Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

 

...... ... ..  . ..  .  .
CẨM NANG VIẾT
KHẢO LUẬN, LUẬN VĂN VÀ LUẬN ÁN

CHƯƠNG VII
PHƯƠNG PHÁP TRÍCH DẪN
(THE USE OF QUOTATIONS)
 
I. DẪN NHẬP

Trong suốt quá trình nghiên cứu, nhất là trong lúc ghi chép tài liệu, nghiên cứu sinh thường chép các đoạn trích dẫn trong văn bản gốc với dụng ý rằng các ghi chép này sẽ giúp cho việc viết bản thảo tốt hơn. Mặc dù có nhiều loại khác nhau nhưng trên căn bản các sáng tác có thể phân thành hai loại chính, đó là tác phẩm nghiên cứu học đườngtác phẩm thuộc dạng tư tưởng. Đối với dạng nghiên cứu học đường (chẳng hạn như luận văn, luận án hay sách nghiên cứu) một tác phẩm được xem là tiêu chuẩn là tác phẩm chứa đựng nhiều thông tin mới, với nhiều chú thích, minh hoạ, phụ chú, bảng sách dẫn mục từ chi tiết và nhiều sách tham khảo. Đối với sách tư tưởng, một tác phẩm hay không nhất thiết là tác phẩm có nhiều trích dẫn mà là tác phẩm có nhiều đóng góp về phương diện tư tưởng, cách nhìn vấn đề một cách mới mẻ, nhất là có nhiều giá trị tư duy và ứng dựng. Trích dẫn quá nhiều trong tác phẩm thuộc dạng này sẽ làm cho người đọc có cảm giác rằng tác phẩm này chỉ là tập hợp những điều do người khác nói mà thôi. Do đó, tuỳ theo loại hình, bản chất nghiên cứu và đối tượng độc giả mà nhà nghiên cứu nên trích dẫn nhiều hay ít để minh họa một vấn đề nào đó trong bài khảo luận, luận văn, luận án hay sách tư tưởng của mình. Dù là sách nghiên cứu học đường hay sách tư tưởng, nhà nghiên cứu nên phát triển càng nhiều càng tốt các luận điểm, phương pháp tiếp cận, các góc độ và sáng tạo của riêng mình, để gây sự chú ý ở người đọc và tạo tính thuyết phục của văn bản. Và lúc ấy, các trích dẫn, nếu có, chỉ là công cụ làm sáng tỏ hay tăng sức mạnh của những luận điểm mà thôi.

II. PHÂN LOẠI TRÍCH DẪN

Có hai loại trích dẫn chính, đó là, trích dẫn trực tiếp và trích dẫn gián tiếp. Ngoài ra, còn có các trích dẫn đặc biệt như trích dẫn trong đoạn trích dẫn và trích dẫn thơ ca.[1]

1. Trích Dẫn Trực Tiếp

Là cách trích dẫn một đoạn nguyên tác của tài liệu tham khảo vào trong văn bản nghiên cứu, không có sửa chữa, thêm thắt hay tỉnh lược nào cả. Cách trích dẫn này mang tính thẩm quyền cao nhưng không nên lạm dụng và chỉ trích dẫn khi nào thật cần thiết.

2. Trích Dẫn Gián Tiếp: Gồm có hai loại.[2]

a) Trích lại một đoạn trích dẫn trong một tác phẩm nào đó.

b) Trích dẫn ý tứ hay tư tưởng của tài liệu tham khảo bằng ngôn ngữ và văn phong của người cầm bút.

Trong trường hợp này, nhà nghiên cứu nên thận trọng về tính thẩm quyền của đoạn trích dẫn. Thái độ tin mù quáng vào uy danh của các tác giả nổi tiếng mà không kiểm tra lại xuất xứ của nó trước khi sử dụng sẽ có thể dẫn đến tình trạng một trích dẫn không có cơ sở hay bịa đặt, điều cấm kỵ trong nghiên cứu và làm giảm uy tín của nhà nghiên cứu.

Trong trường hợp thứ hai, cách trích dẫn gián tiếp thực ra chỉ là sự diễn đạt, trình bày lại hay phát triển ý tưởng của đoạn nguyên tác theo văn phong của người viết, song song với việc cung cấp cho người đọc biết nguồn gốc của đoạn văn diễn giải đó. Đây là cách viết được ưa chuộng của đại đa số các học giả tầm vóc.

III. CÁC TRƯỜNG HỢP TRÍCH DẪN TRỰC TIẾP

1. Các trích dẫn trực tiếp chỉ nên được sử dụng khi từ ngữ nguyên gốc của tài liệu tham khảo quá hàm súc và cô đọng nhiều ý tưởng và nhà nghiên cứu không thể viết hay hơn những lời lẽ đó. Trong trường này, lời lẽ của đoạn trích dẫn sẽ làm tăng thêm sức mạnh cho văn bản của bài khảo luận hay luận án.

2. Các trích dẫn trực tiếp chỉ nên được sử dụng cho tài liệu của các luận điểm chính, đặc biệt khi cước chú vẫn chưa đủ sức thuyết phục người đọc. Trong trường hợp này, đoạn trích dẫn nên được hạn chế về chiều dài và chỉ bao gồm những gì thật sự cần thiết và đi vào trọng tâm vấn đề mà thôi.

3. Các trích dẫn trực tiếp được sử dụng khi nhà nghiên cứu muốn phê bình, đánh giá, nhận định, phân tích các ý tưởûng của các tác giả khác.

4. Các trích dẫn trực tiếp được sử dụng cho các công thức toán học, khoa học, các văn bản luật.

5. Nói chung, đối với đoạïn văn nào mà sự thay đổi hay biến dạng sẽ dẫn tới hiểu sai hoặc giải thích sai vấn đề thì nhà nghiên cứu nên sử dụng trích dẫn trực tiếp.

IV. CÁC TIÊU CHÍ CHUNG VỀ TRÍCH DẪN TRỰC TIẾP

Mặc dù quyết định về trích dẫn tùy thuộc vào vấn đề được nghiên cứu và phán quyết của nhà nghiên cứu, có một số tiêu chí mà nhà nghiên cứu cần phải tuân thủ để có được các trích dẫn có giá trị cho văn bản nghiên cứu của mình.

1.Áp dụng cho lời lẽ chính xác của một tác giả hay nguyên văn của một ấn bản chính phủ. ‘Lời lẽ chính xác’ có nghĩa là sử dụng cùng từ ngữ, cùng cách chấm câu, cùng cách viết chánh tả, cùng phép viết hoa, viết nghiêng…Nghĩa là trích lại nguyên xi, không có thêm thắt, làm biến dạng hay sửa chữa văn bản gốc.

2. Áp dụng cho các đoạn nguyên tác dù có những sai suất về chính tả, văn phạm hay cách dùng từ. Trong trường hợp này, bạn không được tự ý sửa chữa mà không cho tác giả và độc giả biết. Có hai cách lưu ý cho tác giả và độc giả biết về các sai suất đó là:

— Thêm chữ sic trong ngoặc vuông [sic] ngay sau từ sai chính tả / từ viết sai, hay ngay sau thuật ngữ có vấn đề hoặc ngay sau câu sai văn phạm.

— Thêm phần hiệu đính hay phần thêm vào (interpolation) trong ngoặc vuông ngay sau từ, cụm từ hay câu có vấn đề hay cần làm rõ nghĩa thêm.

Ví dụ

ĐHọ của Đức Phật là Siddhattha(Skt., Siddhrtha) [sic]. Tên của Ngài là Gotama [sic].

ĐHọ của Đức Phật là Siddhrtha [Gotama]. Tên của Ngài là Gotama [Siddhattha /Siddhrtha].

3. Đối với một đoạn nguyên tác quá dài, nhà nghiên cứu có thể trích dẫn các câu quan trọng, cần thiết và tỉnh lược các câu không thích ứng còn lại. Phần bị tỉnh lược phải được ký hiệu bằng ba dấu chấm ngay nơi chúng bị lược đi, và giữa các dấu chấm này cũng như trước và sau chúng phải có một khoảng cách.

Ví dụ: “Giới hạn của ngôn ngữ là giới hạn của thế giới chúng ta . . . Ngôn ngữ là hình thái của cuộc sống.” (Wittgenstein, Philosophical Investigations, p. 134).

V. CÁCH TRÌNH BÀY TRÍCH DẪN NGẮN VÀ DÀI

1. Về Trích Dẫn Ngắn

a) Định nghĩa: Trích dẫn ngắn là đoạn trích dẫn trực tiếp có chiều dài trong vòng bốn hàng.

b) Cách trình bày

— Chèn đoạn trích dẫn ngắn vào trong mạch văn mà không phải xuống hàng ngay trước và sau đoạn trích này.

— Đoạn trích dẫn ngắn phải được đặt trong dấu ngoặc kép.

— Không có gì thay đổi về cách trình bày khoảng cách hàng trong mạch văn bản.

c) Ví dụ

Bằng ngôn ngữ của Phật giáo, các Phật tử đã tôn xưng Đức Phật như vị thầy của loài người và các thần linh (bao gồm cả Thượng đế). Bằng ngôn ngữ triết học, các nhà tư tưởng đã tôn xưng Ngài như vị triết gia lỗi lạc nhất trong lịch sử tư tưởng. Theo Nitch, “Đức Phậït không phải là thần linh nhưng hơn cả thần linh; Đức Phật chỉ là con người nhưng hơn hẳn mọi người.”

Đoạn trích dẫn ngắn “Đức Phậït không phải là thần linh nhưng hơn cả thần linh; Đức Phật chỉ là con người nhưng hơn hẳn mọi người” có thể được trình bày theo hai cách như sau:

— “Đức Phậït không phải là thần linh nhưng hơn cả thần linh; Đức Phật chỉ là con người nhưng hơn hẳn mọi người.”1 (nguồn trích dẫn này sẽ được ghi chú ở cước chú số 1, 2, 3); hay

— “Đức Phậït không phải là thần linh nhưng hơn cả thần linh; Đức Phật chỉ là con người nhưng hơn hẳn mọi người.” (Nitch, 1997: 13).

2. Về Trích Dẫn Dài

a) Định nghĩa: Trích dẫn dài là đoạn trích dẫn trực tiếp có chiều dài từ năm hàng trở lên.

b) Cách trình bày

— Đặt dấu hai chấm ngay sau chữ cuối cùng của hàng đứng trước đoạn trích dẫn dài.

— Không sử dụng dấu ngoặc kép trước và sau đoạn trích dẫn dài.

— Thụt vào đầu dòng toàn bộ đoạn trích dẫn dài cùng một khoảng cách vào đầu dòng của văn bản đó.

— Đánh số cước chú ở cuối đoạn trích dẫn dài và ghi chú xuất xứ của nó ở cuối trang giấy hay cuối chương hay cuối sách, tùy theo phong cách cước chú hay hậu chú.

— Áp dụng loại trình bày hàng đơn (single-line spacing) cho đoạn trích dẫn dài này.

c) Ví dụ

Khái niệm “niết-bàn” trong đạo Phật không bao giờ là thái độ bàng quan đối với thế giới bên ngoài như Giáo Hoàng John Paul II đã bóp méo. Niết-bàn là trạng thái tâm thức đã hoàn toàn lắng đọng các tâm lý âm tính như tham, sân, si; là trạng thái của sự toàn thiện ở con người, ở đây và trong hiện tại. Chính vì thế, Ken Tanaka, một giáo sư của Viện Phật Học ở Berkeley phát biểu rằng:

Rõ ràng là Giáo Hoàng đã không chịu làm bài tập trước ở nhà và đã trình bày một quan điểm quá đơn giản về Phật giáo. Cốt tủy của đạo Phật là thoát khỏi sự ràng buộc vào tham, sân, si chứ không phải là thoát khỏi thế giới. Tham, sân, si trói buộc con người ngay thế giới này thì chính con người, chứ không phải thượng đế, phải nỗ lực để tháo gỡ tất cả trói buộc đó. Nhờ đó, con người được giác ngộ và giải thoát.2

3. Về Cách Ghi Ký Hiệu hay Nhận Dạng Đoạn Trích Dẫn

a) Cách ghi ký hiệu trích dẫn đối với tác giả

— Đối với đoạn trích dẫn ngắn: tác giả phải ghi ký hiệu của đoạn trích dẫn bằng cách đặt đoạn trích dẫn trong ngoặc kép và đánh số cước chú hay hậu chú cho nó ngay sau dấu ngoặc kép hay chua thẳng xuất xứ theo phong cách trình bày cước chú vắn tắt.

— Đối với đoạn trích dẫn dài: tác giả phải đánh dấu hai chấm ngay sau chữ cuối trước đoạn trích dẫn và trình bày tụt vào đầu dòng toàn bộ đoạn trích dẫn, và ghi số cước chú ngay sau dấu chấm câu của đoạn trích dẫn đó.

b) Cách nhận dạng đoạn trích dẫn đối với độc giả

Đối với đoạn trích dẫn ngắn: người đọc có thể nhận dạng đoạn trích dẫn bằng các ký hiệu của dấu ngoặc kép trước và sau một đoạn nào đó, và sau dấu ngoặc kép đó là số cước chú hay hậu chú hoặc là dấu ngoặc đơn (    ) có chua xuất xứ tài liệu tham khảo theo phong cách vắn tắt.

— Đối với đoạn trích dẫn dài: người đọc có thể nhận dạng đoạn trích dẫn dài bằng cách tìm những đoạn gồm từ năm hàng trở lên được trình bày tụt vào đầu dòng toàn bộ và sau nó là số cước chú hay hậu chú.

VI. CÁCH TỈNH LƯỢC ĐOẠN TRÍCH DẪN

1. Dẫn Nhập

Để tránh trích dẫn các đoạn quá dài nhưng lại không thích ứng cho mục đích minh họa, phê bình, đánh giá, nhận xét của người cầm bút, người viết có thể tỉnh lược các phần không thích ứng đó ra khỏi đoạn trích dẫn.

2. Chức Năng

— Làm cho phần trích dẫn trở nên cô đọng, ấn tượng và dễ nắm bắt.

— Gây cảm xúc muốn phê bình ở người đọc.

— Làm cho văn phong của văn bản trở nên bén nhạy hơn.

— Làm cho luận điểm phê bình, đánh giá hay nhận định về văn bản gốc trở nên thuyết phục và đạt mục đích hơn.

3. Cách Tỉnh Lược

— Thay thế phần bị tỉnh lược bằng ba dấu chấm.

— Có một khoảng cách giữa ba dấu chấm tỉnh lược.

— Có khoảng cách trước và sau ba dấu chấm tỉnh lược đó.

4. Ví dụ

Về phương diện giới luật, đạo đức học Phật giáo có thể được trình bày dưới năm góc độ sau đây:

(i)     Hệ thống năm nguyên tắc đạo đức . . .

(ii) Hệ thống tám nguyên tắc đạo đức cho người tập hạnh tu sĩ. . .

(iii) Hệ thống mười nguyên tắc đạo đức cho người mới xuất gia.. .

(iv) Hệ thống 250 nguyên tắc đạo đức cho Tăng và 348 cho Ni . . .

(v) Hệ thống nguyên tắc đạo đức cho người tu hạnh Bồ-tát.

5. Đạo Đức trong Tỉnh Lược

Để đảm bảo tính trung thành với tư tưởng của văn bản gốc, nhà nghiên cứu không được tỉnh lược các phần sau đây:

— các động từ diễn tả ý phủ định hay xác định trong văn bản gốc, khi bị tỉnh lược, ý tứ của mạch văn trở nên đối lập hoàn toàn với dụng ý diễn tả của tác giả.

— các phần có thể làm cho người đọc hiểu sai ý tưởng của nguyên tác và tác giả.

— các phần liên kết ý tưởng để trình bày một luận điểm nào đó, khi bị tỉnh lược, luận điểm của nguyên tác có thể yếu đi.

— các phần, nếu thiếu chúng, ý tưởng của văn bản gốc có thể trở nên dị dạng hay bị méo mó.

VII. CÁCH THÊM VÀO ĐOẠN TRÍCH DẪN

1. Dẫn Nhập

Trong vài trường hợp, nhà nghiên cứu muốn làm rõ ý tưởng của đoạn nguyên tác, cần phải thêm vào vài từ hay giải thích thêm vài chữ trong đoạn trích dẫn tương đối phức tạp hoặc khó hiểu.

2. Chức Năng

Làm cho ý tưởng của đoạn trích được rõ ràng và dễ hiểu hơn.

— Lưu ý độc giả về những chi tiết sai suất trong đoạn trích là thuộc về tác giả của nguyên tác, chứ không phải của người trích dẫn.

— Làm cho đoạn trích trở nên hoàn hảo hơn.

— Biểu tỏ cảm xúc (khen ngợi hay khinh khi) của người trích dẫn đối với tác giả của đoạn được trích dẫn.

3. Cách Thêm Vào

— Đặt phần được thêm vào trong dấu ngoặc vuông.

— Đặt từ sic trong ngoặc vuông [sic] ngay sau các từ sai chính tả hay sau các thuật ngữ có vấn đề hay sau các câu sai tư tưởng, để biểu đạt thái độ chê bai của người trích dẫn đối với tác giả có văn bản được trích dẫn đó.

4. Nội Dung của các Phần Thêm Vào

a) [sic] : Bày tỏ thái độ bất bình hoặc chê bai.

Ví dụ: Giáo hội Thiên Chúa Giáo tự nhận là giáo hội tôn trọng và bảo vệ tự do tín giáo [sic] và là giáo hội không hề nhún tay vào chiến tranh [sic].

Trong ví dụ trên, [sic] đầu cho biết rằng từ “tín giáo” là từ viết sai, thay vì phải viết là “tôn giáo” và còn dụng ý rằng Thiên Chúa giáo không bao giờ tôn trọng và bảo vệ tự do tôn giáo. [sic] thứ hai nhằm dụng ý phản biện rằng Thiên Chúa giáo luôn nhún tay vào chiến tranh trên thế giới này.

b) Bổ túc phần đứng trước nó: Bao gồm các từ, thuật ngữ, cụm từ, câu nhân danh, địa danh, từ đồng cách và đại danh từ, nhằm giải thích thêm ý tưởng của từ đứng trước nó.

Ví dụ: Ngài (Đức Phật Thích-ca-mâu-ni) là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đề cao vai trò bình đẳng của người nữ và phản bác tính bất công của hệ thống giai cấp cũng như thái độ phân biệt màu da, chủng tộc.

Trong ví dụ trên, đại danh từ “Ngài” là không xác định rõ ràng. Phần chua “Đức Phật Thích-ca-mâu-ni” là cần thiết để người đọc không lầm lẫn Đức Phật với các nhân vật khác.

c) Lời nhận định: Bao gồm các từ ngữ hay câu nhằm biểu đạt khen ngợi hay chê bai hay chỉ nhận định thuần túy.

Ví dụ: Theo niềm tin Kitô giáo, Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng [làm sao có thể toàn năng!], chính Người đã tạo dựng nên thế giới muôn loài [nghĩa là cả những bão lụt, sấm sét, thiên tai, vi trùng, đủ các thứ bệnh], vậy thì việc dựng nên linh hồn cho mỗi con người đâu có khó khăn gì [các em nhỏ sơ sinh bị khuyết tật, bị bệnh chứng Down, bị trì trệ trí óc nên cám ơn Thượng Đế toàn năng này].

Trong ví dụ trên, tác giả đã sử dụng đến ba lần chua nội dung trong dấu [  ] để biếm nhẻ và phủ bác về tính toàn năng của Thượng Đế, để cho người đọc thấy được rằng, nếu có Thượng Đế thì Thượng Đế đó không thể toàn năng và chỉ là chủ thể gây ra tai họa và khổ đau cho cuộc đời (trouble-maker).

VIII. CÁC TRÍCH DẪN ĐẶC BIỆT

1. Trích Dẫn trong Đoạn Trích Dẫn

a) Trích Dẫn trong Đoạn Trích Dẫn Ngắn

ĐCách trình bày

— Chèn đoạn trích dẫn vào trong văn bản mà không phải thay đổi mạch khoảng cách dòng.

— Đặt toàn bộ đoạn trích ngắn đó trong ngoặc kép.

— Đặt phần trích dẫn trong đoạn trích dẫn ngắn trong ngoặc trích đơn.

— Đánh số cước chú hay hậu chú sau đoạn trích đó hay chua liền xuất xứ viết tắt ngay sau đoạn trích dẫn ngắn đó.

Ví dụ

Để đánh đồng chức năng xã hội của các tôn giáo, các nhà truyền giáo thường đưa ra lý luận ngụy biện để lạc dẫn những người nhẹ dạ như sau đây “Đạo nào cũng ‘tốt,’ cũng dạy người ta ‘làm lành lánh dữ,’ và trong đạo nào cũng có ‘người xấu,’ ‘kẻ tốt;’ đây là chuyện thường thôi.”5

b) Trích dẫn trong đoạn trích dẫn dài

Cách trình bày

— Đặt dấu hai chấm ngay sau từ cuối cùng, trước đoạn trích dẫn dài.

— Trình bày tụt vào đầu dòng toàn bộ đoạn trích bằng một khoảng cách vào đầu dòng của văn bản đang đánh.

— Không dùng dấu ngoặc cho đầu và cuối đoạn trích dẫn dài.

— Sử dụng dấu ngoặc kép cho phần trích dẫn trong đoạn trích dẫn dài.

— Đánh số cước chú hay hậu chú sau đoạn trích đó hay chua liền xuất xứ viết tắt ngay sau đoạn trích dẫn ngắn đó.

Ví dụ

Sau đây là phần nhận định rất chính xác của ông Trần Chung Ngọc về điển tích Ngón Tay Chỉ Mặt Trăng trong kinh nhà Phật:

Trong Phật giáo, trong điển “Ngón Tay Chỉ Trăng,” “mặt trăng” chỉ “chân lý,” cái chân lý mà Đức Phật đã ngộ được qua sự tu tập của bản thân, và “ngón tay” chỉ “giáo pháp,” kinh điển Phật giáo. Đức Phật đã khuyên tất cả đệ tử của Người đừng có coi giáo pháp của Người, về sau được viết trên các kinh điển, như là chân lý; có thể nhờ vào đó để đi đến chân lý chứ không chấp bắt vào đó như là chân lý.4 hoặc [Trần Chung Ngọc (1997): 95].

 

2. Trích Dẫn Thơ Ca

Có ba loại tùy thuộc theo chiều dài của thơ ca được trích dẫn.

a) Phần trích dẫn chỉ gồm một hàng của bài thơ

Cách trình bày

— Hàng thơ được trích đó được đặt trong ngoặc kép.

— Chèn hàng thơ được trích đó vào trong mạch văn và không có sự thay đổi nào về cách trình bày khoảng cách hàng.

— Đánh số cước chú hay hậu chú sau phần trích đó hay chua liền xuất xứ viết tắt ngay sau phần trích dẫn đó.

Ví dụ: Vẻ đẹp của Kiều dưới ngòi bút điêu luyện của thi hào Nguyễn Du là vẻ đẹp “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xinh.”6

b) Phần trích dẫn chỉ gồm hai ba hàng của bài thơ

Cách trình bày

— Đặt trong ngoặc kép hai ba hàng thơ được trích dẫn.

— Đặt dấu / giữa các hàng thơ để phân biệt chúng.

— Chèn hai ba hàng trích đó vào trong mạch văn và không có sự thay đổi nào về cách trình bày khoảng cách hàng.

— Đánh số cước chú hay hậu chú sau phần trích đó hay chua liền xuất xứ viết tắt ngay sau phần trích dẫn đó.

Ví dụ: Tự lực là một năng lực nội tại, là quá trình chuyển hoá bản thân và hoàn cảnh. Đức Phật đã nhấn mạnh đến tinh thần tự lực như là phương châm duy nhất, giúp chúng ta vượt bể khổ: "Như Lai chỉ là đạo sư, do đó hãy tự lực giác ngộ (Kinh Pháp Cú)"7

c) Phần trích dẫn là một khổ hay đoạn hay toàn bài thơ

Cách trình bày

— Đặt dấu hai chấm ngay sau từ trước phần trích dẫn.

— Trình bày tụt vào đầu dòng toàn bộ đoạn trích bằng một khoảng cách vào đầu dòng của văn bản đang đánh.

— Không dùng dấu ngoặc cho đầu và cuối của đoạn trích dẫn.

— Trình bày khoảng cách hàng đơn cho các hàng thơ và khoảng cách hàng đôi giữa các khổ thơ.

— Đánh số cước chú hay hậu chú sau phần trích đó hay chua liền xuất xứ viết tắt ngay sau phần trích dẫn đó.

Ví dụ: Đời sống nhân quả là phương châm đạo đức đầu tiên mà Đức Phật đã răn dạy không chỉ cho đệ tử của Người mà còn cho tất cả nhân loại ngày hôm nay noi theo. Nhân quả đạo đức đó lấy con người làm nền tảng. Ở đây, con người là chủ nhân của nghiệp và do đó con người cũng sẽ là chủ thể thừa tự kết quả của nghiệp đó, như thi kệ Phật dạy dưới đây:

Tự mình làm điều ác,
Tự mình làm nhiễm ô.
Tự mình làm điều lành,
Tự mình làm trong sạch.
 
Trong sạch hay nhiễm ô
Đều do tự chính mình,
Không ai nhiễm ô ai,
Không ai trong sạch ai.
(Kinh Pháp Cú, kệ 155).

3. Trích Dẫn Gián Tiếp

Bao gồm hai loại, đó là, trích dẫn lại phần trích dẫn của tác giả khác và trích dẫn ý tưởng của tài liệu tham khảo bằng văn phong của người cầm bút.

a) Trích dẫn lại phần trích dẫn của tác giả khác

Cách trình bày

Tương tự như cách trình bày của các trích dẫn trực tiếp đã nêu trên.

Cách ghi chú

Trong cước chú hay hậu chú của mình, nhà nghiên cứu nên ghi rõ rằng trích dẫn này không phải do chính người cầm bút đọc và trích ra mà chỉ trích lại từ tác phẩm B của tác giả A nào đó, theo qui ước sau:

Số cước chú+Trích lại từ/theo+Tên tác giả+Tựa đề tác phẩm in nghiêng+ chi tiết về ấn bản+số trang.

Ví dụ

ĐĐối với tác phẩm tiếng Việt

 9 Trích lại từ/Trích theo A. K. Warder, Indian Buddhism. (Delhi: Motilal Banarsidass, 1987), pp. 33-4.

ĐĐối với tác phẩm tiếng Anh

9 Quoted from/in/by A. K. Warder, Indian Buddhism. (Delhi: Motilal Banarsidass, 1987), pp. 33-4.

Nguyên nhân và mục đích sử dụng

— Do không truy tìm được tài liệu chứa phần trích dẫn đó.

Do không có đủ phương tiện để truy tìm tài liệu trích dẫn đó.

— Nếu có những sai suất về phương diện tính thẩm quyền (như có chính xác hay không, bịa đặt hay thêm thắt v.v.. .) thì tác giả của phần trích dẫn đó chịu trách nhiệm, chứ người trích lại không chịu tránh nhiệm chi cả.

Nếu đoạn trích dẫn đó chính xác, không có sai lầm và có giá trị nghiên cứu thì công phát hiện ra đoạn trích này thuộc về tác giả trích dẫn đầu tiên, trong khi người trích lại chỉ có công sưu tập các trích dẫn hay mà thôi. Đây chính là đạo đức trong trích dẫn: không cướp công nghiên cứu của người khác.

b) Trích dẫn ý của tài liệu bằng văn phong của người cầm bút

Dẫn nhập

Nói cách khác, đây là cách tiêu hóa ý tứ và tư tưởng của nguyên tác rồi diễn giải ý tưởng đó bằng ngôn ngữ và văn phong của người cầm bút. Cách trích dẫn này thường được cả giới sáng tác lẫn giới độc giả ưa chuộng.

Cách trình bày

Viết một cách bình thường đoạn diễn đạt trong mạch văn.

— Không sử dụng dấu ngoặc kép cho đoạn diễn đạt này.

— Ghi số cước chú hay hậu chú ngay sau đoạn diễn đạt ý tưởng về nguyên tác.

Chú thích xuất xứ của đoạn diễn đạt ở phần cước chú hay hậu chú hoặc chua trong ngoặc đơn theo phong cách vắn tắt xuất xứ của đoạn diễn giải ngay sau đoạn diễn đạt ý nguyên tác đó.

Chức năng

— Tránh liệt kê những đoạn trích dẫn dài dòng hay không thích ứng lắm với văn mạch của văn bản.

— Giúp cho người đọc thấy được sự giống nhau về tư tưởng của hai loại văn phong của hai tác giả khác nhau, trong hai thời điểm khác nhau.

— Làm cho nội dung văn bản trở nên ấn tượng, dễ hiểu và thuyết phục hơn.

— Phát huy tối đa tính luận điểm của văn bản hơn là liệt kê các trích dẫn thuần túy.

Ví dụ

Theo Đức Phật, hình phạt hay luật pháp khắc khe chỉ là một trong những biện pháp ngăn chặn nạn giặc cướp và trộm cắp, chứ không thể chấm dứt chúng. Để diệt trừ tận gốc rễ của nạn giặc cướp và trộm cắp, trước hết nhà lãnh đạo phải đem lại cơm no áo ấm cho muôn dân bằng cách tạo việc làm, giúp vốn, khuyến khích các tổ chức từ thiện, và sau là phải phát triển giáo dục và nâng cao dân trí.10  (Xem Kinh Trường Bộ, tập I, tr. 241-2).


[1] Chi tiết của cách trích dẫn thơ ca được trình bày ở phần VIII. 2 của chương này.

[2] Xem chi tiết ở phần VIII. 3. của chương này.

-oOo-

Lời nói đầu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | Sách tham khảo

 


Vào mạng: 20-10-2001

Trở về mục "Tham khảo"

Đầu trang