (27- 28) Nên thân cuối cùng
- được tuệ giác Phật,
- trở thành một đấng
- Biết đúng và khắp,
- với một quốc độ
- cực kỳ sạch sẽ,
- hóa độ vô số
- vạn ức chúng sinh,
- lại được mười phương
- ai cũng hiến cúng.
- Ánh sáng của ngài
- không ai hơn được
- nên được danh hiệu
- Diêm phù kim quang.
- (29) Bồ tát thanh văn
- đã cắt buộc ràng
- vào cõi sống chết
- thì nhiều vô số,
- làm cho trang nghiêm
- quốc độ của ngài.
Đức Thế tôn lại bảo đại hội
các chúng, bây giờ Như lai lại tuyên cáo với chư vị, vị tôn giả Mục
kiền liên này, trong thì vị lai, đem những cúng phẩm mà hiến cúng tám
ngàn chư Phật như lai, cung kính, tôn trọng. Sau khi các ngài nhập diệt, đối
với ngài nào tôn giả Mục kiền liên cũng xây dựng bảo tháp cao đến một
ngàn do tuần và chu vi rộng đến năm trăm do tuần, toàn đem bảy chất liệu
quí báu hợp lại tạo thành. Lại đem các loại hoa, vòng hoa, các hương liệu,
lọng dù và tràng phan mà hiến cúng bảo tháp ấy. Sau đó tôn giả hiến
cúng hai trăm vạn ức chư Phật như lai nữa, cũng với sự hiến cúng như
trên, rồi thành đức Phật đà với danh hiệu Đa ma la bạt chiên đàn hương
như lai, đủ mười đức hiệu. Thời kỳ của ngài tên là Hỷ mãn, quốc
độ của ngài tên là Ý lạc. Quốc độ ấy bằng thẳng và đất là pha
lê, cây ngọc tráng lệ, rải hoa ngọc chân châu, đâu cũng sạch sẽ, ai thấy
cũng thích. Rất nhiều chư thiên và nhân loại. Bồ tát và thanh văn thì
vô lượng vô số. Đa ma la bạt chiên đàn hương như lai sống lâu hai mươi
bốn thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất tồn tại thế gian bốn mươi
thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tự cũng tồn tại bốn mươi thời kỳ
bậc nhỏ. Đức Thế tôn lặp lại ý nghĩa đã nói bằng những lời chỉnh
cú sau đây.
- (30) Đệ tử Như lai
- Đại mục kiền liên
- bỏ thân này rồi
- được gặp tám ngàn
- hai trăm vạn ức
- chư Phật như lai.
- (31) Để được thực hiện
- tuệ giác Phật đà,
- tôn giả tôn kính
- hiến cúng các ngài,
- nơi chỗ các ngài
- thường tu phạn hạnh.
- (32- 33) Vô lượng thời kỳ
- tôn giả kính giữ
- tất cả giáo pháp
- của chư Phật ấy.
- Và khi các ngài
- nhập niết bàn rồi
- tôn giả xây dựng
- những tháp bảy báu,
- lại dựng trụ vàng
- tiêu biểu lâu dài (116) ,
- rồi đem hoa hương
- và tấu nhạc khí
- cung kính hiến cúng
- những tháp Phật ấy.
- (34) Dần dần hoàn bị
- đường đi bồ tát,
- tại cõi Ý lạc
- thành Phật với hiệu
- Đa ma la bạt
- đàn hương như lai.
- (35) Đức Như lai ấy
- sống lâu hâm bốn
- thời kỳ bậc nhỏ,
- thường xuyên tuyên thuyết
- giáo pháp Phật đà
- cho cả trời người.
- (36) Đệ tử thanh văn
- vô số vô lượng
- nhiều bằng hằng sa,
- đủ ba minh trí
- và sáu thần thông
- uy đức rất lớn.
- (37) Đệ tử bồ tát
- vô lượng vô biên,
- trí nhớ cứng chắc
- tinh tiến thường trực,
- đối với trí Phật
- không ai thoái chuyển.
- (38) Phật nhập diệt rồi
- giáo pháp nguyên chất
- tồn tại bốn chục
- thời kỳ bậc nhỏ,
- giáo pháp tương tự
- tồn tại cũng vậy.
*
Đệ tử Như lai uy đức toàn vẹn
số có năm trăm, sẽ được thọ ký trong thì vị lai đều thành Phật đà.
Và sự tương quan từ thời xa xưa, liên hệ Như lai cùng với chư vị, Như
lai sắp nói, chư vị khéo nghe!
Chân
thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh
Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng
Word, VNI font. Thích Nhật Từ 3-5-2000
Phần | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 |
|
|