- Đại cương về
Luận Câu Xá
- Học viện Phật giáo Việt Nam
tại Huế,
PL. 2543 - TL. 1999
[Phẩm 5.b]
* TIẾT 3: CÁC PHIỀN NÃO (Tạp minh
chư phiền não)
Tất
cả phiền não đều gom lại trong hai loại là căn bản và chi mạt. Thể
tánh của nó, như đã nói, nhưng trong các kinh luận lại thường nêu ra ba
lậu, bốn bộc lưu, bốn ách, bốn thủ, năm thuận hạ phần kiết sử,
năm thuận thượng phần kiết sử, chín kiết, mười triền, sáu cấu, năm
cái. Những thứ này chẳng phải nằm ngoài hai loại căn bản và chi mạt
phiền não?
Ðây,
trước biện minh tự thể của chúng, sau đó mới nói rõ chúng thuộc vào
căn bản và chi mạt như thế nào?
1.
Ba lậu: Dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Ba loại lậu này làm cho
loài hữu tình lưu chuyển trong vòng sanh tử, lại thường tiết lậu các xấu
xa ô nhiễm ra ở sáu căn không biết khi nào dứt.
a. Dục lậu:
Chỉ cho hoặc lậu ở cõi dục. Lấy 41 hoặc thuộc cõi Dục làm tự tánh.
41 hoặc ấy lấy 36 căn bản hoặc thuộc cõi Dục (Xem Biểu đồ 98 sử, phần
cõi Dục ở đoạn trước), trừ 5 phiền não si trong 5 bộ pháp (5 bộ pháp
là các lậu hoặc đoạn trừ do kiến đạo về Khổ đế, Tập đế, Diệt
đế, Ðạo đế là 4, cộng với các lậu hoặc đoạn trừ do tu đạo Là
5). Còn lại 31. Cộng thêm 10 triền cái thuộc chi mạt hoặc là vô tàm, vô
quý, thụy miên, trạo cử, hôn trầm, xan, tật, phẫn, phú, hối thành 4 1ậu
hoặc.
b. Hữu lậu:
Chỉ các lậu hoặc ở cõi Sắc và Vô sắc. Lấy 52 hoặc của cõi này làm
tự tánh. 52 hoặc là lấy 31 hoặc của cõi Sắc (xem đồ biểu 98 sử ở
trên, phần cõi Sắc) trừ 5 phiền não si của trong bộ pháp, còn lại 26,
như vậy 26 + 26 = 52. Những phiền não của cõi trên gọi là hữu lậu vì
có ba tánh cách:
(a) Tánh hữu
phú vô ký.
(b) Ðồng chuyển hiện bên trong, vì đây đa phần duyên định và nội
thân mà phát hiện, chứ ít duyên ngoại sắc như cảnh Dục.
(c) Ðồng nương định địa phát khởi (xem đồ biểu 9 - phần Cõi Sắc
và Vô sắc trên).
c. Vô
minh lậu: Lấy 51 phiền não si khởi lên ở xả ba cõi làm tự tánh.
Trong tất cả điều ác, tách riêng si thành một lậu, vì si là cội gốc
sanh tử trong ba cõi.
2.
Bốn bộc lưu: Bốn dòng nước cuốn, là dục lưu, hữu lưu, kiến lưu
và vô minh lưu. Tánh nó hay nhận chìm chúng sanh, nhận chìm pháp lành, nên
gọi là bộc lưu.
- Dục bộc
lưu: Chỉ phiền não thuộc cõi Dục, thể nó có 29, tức lấy 41 hoặc
thuộc lậu, trừ đi 5 kiến Khổ đế, 2 kiến thuộc Tập đế, 3 kiến thuộc
Diệt đế, 3 kiến thuộc Ðạo đế, ở cõi Dục (cộng thành 12 kiến). Vậy,
41 - 12 = 29 hoặc, gọi đó là dục bộc lưu.
- Hữu bộc
lưu: Chỉ những phiền não ở hai cõi Sắc và Vô sắc, tự thể nó có
28, tức lấy 52 hoặc thuộc hữu lậu trên kia, trừ đi 24 kiến của cõi Sắc
và Vô sắc, còn lại 28 hoặc, gọi đó là hữu bộc lưu.
- Kiến bộc
lưu: Chỉ tất cả các tâm khởi lên bởi mê 5 bộ pháp (kiến đạo Khổ
đế, Tập đế, Diệt đế, Ðạo đế là 4, thêm tu đạo là 5) cả trong ba
cõi.
Thể của
nó có 36 kiến, và nó rất nhạy bén, nên từ trong các hoặc lậu tách
riêng nó ra thành một bộc lưu.
- Vô minh
bộc lưu: Tức 15 phiền não si khởi lên bởi mê 5 bộ pháp trong ba cõi,
tương đồng với vô minh.
3.Bốn
ách: Là dục ách, hữu ách, kiến ách, vô minh ách. Hay buộc loài hữu
tình vào dưới ách các sự khổ. Tự thể của nó cũng giống như bốn bộc
lưu nói trên.
4.Bốn
thủ: Dục thủ, ngã ngữ thủ, giới cấm thủ, kiến thủ.
a. Dục
thủ: Tham dục thủ trước đối với 5 trần sắc, thanh, hương, vị, xúc
và nó là phiền não thuộc cõi Dục.Tự thể nó có 34 thứ, tức là 24 căn
bản phiền não thuộc cõi Dục, cộng thêm mười triền là vô tàm, vô
quý..., thành ra 34. 24 căn bản phiền não đây là trong 5 bộ pháp đều có
tham, sân, si, mạn nhân thành 20, cộng thêm 4 phiền não nghi vì mê bốn đế,
thành 34.
b. Ngã ngữ
thủ: Chỉ cho căn bản hoặc của hai cõi trên. Tự thể nó có 38, tức
là tham, si, mạn trong 5 bộ pháp của hai cõi trên, nhân thành 30. Cộng thêm
8 phiền não nghi bởi mê bốn đế ở hai cõi trên thành 38. Ngã ngữ chỉ nội
thân. Các phiền não của hai cõi trên phát sinh không phải duyên theo ngoại
cảnh mà là duyên theo nội thân, nhưng nội thân vốn không có thật ngã,
chỉ có ngã trên danh ngôn. Chấp thủ cái ngã danh ngôn đó gọi là ngã ngữ
thủ.
c. Giới
cấm thủ: Là thứ phiền não có ở cả ba cõi. Tự thể nó có 6, tức
giới cấm thủ trong Khổ đế và Ðạo đế ở cả ba cõi. Nhưng vì sao lại
lập riêng thứ này? Vì giới cấm thủ có nghĩa là phi đạo mà chấp là
đạo, rất trở ngại cho thánh đạo, lại làm cho kẽ tại gia và xuất gia
đều bị lầm gạt.
d. Kiến
thủ: Tự thể nó là 30 kiến, tức lấy 36 kiến của ba cõi trừ đi 6
giới cấm thủ nơi Khổ đế và Ðạo đế của ba cõi.
5.
Năm thuận hạ phần kết:Là tham, sân, thân kiến, giới cấm thủ, nghi.
- Tham:
Chỉ tâm tham ái ở cõi Dục. Tự thể nó có 5, tức phiền não tham trong 5
bộ pháp của cõi Dục.
- Sân: Tự thể nó có 5 tức 5 phiền não sân trong 5 bộ pháp thuộc cõi Dục.
- Thân kiến: Tự thể nó có 3, tức thân kiến được đoạn trừ khi thấy
Khổ đế của ba cõi.
- Giới cấm thủ: Tự thể nó là 6 giới ở ba cõi được đoạn trừ khi
thấy Khổ đế và Ðạo đế của ba cõi.
- Nghi: Tự thể nó có 11, chỉ cho 11 nghi ở ba cõi, được đoạn trừ khi
thấy lý Tứ đế.
- Kiết: Là phiền não, 5 thứ này gọi là thuận hạ phần vì hai lẽ:
a. Hạ là
chỉ cõi Dục vì ở dưới hai cõi Sắc, Vô sắc, mà dục là một phần
trong ba cõi, nên gọi là hạ phần. 5 thứ này có tánh thuận hợp lôi kéo
chúng sanh vào trong cõi Dục, nếu có dứt trừ tham sân và được sanh cõi
Sắc, thì ba thứ thân kiến, giới cấm thủ, nghi vẫn lôi kéo phải sanh lại
cõi Dục. Ví như kẻ bị nhốt ngục, trốn thoát khỏi hai người giữ ngục
vòng trong, lại bị ba kẻ tuần phòng vòng ngoài bắt đem giam lại.
b. 5 thứ này
khởi lên và được đoạn trừ do hàng hạ nhân là kẻ phàm phu dị sanh
và Dự lưu, Nhất lai.
6.
Năm thuận thượng phần kết: Là sắc tham, vô sắc tham, trạo cử, mạn,
vô minh.
a. Sắc
tham: Là tham ái về cõi Sắc, tự thể nó chỉ có một, đó là lòng
tham ái cõi Sắc, được đoạn trừ khi tu Tứ đế.
b. Vô sắc
tham:Là lòng tham ái về cõi Vô sắc, tự thể nó cũng chỉ có một như
trên.
c. Trạo
cử:Chỉ cho chi mạt phiền não thuộc cõi Sắc và Vô sắc, tự thể nó
có hai, tức hai trạo cử của hai cõi trên, được đoạn trừ khi tu Tứ đế.
d. Mạn: Chỉ
cho phiền não của hai cõi trên, tức hai mạn của hai cõi trên, chỉ nhờ
tu đạo mới dứt trừ.
đ. Vô
minh: Chỉ phiền não si của hai cõi trên.
Thuận
thượng phần kết cũng vì do hai lẽ:
a. Hai cõi Sắc,
Vô sắc ở trên và một phần trong ba cõi nên gọi là thượng phần. 5 thứ
phiền não nầy theo cõi trên, buộc chúng sanh sanh vào hai cõi trên, chứ
không làm chúng sanh sanh xuống cõi Dục, cũng không làm cho được giải thoát
khỏi ba cõi.
b. Năm thứ
này được khởi lên và đoạn trừ do hàng thượng nhân, tức hàng Thánh
giả Bất hoàn, chứ không phải hàng phàm phu, Dự lưu, Nhất lai, vì hai bậc
này còn phải sanh lại xuống cõi Dục. Vì hai lẽ đó mà gọi là thượng
thuận phần kết.
7.
Chín kết: Ðó là ái, nhuế, mạn, vô minh, kiến, thủ, nghi, tật, xan.
Vì nó hay ràng buộc chúng sanh dính liền với sự khổ ở cõi Dục, khó
lìa ra được, nên gọi là kiết. Trong đây, kiến kiết chỉ cho thân
kiến, biên kiến, tà kiến; thủ kiết chỉ cho kiến thủ, giới cấm
thủ. Hai thủ này là năng chấp thủ, còn ba kiến kia là bị chấp thủ. Do
đó, 5 ác kiến lại chia làm hai kiến kiết và thủ kiết.
Hỏi:
Trong các tùy phiền não, tại sao chỉ lập xan và tật làm kiết?
Ðáp:
Vì xan và tật có tánh cách quá xấu sau đây:
1. Thường
hiện hành.
2. Làm nguyên nhân cho nghèo hèn (Xan làm nguyên nhân cho nghèo, tật làm
nguyên nhân cho hèn).
3. Khắp làm tỏ rõ tùy hoặc, tức chính tật tương ưng với ưu làm cho
tùy hoặc "lo lắng" (thích) tỏ rõ cùng khắp; xan tương ưng với hỷ
làm cho tùy hoặc "hân hoan" tỏ rõ cùng khắp.
4. Làm não loạn hai chúng tại gia và xuất gia.Tại gia bị xan tật tài sản
làm não loạn; xuất gia bị xan tật giáo pháp làm não loạn.
5. Làm não loạn đức thù thắng của hàng nhân, thiên.
6.Làm não loạn chúng bạn mình và chúng bạn người; xan làm não loạn
chúng bạn mình; tật làm não lạon chúng bạn người.
8.
Mười triền: Là mười thứ trói buộc chúng sanh vào ngục sanh tử, và
làm nhân khởi lên các hành động ác, do đó khiến chúng sanh bị trói buộc
vào đường ác, nên gọi là triền. Nhưng nói rộng thì tất cả phiền
não, dù là căn bản hay chi mạt, đều gọi là triền được cả. Nên cũng
có chỗ gọi tham, sân, si là 3 triền.
10
triền là vô tàm, vô quý, tật, xan, hối, miên, trạo cử, hôn trầm, phẫn,
phú. Nó là chi mạt hoặc từ căn bản hoặc phát sanh; như vô tàm, xan, trạo
cử là từ tham sanh; vô quý, tùy miên, hôn trầm là từ vô minh sanh, tật
và phẫn từ sân sanh; hối là ố tác từ nghi sanh; phú từ si hoăc từ cả
tham và nghi sanh.
9.
Sáu cấu: Cấu là nhơ bẩn cũng là tên khác của phiền não. Sáu cấu
là não, hại, hận, siểm, cuống, kiêu. Cuống và kiêu từ tham sanh, hại
và hận từ sân sanh. Não từ kiến thủ sanh. Siểm từ các kiến sanh.
10.
Năm cái: Với các phiền não và tùy phiền não nói trên, có một lúc Phật
gọi theo cách khác là cái. Gồm có 5 thứ: tham dục, sân nhuế, hôn
miên, trạo hối, nghi. Năm thứ này thường che lấp tâm tánh, ngăn che Thánh
đạo, chướng ngại định huệ, không phát sanh được các thiện pháp,
không khai mở được thiện tâm thanh tịnh, nên gọi là cái. Nó chỉ
có ở cõi Dục, không có ở hai cõi trên vì nó thuần là phiền não bất
thiện, mà hai cõi trên thì không có bất thiện. Mặc dù có chỗ nói tự
thể của ba thứ hôn trầm, trạo cử, nghi thông cả ba cõi, song ở đây
nói nó chỉ có ở cõi Dục, vì nó có hai thứ tùy miên đi kèm với hôn trầm,
hối đi kèm với trạo cử, nên nó trở nên mạnh đủ khả năng che lấp
(cái) và chỉ có ở cõi Dục. Bởi với tham dục thì tu bất tịnh quán đối
trị, với sân nhuế thì tu từ bi quán đối trị, với nghi thì tu nhân
duyên quán đối trị, hôn trầm vì có tánh cách hôn ám uể oải nên tu
quang minh tưởng để đối trị, trạo hối vì có tánh không tịch tịnh
nên tu xa-ma-tha (chỉ) để đối trị.
Tóm
lại, 4 lậu, 4 bộc lưu, 4 ách v.v...tuy có nhiều thứ nhưng cũng đều từ
căn bản hoặc hoặc chi mạt hoặc tùy nghi chia ra hay hợp lại với những
tên gọi sai khác theo tánh chất của chúng, chứ không phải chúng tách
ngoài căn bản hoặc và chi mạt hoặc mà có được.
Những
phiền não trên thường trói buộc chúng sanh trong ba cõi suốt qua ba đời
quá khứ, hiện tại, vị lai.
Hỏi:
Nói phiền não trói buộc chúng sanh trong ba đời như vậy thì quá khứ và
vị lai thật có như hiện tại hay không thật có mà có thể có sự trói
buộc đó? Nếu pháp quá khứ vị lai là thật có, tất nó có mãi mãi, vậy
nên nói nó là thường? Nếu thật là không thì đâu có thể có việc trói
buộc và bị trói buộc cùng sự thoát ly trói buộc? Nói cách khác nếu
pháp không thật có thì không có luân hồi và sự giải thoát luân hồi?.
Ðáp:
Các pháp trong ba đời thật có hay thật không đã trở thành vấn đề
tranh luận gay gắt giữa các bộ phái. Nổi bậc nhất là Hữu bộ và Kinh
bộ. Hữu bộ chủ trương "ba đời thật có", "pháp thể hằng
có" và trưng dẫn kinh giáo và chánh lý để làm chứng. Ngược lại
Kinh bộ chủ trương "Quá, vị không thật thể, hiện tại thật
có" cũng trưng dẫn kinh giáo và chánh lý để làm chứng. Hữu bộ đã
có những dẫn chứng sau đây:
Dẫn
chứng 1: Kinh Tạp A-hàm cuốn 3 nói: "Bấy giờ Thế Tôn cáo chư
Tỷ-kheo: Sắc quá khứ, vị lai còn vô thường, huống là sắc hiện tại?
Thánh đệ tử đa văn, quán sát như vậy xong, không tiếc nuối sắc quá khứ,
không mong cầu sắc vị lai, đối với sắc hiện tại thì nhàm chán xa
lìa, muốn dứt trừ để tịch tịnh. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại
như vậy". Và luận Chánh lý đã giải rõ câu này như sau: "Ðức
Thế Tôn bảo sắc quá khứ, vị lai còn vô thường như vậy, huống gì sức
hiện tại, nếu quán sát rõ được vô thường như vậy, thời Thánh đệ
tử đa văn đối sắc quá khứ mới siêng tu nhàm chán dứt trừ tâm tiếc
nuối, đối với sắc vị lai mới siêng tu để dứt trừ tâm mong cầu, và
đối với sắc hiện tại thì siêng tu để nhàm chán xa lìa. Nếu sắc quá
khứ không thật có thì Thánh đệ tử đa văn không nên đối với sắc quá
khứ siêng tu yếm xả, nhưng vì sắc quá khứ là thật có, Thánh đệ tử
đa văn mới nên siêng tu yếm xả, nếu sắc vị lai không thật có, thì
Thánh đệ tử đa văn không nên siêng tu để dứt tâm mong cầu đối với
sắc vị lai; nhưng vì sắc vị lai là thật có, Thánh đệ tử đa văn mới
nên siêng tu để dứt tâm mong cầu đối với sắc vị lai". Do đó biết
sắc quá khứ vị lai là không thật có.
Dẫn
chứng 2: "Vì hai duyên sanh". Khi tâm thức sanh khởi phải dựa
vào hai duyên mới sanh khởi được như kinh Tạp A-hàm cuốn 8 nói: "Thế
Tôn cáo Tỷ-kheo: Có hai nhân duyên sanh thức, những gì là hai? Ðó là mắt
và sắc, tai và tiếng, mũi và hương, lưỡi và vị, thân và xúc, ý và
pháp". Nếu giả sử quá khứ vị lai không thật có thì ý thức duyên
quá khứ vị lai thiếu mất hai trợ duyên, có nghĩa là ý căn làm chỗ dựa
cho ý thức vốn ở quá khứ, nếu quá khứ không có, tự nhiên thiếu mất
cái trợ duyên của ý căn; còn pháp trần là đối tượng của ý thức nó
vốn thông cả quá khứ, vị lai,nếu quá khứ vị lai không có, tự nhiên
ý thức thiếu mất cái trợ duyên của pháp trần. Hai duyên đều thiếu,
thời ý thức nương ý căn duyên pháp trần không sanh khởi được. Nhưng sự
thật không như vậy, cho nên biết quá khứ vị lai không thật có.
Dẫn
chứng 3: "Vì thức có cảnh". Khi sự nhận thức sanh khởi,
nhất định phải có cảnh làm đối tượng. Trước thấy có cảnh sau thức
mới sanh, như đức Thế Tôn nói: "Mỗi thức nhận biết mỗi cảnh tượng,
gọi là thức thủ uẩn". Cảnh tượng được biết đó là gì? Ðó là
sắc cho đến pháp. Chứ đức Thế Tôn không nói chỉ có thức mà không
có cảnh.Cho nên, nên biết nhất định có cảnh mới có thức duyên cảnh
quá khứ, vị lai, nếu cảnh quá khứ, vị lai thật không có, thời thức
không có đối tượng để duyên. Ðối tượng được duyên đã không có
thì thức cũng không có. Còn như đã thừa nhận thức là có thật thì
đương nhiên phải thừa nhận thật có cảnh quá khứ, vị lai, chứ không
thể mặt này thì phủ nhận sự thật có cảnh quá khứ, vị lai, mặt
khác lại khẳng định có thức duyên cảnh quá khứ, vị lai.
Dẫn
chứng 4: "Vì nghiệp có quả báo". Ta tạo nghiệp lành dữ,
nghiệp đó đã lặng về quá khứ, chờ gặp duyên thì chiêu cảm quả báo
vui khổ. Do nghiệp có ở quá khứ đó làm chứng để biết quá khứ thật
có và do có quả báo ở vị lai làm chứng để biết vị lai thật có. Giả
sử hai đời không có, nên nói không có quá khứ, vị lai, thời thật thể
hai nghiệp thiện ác cũng không, quả báo vui khổ cũng chẳng có. Nhưng thật
tế nghiệp quá khứ đã có quả báo vị lai, thế thời quá khứ, vị lai
nhất định là thật có.
Bốn
dẫn chứng trên để chứng minh cho chủ trương ba đời thật có. Hai cái
đầu là giáo chứng, hai cái sau là lý chứng. Do giáo chứng lý chứng chứng
minh tôn chỉ: "Tất cả thật có".
Hỏi:
Bản thể các pháp đã thật có thì trước sau đồng nhất, trước sau đồng
nhất thì làm sao có pháp gọi là quá khứ, pháp gọi là hiện tại, pháp gọi
là tương lai?
Ðáp:
Các học giả Hữu bộ có bốn cách giải thích vấn đề này, đó là do loại
sai khác,do tướng sai khác, do vị sai khác, do chờ duyên sai khác.
1.Tôn giả
Pháp Cứu chủ trương "do loại sai khác" nên có ba đời: Theo ông tự
bản thể các pháp có ba loại sai khác nên có ba đời khác nhau. Như khi từ
vị lai đi đến hiện tại là bỏ loại vị lai để đắc loại hiện tại,
như khi từ hiện tại trôi về quá khứ là bỏ loại hiện tại để đắc
loại quá khứ. Các pháp họat động trong thời gian ba đời là do loại chứ
không phải do thể nó có sai khác, ví dụ như phá loại kim khí này để làm
loại kim khí khác. Về hình thái tuy thay đổi khác nhau, nhưng thể chất vàng
trước sau vẫn là vàng, không hề thay đổi. Luận chủ Thế Thân không nhận
quan điểm này, vì theo quan điểm này "Thể tánh là thường, nhưng dụng
thì chuyển biến" như vậy không khác với Số luận chủ trương ba đức
là tát-đỏa, lạt-xà, đáp-ma, thường nhưng chuyển biến thành 25 đế.
2. Tôn giả
Diệu Âm chủ trương "do tướng sai khác" nên có ba đời khác nhau.
Tướng là tướng trạng. Như các pháp ở quá khứ, tuy không rời tướng
hiện tại, vị lai, song vì tướng quá khứ rõ rệt hơn nên chỉ gọi là
pháp quá khứ. Các pháp khi ở hiện tại là hiệp cùng với tướng hiện tại,
các pháp khi ở vị lai là hiệp cùng với tướng vị lai, khi ở quá khứ cũng
giống như thế, nên chỉ có thể nói các pháp có ba đời là do tướng nó
không đồng nhau, chứ không phải do thể nó có sai khác.
Luận chủ
Thế Thân cũng không nhận quan điểm này vì ngay nơi một tướng này vẫn
có đủ hai tướng kia. Nơi tướng quá khứ vẫn có tướng hiện tại, vị
lai. Nơi tướng hiện tại hay vị lai vẫn có đủ hai tướng kia, như vậy
tướng ba đời rất lộn xộn.
3. Tôn giả
Thế Hữu chủ trương: "do vị sai khác" nên có ba đời khác nhau.
Ý rằng sở dĩ pháp thể thật có thường hằng nhưng có ba đời là do vị
trí khởi tác dụng của nó. Khi ở vị trí chưa khởi tác dụng thì đó
là vị lai; khi ở vị trí đang khởi tác dụng thì đó là hiện tại; và
khi ở vị trí tác dụng qua rồi, thì đó là quá khứ. Ví dụ đồng bạc
khi đặt nó vào vị trí một, nó thành một; khi đặt nó vào vị trí trăm,
nó thành trăm; đặt vào vị trí ngàn nó thành ngàn. Một, trăm, ngàn khác
nhau, nhưng đồng bạc trước sau chỉ là đồng bạc. Luận chủ Thế Thân
tán đồng quan điểm này.
4. Tôn giả
Giác Thiên chủ trương "do đối đãi sai khác" nên có ba đời khác
nhau. Như từ trước nhìn tới sau, thì trước là quá khứ, như sau nhìn lại
trước thì sau là vị lai; như đứng ở giữa nhìn tới sau, nhìn lại trước,
ở giữa gọi là hiện tại. Ví dụ một người đàn bà đối trước cha mẹ
thì trở thành con gái, đối sau con cái thì trở thành bà mẹ; mình đối với
mình thì là đàn bà. Chủ trương này cũng bị lỗi lộn xộn về ba đời,
luận chủ Thế Thân không chấp nhận.
Tóm
lại, đối với bốn chủ trương nói trên, luận chủ tạm thời đứng trên
lập trường của Hữu bộ mà chấp nhận chủ trương thứ ba của Tôn giả
Thế Hữu là đúng hơn ba chủ trương kia, nhưng thật tế luận chủ đồng
tình với Kinh bộ chủ trương"quá khứ vị lai không thật thể"
nên đã dẫn lý lẽ của Kinh bộ để bác lại quan điểm" do vị trí
tác dụng" của Thế Hữu như sau: Nói rằng do vị trí tác dụng mà
thành có ba đời, vậy do cái gì làm cho tác dụng đó thành ba đời? Nếu
do cái khác làm cho tác dụng đó thành ba đời, lại do cái khác nữa làm
cho cái khác đó thành ba đời, thì sẽ mãi vô cùng. Ðó là điều sai lầm.
Và nếu như Hữu bộ cho quá khứ, vị lai đều thật có như hiện tại,
như vậy chỉ đều gọi là hiện tại, chứ cần chi gọi quá khứ, vị
lai. Rốt cùng luận chủ Thế Thân không đồng tình với chủ trương
"Pháp thể hằng có, nhưng tánh nó vô thường" của Hữu bộ mà đồng
tình với chủ trương "quá,vị vô thể", của Kinh bộ.
Hỏi:
Kinh bộ chủ trương"quá, vị vô thể" thì làm sao cắt nghĩa việc
phiền não trói buộc, cảnh trần bị trói buộc và sự thoát ly trói buộc,
chứng giải thoát Niết-bàn?
Ðáp:
Theo tông nghĩa của Kinh bộ, dẫu quá, vị vô thể vẫn thành việc trói buộc,
bị trói buộc và thoát ly trói buộc. Khi phiền não được sanh trong quá khứ,
nó còn tồn tại ở hiện tại, thì nói là có phiền não trói buộc của
quá khứ. Phiền não ở vị lai được sanh ra từ phiền não hiện tại,
thì nói là có phiền não trói buộc của vị lai. Cảnh trần mà phiền não
duyên theo trong quá khứ và vị lai còn tồn tại ở hiện tại, thì nói là
có cảnh trần bị trói buộc cuả quá khứ và vị lai. Lại giả sử dứt
trừ được chủng tử phiền não của hiện tại, là cảnh trần quá khứ,
vị lai được thoát ly khỏi trói buộc. Phiền não hiện tại có quả và
nhân. Nếu dứt được quả phiền não hiện tại, tức là dứt được nhân
phiền não của quá khứ, nếu dứt được nhân phiền não của hiện tại,
tức là dứt được quả phiền não của vị lai. Như vậy dẫu quả vị thật
không có, nhưng vì nó đã từng có và sẽ có cho nên có việc trói buộc,
bị trói buộc và thoát ly trói buộc.
Ðoạn
II. SỰ DỨT TRỪ HOẶC
* TIẾT 1. NGUYÊN NHÂN DỨT TRỪ HOẶC
Căn
bản hoặc và chi mạt hoặc chung cục đều nằm trong hai loại: kiến hoặc
và tư hoặc. Có bốn nguyên nhân đoạn trừ hai hoặc này. Ðoạn trừ kiến
hoặc do ba nguyên nhân, đọan trừ tư hoặc do một nguyên nhân. Ba nguyên
nhân đoạn trừ kiến hoặc đó là:
a. Khắp biết
cảnh sở duyên mà đoạn.
b. Do năng duyên đoạn mà đoạn.
c. Do sở duyên đoạn mà đoạn.
Sở
dĩ do ba duyên sai khác như vậy vì, những hoặc do thấy lý Tứ đế mà
được đọan trừ, đều có hai loại:
1.
Nhân thấy lý Khổ đế và Tập đế mà đoạn trừ, có hai loại:
- Loại
duyên tự giới (là duyên Khổ, Tập đế của cõi Dục mà phát sanh).
- Loại duyên tha giới (là chỉ duyên hai cõi trên).
2.
Nhân thấy Diệt đế, Ðạo đế mà đoạn trừ. có hai lo?i:
- Loại
duyên vô lậu (tức duyên Diệt, Ðạo đế vô lậu)
- Loại duyên hữu lậu (tức duyên Khổ, Tập đế).
Hỏi:
Loại kiến hoặc do khắp biết các sở duyên mà đoạn là thế nào?
Ðáp:
Ví như nhân thấy lý Khổ đế, Tập đế, đoạn trừ loại hoặc duyên tự
giới. Không luận loại hoặc này ở cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc, đều thuộc
vào loại hoặc do khắp biết cảnh sở duyên mà đoạn trừ như:
Tụng
sớ nói: "Do thấy Khổ, Tập đế ở cõi Dục, khi trí nhẫn về Khổ,
Tập phát sinh, đã biết rõ Khổ, Tập nên biết rõ loại hoặc duyên Khổ,
Tập tự giới được đoạn trừ. Ðó là do khắp biết cảnh sở duyên
nên đoạn. Cảnh sở duyên đây là chỉ cho cảnh Khổ, Tập đế vậy".
Và không những loại hoặc duyên tự giới do khắp biết cảnh sở duyên khổ
tập mà được đoạn trừ. Tụng sớ còn nói: "Do thấy Diệt, Ðạo đế
đoạn lậu hoặc vô lậu duyên. Ðây là vì tà kiến, nghi, vô minh, duyên một
cách sai lầm về diệt đạo đế vô lậu mà phát sinh. Khi trí nhẫn về Diệt,
Ðạo đế phát sinh, biết rõ Diệt, Ðạo đế thì tà kiến, nghi, vô minh
kia đoạn từ. Do đó gọi là đoạn trừ kiến hoặc do khắp biết cảnh sở
duyên. Sở duyên đây chỉ cho diệt đạo đế vậy. Nói tóm lại, loại hoặc
do duyên một cách sai lầm về Khổ, Tập đế ở tự giới mà phát sinh
thì do khắp biết rõ chân lý Khổ, Tập đế mà đoạn trừ, loại hoặc do
duyên một cách sai lầm về Diệt, Ðạo đế thuộc cõi dưới mà phát
sinh, thì do khắp biết rõ chân lý Diệt Ðạo đế mà đoạn trừ. Ðó gọi
là do khắp biết cảnh sở duyên mà đoạn kiến hoặc.
Hỏi:
Loại kiến hoặc do năng duyên đoạn mà đoạn thế nào?
Ðáp:
Như lấy phiền não duyên tự giới mà duyên đến phiền não duyên tha giới,
thì phiền não duyên tha giới là cảnh sở duyên, phiền não duyên tự giới
là tâm thức năng duyên. Sở duyên được tồn tại nhờ năng duyên. Giả sử
phiền não năng duyên được đoạn trừ, thì những phiền não duyên tha giới
cũng được đoạn trừ theo. Ví như người nhờ cột trụ mà đứng được,
nếu cột trụ ngã thì người cũng ngã.
Hỏi:
Loại kiến hoặc do sở duyên đoạn mà đoạn là thế nào?
Ðáp:
Như muốn đoạn trừ loại kiến hoặc hữu duyên lậu, thì chỉ cần đoạn
trừ sở duyên của nó, tự nhiên nó (năng duyên) cũng bị đoạn trừ theo.
Sở duyên ở đây chỉ cho phiền não duyên Diệt, Ðạo đế vô lậu, năng
duyên ở đây chỉ cho phiền não duyên Khổ, Tập đế hữu lậu. Giả sử
cảnh sở duyên là những hoặc duyên Diệt, Ðạo vô lậu bị đoạn trừ,
thì năng duyên là những hoặc duyên Khổ, Tập đế hữu lậu cũng bị đoạn
trừ theo. Ví như người nhờ chống gậy mà đi được, nếu bỏ gậy thì
người cũng ngã theo.
Tư
hoặc chỉ có một nguyên nhân mà đoạn trừ như thế nào? Ðó là nhân đối
trị đoạn. Trong 9 địa, mỗi địa có 9 phẩm tư hoặc, từ thượng phẩm
cho đến hạ hạ phẩm. Muốn đối trị (đoạn trừ) phiền não thượng
thượng phẩm (thô) thì dùng lối tu đạo hạ hạ phẩm (non yếu), cho đến
muốn đối trị phiền não hạ hạ phẩm (tế) thì dùng lối tu đạo thượng
thượng phẩm (sáng, mạnh). Hoặc do thô và tế chia ra thượng, trung, hạ
thành 9 phẩm. Tuy nhiên, nguyên nhân đối trị đoạn này không chỉ
giới hạn đối với tư hoặc mà cả với kiến hoặc. Nhưng kiến hoặc đã
có ba nguyên nhân dủ để đoạn trừ, Không phải cần đến nguyên nhân đối
trị đoạn này làm chi.
ÐỒ
BIỂU ÐOẠN HOẶC
ĐOẠN HOẶC
KIẾN TƯ |
ĐOẠN KIẾN
HOẶC |
Do thấy Khổ để đoạn trừ |
Duyên tự
giới |
Biến trí
đoạn |
Duyên tha giới |
Năng duyên
đoạn |
Do thấy Tập để đoạn trừ |
Duyên tự
giới |
Biến trí
đoạn |
Duyên tha giới |
Năng duyên
đoạn |
Do thấy Diệt để đoạn trừ |
Duyên vô lậu |
Biến trí
đoạn |
Duyên hữu
lậu |
Sở duyên
đoạn |
Do thấy Đạo để đoạn trừ |
Duyên vô lậu |
Biến trí
đoạn |
Duyên hữu
lậu |
Sở duyên
đoạn |
ĐOẠN TƯ
HOẶC: Hoặc do Tu đạo Đoạn |
|
Đối trị đoạn |
* TIẾT 2: BỐN THỨ ÐỐI
TRỊ
Trên
nói do đối trị đoạn đoạn trừ tư hoặc. Vậy có mấy thứ đối trị?
Có 4 thứ:
1.Yểm hoạn
đối trị: Tức là sanh tâm nhàm chán muốn xa rời hoặc, nghiệp, khổ
nên khởi sự tu tập để xa lìa.
2. Ðoạn
đối trị: Tức dùng vô gián đạo chánh thức đoạn trừ phiền não.
3. Trì đối
trị: Tức sau khi đã chính thức đã đoạn trừ hết phiền não, chứng
đắc trạch diệt, giữ vững trạch diệt đã chứng đắc đó. Ðây chính
là đã giải thoát đạo.
4.Viễn
phần đối trị: Là sau khi được giải thoát đạo, còn làm cho rời xa
hơn nữa đối với các phiền não do vô gián đạo đã đoạn trừ trước
đó.
Tóm
lại, do bốn đạo đối trị hết các tư hoặc và chứng đắc trạch diệt.
Bốn đạo đó là gia hạnh đạo (yểm hoạn đối trị), vô gián đạo (đoạn
đối trị), giải thoát đạo (trì đối trị) và thắng tấn đạo (viễn
phần).
*
TIẾT 3: ÐOẠN HOẶC CHỨNG TRẠCH DIỆT
Trong
lúc tu vô gián đạo, phát khởi đoạn đối trị để chính thức đoạn trừ
phiền não, được gọi "các hoặc không còn tái đoạn nữa", kết
quả là chứng được trạch diệt, tức là ly hệ quả (lìa hết mọi
buộc ràng) mà bản thể là thường trụ vô vi, không có cao thấp, hơn kém.
Tuy nhiên, người tu khi vào thắng tấn đạo vẫn có khả năng đoạn trừ
các hoặc đã đoạn trừ trước, và vẫn tiếp tục chứng đắc quả ly hệ,
cho nên được chia ra bậc ly hệ qua sáu thời.
1. Khi khởi
lên giải thoát.
2. Khi được quả Dự lưu.
3. Khi được quả Nhất lai.
4. Khi được quả Bất lai
5. Khi được quả A-la-hán
6. Khi luyện căn (tức từ độn căn A-la-hán luyện tập để chuyển thành
lợi căn A-la-hán).
Trong
thời này, quả ly hệ do đoạn trừ các hoặc, tùy theo chỗ tu đạo Thắng
tấn mà lại tiếp khởi sự chứng đắc cao hơn. Nhưng các quả ly hệ,
có thứ trải đủ sáu thời, có thứ không đủ sáu thời. Như quả ly hệ
do đoạn trừ kiến hoặc của Dục giới phải đủ sáu thời mới được
chứng được; quả ly hệ do đoạn trừ phẩm thứ chín tư hoặc của Dục
giới, chỉ do ba thời chứng đắc, đó là khi đắc quả Bất hoàn, khi đắc
quả A-la-hán thành lợi căn A-la-hán. Ngoài ra chiếu theo đây mà rõ.
Hỏi:
Thường thì phải đoạn trừ hết kiến hoặc, hay dứt hết sáu phiền não
là nghi và năm kiến, thì mới chứng quả Dự lưu. Sao có nhiều nơi, như
kinh Tạp A-hàm 29 nói, dứt ba kiết sử thân kiến, giới cấm
thủ và nghi, chứng quả Dự lưu?
Ðáp:
Nên biết nghi và năm kiến đều thuộc căn bản phiền não, trong đó biên
kiến từ thân kiến mà có; kiến thủ từ thân, biên, giới cấm thủ mà
có; tà kiến từ nghi mà có. Vậy, đoạn trừ thân, giới, nghi là đoạn trừ
nguồn gốc của ba thứ kia, nên cũng tức là đoạn trừ tất cả.
* TIẾT 4: CHÍN ÐOẠN BIẾN TRI
Biến
tri nghĩa là biết cùng khắp. Có hai thứ là Trí biến tri và Ðoạn
biến tri . Trí vô lậu cùng khắp lý Tứ đế gọi là Trí biến tri, kết
quả đoạn trừ hết các phiền não bởi kiến đạo và tu đạo gọi là
Ðoạn biến tri. Nhưng đây từ Ðoạn biến tri lập ra chín thứ gọi
là Chín biến tri. Biến tri là trí, nhưng đây không gọi trí, là biến tri
mà chủ yếu gọi đoạn là biến tri, vì đoạn là quả (trạch diệt, ly hệ)
mà trí là nhân. Nhân trí biết cùng khắp lý Tứ đế mà phiền não được
đoạn trừ, được thành ly hệ quả, nơi quả đã hàm có nhân, nên gọi
là đoạn biến tri. Chín biến tri là kết quả đoạn trừ những phiền não
do kiến đạo sở đoạn trong ba cõi, lập sáu biến tri; kết quả đoạn trừ
những phiền não do tu đạo sở đoạn trong ba cõi, lập ba kiến tri. Cọng
cả hai kết qủa trên thành chín. Nói rõ hơn, đoạn kiến hoặc của ba cõi
lập sáu biến tri là đoạn kiến hoặc thuộc Khổ, Tập đế của Dục giới
lập một biến tri; đoạn kiến hoặc thuộc Diệt đế của Dục giới lập
một biến tri; đoạn kiến hoặc thuộc Ðạo đế của cõi Dục lập một
biến tri; đoạn kiến hoặc thuộc Khổ, Tập đế của hai cõi Sắc và Vô
sắc lập một biến tri; đoạn kiến hoặc thuộc Diệt đế của hai cõi Sắc
và Vô sắc lập một biến tri; đoạn kiến hoặc thuộc Ðạo đế của hai
cõi Sắc và Vô sắc lập một biến tri. Cọng tất cả kiến hoặc trong ba
cõi được đoạn trừ có sáu biến tri. Ðoạn tư hoặc trong ba cõi lập ra
ba biến tri là: đoạn hết tư hoặc thuộc cõi Dục lập một biến tri, đó
là sự biến tri của sự dứt hết năm thuận hạ phần kiết; đoạn
hết tư hoặc thuộc cõi Sắc và Vô sắc lập một biến tri, đó là biến
tri của sự dứt hết kiết sử sắc ái; đoạn hết tư hoặc thuộc
cõi Vô sắc lập một biến tri, đó là biến tri của sự đoạn hết
vĩnh viễn mọi kiết sử.
Xem
đồ biểu dưới đây:
BIỂU
ÐỒ 9 ÐOẠN BIẾN TRI
9 BIẾN TRI |
1. Do đoạn
hết KIẾN HOẶC thuộc Khổ, Tập đế
2. Do đoạn hết KIẾN HOẶC thuộc Diệt đế
3. Do đoạn hết KIẾN HOẶC thuộc Đạo đế |
Cõi Dục |
Kiến đoạn |
Đoạn các
hoặc ở ba cõi |
4. Do đoạn
hết KIẾN HOẶC thuộc Khổ, Tập đế
5. Do đoạn hết KIẾN HOẶC thuộc Diệt đế
6. Do đoạn hết KIẾN HOẶC thuộc Đạo đế |
Cõi Sắc
và Vô Sắc |
7. Do đoạn
hết năm thuận hạ phần kiết của cõi Dục
8. Do trừ hết kiết sử sắc ái của cõi Sắc
9. Do sự trừ hết mọi kiết sử ở cõi Vô sắc |
|
Tu đoạn |
Mục
lục | 1a | 1b | 2 | 3 | 4a | 4b | 5a | 5b |
6a | 6b | 7 |
8