- CHƯƠNG
VIII
- THƯ
MỤC THAM KHẢO
- (BIBLIOGRAPHY)
I. ĐỊNH
NGHĨA THƯ MỤC THAM KHẢO
Thư mục hay thư tịch tham
khảo (Bibliography) là bản liệt kê danh
sách các tài liệu tham khảo trong bài khảo cứu, tác phẩm, sách, luận văn
tốt nghiệp hay luận án. Thư mục tham khảo là sự mô tả có hệ thống về
toàn bộ hay lịch sử ấn bản về một đề tài nghiên cứu nào đó bao gồm
các chi tiết tên tác giả, tựa đề tác phẩm, (tên dịch giả nếu có) nơi
xuất bản, nhà xuất bản, năm xuất bản hay tái bản của các tác phẩm
tham khảo. Nó chủ yếu đề cập đến các nguồn gốc thông tin về sách
tham khảo, và là bản liệt kê có hệ thống danh sách các tài liệu có
cùng tính chất hay chung đặc điểm, chẳng hạn như cùng chủ đề hay cùng
tác giả. Thư mục tham khảo còn được gọi bằng các tên khác nhau như
“Thư mục trích dẫn” (Works cited hay List of Works cited), “Sách tham khảo” (Reference hay List of Reference), “Thư mục chọn lọc”
(Select Bibliography) hay “Tham khảo chọn
lọc” (Select Reference).
Thư mục tham khảo có thể
bao gồm sách vở, báo chí, tự điển các loại (song ngữ, thuật ngữ, đối
chiếu, chuyên ngành, bách khoa..), ấn phẩm của chính phủ, các bài giảng
thuyết, phỏng vấn, băng từ, phim ảnh, bảng biểu đồ, dữ liệu vi tính
và ngay cả các tư liệu chưa xuất bản hay lưu hành nội bộ.
Thư mục tham khảo còn
có thể được định nghĩa như một nghệ thuật khám phá thông tin về
sách vở và truyền bá thông tin đó cho người đọc, hay sự tập hợp thông
tin về sách vở và tài liệu liên hệ đến một chủ đề, lãnh vực, con
người, sự việc và thời kỳ nào đó.
II. TẦM QUAN TRỌNG
CỦA THƯ MỤC THAM KHẢO
1) Nhờ sự hỗ trợ của
thư mục tham khảo, công việc chọn lựa và sưu tập sách trở nên dễ
dàng, nhanh chóng và hiệu quả hơn.
2) Thư mục tham khảo giúp
người đọc biết rõ về nguồn ra đời của lịch sử đề tài của một
nước hay của một ngôn ngữ nào đó.
3) Thư mục tham khảo giúp
nhà nghiên cứu nâng cao thành quả nghiên cứu của mình bằng cách tiết kiệm
được thời giờ trong việc tự tìm kiếm những nguồn tài liệu tham khảo
mà các nhà nghiên cứu trước đã dày công đọc, phát hiện và giới thiệu.
4) Thư mục tham khảo còn
làm cho chúng ta trở nên thích thú hơn trong việc tìm hiểu và biết được
văn minh và văn hóa của một nước, một dân tộc bằng cách ghi chép và lưu
trữ các tài liệu văn học.
III. CHỨC NĂNG CỦA
THƯ MỤC THAM KHẢO
1) Hỗ trợ đắc lực cho
người nghiên cứu và người đọc có thể truy nguyên, đối chiếu hoặc
thâm cứu về các chú thích trong cước chú hay hậu chú của tác phẩm có
thư mục tham khảo.
2) Giúp cho nhà nghiên cứu
biết rõ các xuất bản hay tái bản khác nhau về một đề tài nghiên cứu
nào đó không chỉ trong phạm vi của một nước mà còn ở khắp nơi trên
thế giới.
3)
Cung cấp cho người đọc các chi tiết về tên tác giả, tựa đề tác phẩm, nơi XB, tên
NXB, năm XB hay tái bản của các tác phẩm.
4) Đánh giá nguồn tài liệu
hay thông tin đã được nêu trong một trật tự để giúp nhà nghiên cứu
giới hạn trong việc truy tìm tài liệu liên hệ.
5) Cung cấp thông tin về lịch
sử đề tài nghiên cứu từ trước đến giờ để giúp nhà nghiên cứu
xác định hướng và giới hạn phạm vi nghiên cứu của mình.
6) Cung cấp thông tin về
tài liệu nghiên cứu và nhất là cung cấp dữ liệu cho việc nghiên cứu
và đánh giá văn bản.
7) Giúp nhà nghiên cứu
tìm chọn hoặc mua sách chuyên ngành hay cùng lãnh vực đang nghiên cứu hay
các lãnh vực liên hệ một cách nhanh chóng và hiệu quả.
IV. SỰ KHÁC NHAU GIỮA THƯ
MỤC THAM KHẢO VÀ CƯỚC CHÚ
1. Về trật tự tên tác giả
Nếu tác giả là người
Âu Mỹ: Trong thư mục tham khảo, họ tác giả đặt trước, kế đến là
tên và chữ lót, trong khi đó trong cước chú, tên tác giả đặt trước, kế
đến là chữ lót và họ. Nếu tác giả là người Việt Nam thì không có sự
khác nhau về cách trình bày: họ-chữ
lót-tên.
Thư mục: Warder, A. K., Indian Buddhism (Delhi: Motilal Banarsidass,
1991).
Cước chú: A. K. Warder., Indian Buddhism (Delhi: Motilal Banarsidass,
1991).
2. Về các Chi Tiết của Tác Phẩm
Đối với cước chú,
tên tác phẩm có thể viết tắt, nơi XB, nhà XB và năm XB
có thể tỉnh lược trong một số trường hợp, trong khi đối với thư mục
tham khảo, các chi tiết này phải ghi đầy đủ trong mọi trường hợp.
3. Về Mục Đích
Cước chú nhằm xác định
xuất xứ của tài liệu trích dẫn trong khi thư mục tham khảo nhằm cung cấp
cho người đọc đầy đủ chi tiết về nguồn tài liệu để tham khảo,
truy cứu, khi cần thiết.
V. CÁC QUI ĐỊNH CĂN BẢN
VỀ THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Về Vị
Trí
Thư mục tham khảo thường
được đặt trước phần phụ lục hay phụ bản và ngay sau chương cuối cùng
hay trang cuối cùng của một tác phẩm, sách, luận văn, luận án hay bài khảo
cứu.
2. Về
Cách Trình Bày
Tiêu đề “THƯ MỤC THAM
KHẢO” phải được viết bằng chữ in hoa ở chính giữa hàng đầu tiên
của trang đầu tiên của mục này. Không cần gạch dưới hay chấm câu cho
tiêu đề thư mục tham khảo.
3. Về
Trật Tự
Thư mục tham khảo phải
được xếp theo thứ thự mẫu tự của tên tác giả (đối với thư mục
tên tác giả) hoặc tựa đề tác phẩm (đối với thư mục tên tác phẩm
hay tài liệu gốc thuộc kinh điển của các tôn giáo).
4. Về Nội
Dung
Thư mục tham khảo phải
bao gồm các chi tiết tên tác giả, tựa đề tác phẩm nguyên tác, (người
dịch hay xuất bản, tựa đề bản dịch nếu có), nơi xuất bản, nhà xuất
bản, năm xuất bản hay tái bản và giới hạn số chương, mục, trang, đối
với các bài nghiên cứu trong bách khoa hay tạp chí.
5. Về
Phép Viết Hoa và Nghiêng
a) Viết hoa toàn bộ tên
họ tác giả, Nơi XB, Nhà XB.
b) Viết hoa tên tác phẩm,
ngoại trừ các liên từ, giới từ, mạo từ
xác định. Nếu ba từ loại này đứng đầu câu trong tên tác phẩm
tham khảo thì chúng phải được viết hoa.
c) Chỉ in nghiêng tên tác
phẩm.
6. Về
Cách Trình Bày Tên Tác Giả
a) Nếu
tác giả là người Âu Mỹ thì tên họ của ông/bà được ghi theo trật tự
sau: Họ +Tên+ Chữ lót (nếu viết tắt
tên và chữ lót thì sau tên và chữ lót phải có dấu chấm). Nhưng đối với
cước chú hay hậu chú, trật tự này như sau: Tên + Chữ lót + Họ.
b) Nếu tác giả là người
Trung Quốc thì tên họ của ông/bà được ghi theo trật tự sau: Họ (dấu phết) Chữ lót-tên (chữ lót hoa, tên viết thường
và có gạch nối ở giữa).
c) Nếu tác giả là người
Việt Nam thì tên họ của ông/bà được ghi theo trật tự sau: Họ-Chữ lót-Tên (viết hoa đầy đủ và
có gạch nối giữa các thành tố). Cách viết này giúp cho người Việt Nam
dễ dàng tra cứu nhân danh người Việt trong các tác phẩm Anh Pháp hơn; bằng
không tên sẽ được hiểu là họ và ngược lại, họ là tên.
d) Tên và chữ lót của
tác giả có thể viết tắt bằng các chữ cái đầu tiên với một dấu chấm
sau chúng. Nhưng nếu tác giả là người nữ thì tên của bà không được
viết tắt.
e) Đối với tác giả có
từ 2 tác phẩm trở lên, từ tác phẩm thứ 2 trở đi này, tên tác giả
được tỉnh lược bằng cách điền chữ “idem hay
do hay bằng một gạch ngang dài bằng
khoảng cách tên tác giả đó và cuối gạch ngang có một dấu chấm trước
tựa tác phẩm.” Trong trường hợp này, tựa đề của các tác phẩm đồng
tác giả cũng phải được sắp theo thứ tự của mẫu tự.
7. Chi Tiết về Ấn Bản
a) Ghi đầy đủ nơi xuất
bản và tên nhà xuất bản. Nếu trong tài liệu tham khảo không có ghi tên
nhà xuất bản thì ta có thể để trống hay ghi ký hiệu “n.p.” (no publisher) cho tác phẩm tiếng Anh; “p.e.”
(pas d’éditions) cho tác phẩm tiếng
Pháp và knxb (không nhà xuất bản) cho tác phẩm tiếng Việt.
b) Ghi rõ năm xuất bản
hay tái bản của tác phẩm được trưng dẫn. Nếu trong tài liệu tham khảo
không có ghi năm xuất bản và tái bản thì ta ghi ký hiệu “n.d.” (no
date of publication) cho tác phẩm tiếng Anh; “p.d.” (pas
de date) cho tác phẩm tiếng Pháp và kn
(không năm xuất bản) cho tác phẩm tiếng Việt.
c) Năm XB có thể đặt sau
nhà XB theo trật tự sau đây (Nơi XB: NhàXB, năm XB), và cũng có thể đặt
sau tên tác giả nhưng phải bỏ trong ngoặc đơn và sau nó phải có dấu chấm.
8. Về Số
Trang
Không cần ghi số trang nếu
tài liệu tham khảo là sách, luận văn, luận án hay bài khảo luận. Nếu
tài liệu tham khảo là từ điển bách khoa hay báo chí, tạp chí thì tổng
số trang của bài nghiên cứu hay của mục từ được tham cứu phải liệt
kê ra, để cho người đọc dễ truy cứu, khi cần.
VI.
PHÂN LOẠI THƯ MỤC THAM KHẢO
Sự khác nhau về mục đích
và sở thích là nền tảng của sản phẩm và phân loại thư mục thành nhiều
dạng thức. Mỗi loại thư mục đóng một chức năng khác nhau trong việc
trả lời hay đáp ứng các nhu cầu khác nhau của người nghiên cứu. Ngoài
ra, yếu tố thời gian, không gian, phạm vi, loại hình tài liệu và sự sắp
xếp cũng là những yếu tố quan trọng trong việc xác định loại hình
khác nhau của thư mục.
A) Loại Thư Mục Chính
Có hai loại thư mục chính
là thư mục tác phẩm hay tài liệu gốc (Primary
bibliography) và thư mục tác phẩm hay tài liệu hai (Secondary bibliography).
1. Thư Mục Tài Liệu Gốc (Primary Bibliography or Source)
Là danh sách các tác phẩm
hay sáng tác hay giảng dạy của một nhân vật về một chủ đề nào đó.
Có hai loại tài liệu gốc: tài liệu gốc thuộc kinh điển tôn giáo và
tài liệu gốc không thuộc kinh điển tôn giáo.
a) Tài liệu gốc thuộc
kinh điển tôn giáo là các sáng tác bằng văn bản của chính người sáng
lập ra tôn giáo đó hay những lời giảng dạy truyền miệng của vị giáo
chủ đó được hậu thế ghi chép lại thành văn bản về sau.
b) Tài liệu gốc không
thuộc tôn giáo là các sáng tác bằng văn bản của một cá nhân.
Ví dụ, khi viết về Đức
Phật, về tư tưởng và học thuyết của ngài thì ba tạng Kinh điển Pli được xem là tài liệu gốc. Tương tự, viết
về tư tưởng và học thuyết của triết gia Bertrand Russell thì tất cả
các sáng tác của chính ông được xem là tài liệu gốc.
2. Thư Mục Tài Liệu Hai hay Tác Phẩm Nghiên
Cứu (Secondary Bibliography or Secondary Source or Studies)
Thư mục tài liệu hai là
danh sách các tác phẩm nghiên cứu, phê bình, nhận định, đánh giá về
tài liệu gốc của một nhân vật nào đó. Ví dụ, các tác phẩm viết về
đức Phật từ trước đến giờ bằng nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế
giới được xem là nguồn tài liệu hai về ngài. Tương tự, các tác phẩm
nghiên cứu, phê bình, nhận định, đánh giá về các sáng tác của Russell
trên khắp thế giới được xem là các tài liệu hai.
B) Các Loại Thư Mục Khác
Trên đây là hai loại thư
mục thường gặp nhất và được sử dụng rộng rãi trên khắp thế
giới từ trước tới giờ cho việc soạn thảo và sử dụng thư mục tham
khảo của sách, bài khảo cứu, luận văn tốt nghiệp hay luận án. Ngoài
ra còn có nhiều loại thư mục khác nhau, phục vụ cho các mục đích khác
nhau và được phân loại khác nhau tùy theo từng học giả. Dưới đây là
sự mô tả tóm lược về vài loại thư mục thường gặp.
1. Thư Mục Tác Giả (Author’s
bibliography or Author-wise Bibliography)
Là danh sách các sáng
tác hay tác phẩm được sắp xếp theo thứ tự của mẫu tự tên tác giả.
Loại thư mục này thường được sử dụng làm thư mục tài liệu gốc
không thuộc kinh điển tôn giáo và thư mục tài liệu hai hay tài liệu
nghiên cứu. Ngoài ra, nó còn được sử dụng trong phong cách cước chú chi
tiết ở cuối mỗi trang giấy hay hậu chú sau mỗi chương hay ở cuối sách.
Nếu một tác giả có nhiều tác phẩm trong thư mục thì từ tác phẩm thứ
hai trở đi, tên tác giả sẽ được tỉnh lược bằng cách thay thế từ idem hay do
hay một gạch ngang dài có dấu chấm ở cuối, trước tựa đề tác phẩm.
Trong trường hợp này, trật tự của các tác phẩm này phải được sắp
xếp theo thứ tự mẫu tự của tựa đề tác phẩm.
2. Thư Mục Tựa Đề (Title-wise Bibliography)
Là danh sách các sáng tác
hay tác phẩm được sắp xếp theo thứ tự của mẫu tự tựa đề tác phẩm.
Loại thư mục này thường được sử dụng trong các quyển catalogue giới thiệu sách của các nhà xuất
bản, và ngày càng ít được sử dụng làm thư mục tham khảo cuối sách,
bài khảo luận, luận văn hay luận án như trước đây.
3. Thư Mục Chủ Đề (Subject Bibliography)
Là danh sách tài liệu hay
sáng tác đầy đủ về một chủ đề nào đó. Chủ đề ở đây có thể
là con người, nơi chốn, thời kỳ, vấn đề hay đề tài nào đó. Loại
thư mục này rất hữu dụng cho các chuyên gia hay nhà nghiên cứu, giúp họ
biết tất cả các tài liệu hiện hành về chủ đề mà họ đang theo đuổi
hay nghiên cứu.
4. Thư Mục Chọn Lọc (Electic or Selective Bibliography)
Là danh sách các tác phẩm
hay sách hay nhất (best books) cho một loại
thư viện hay loại độc giả nhất định. Đây là loại công cụ tốt nhất
để chọn lọc tài liệu chuyên ngành và đóng vai trò đáp ứng mục đích
chọn lọc trong nghiên cứu.
Ví dụ: Bhatt, S. S., Indian Best Books. (Delhi: Government of India,
1996).
5. Thư Mục Quốc Gia (National Bibliography)
Là danh sách tất cả các
sách hay tác phẩm sáng tác của một quốc gia. Mỗi mục trong thư mục loại
này bao gồm tên tác giả, tựa đề tác phẩm, nơi xuất bản, nhà xuất bản,
năm xuất bản và giá cả. Yếu tố địa dư đóng vai trò quan trọng trong
loại thư mục này.
Ví dụ: Indian National Bibliography, Delhi: 1998.
6. Thư Mục Thương Mại (Trade Bibliography)
Là sách về thư mục của
các nhà xuất bản, người bán sách, nhà in nhằm giới thiệu danh sách các
tác phẩm hiện hành.
Ví dụ: Books in Print.
7. Thư Mục về Thư Mục (Bibliography of Bibliographies)
Là loại sách thư mục giới
thiệu các loại thư mục khác nhau về các chủ đề khác nhau. Loại sách
thư mục này thường bao gồm các loại thư mục sau đây:
a) Thư mục người tiêu
dùng (Consumer bibliography):
— Danh sách tác phẩm cần
đọc (Reading Lists).
— Thư mục tên tác giả
(Author’s bibliography).
b) Thư mục tư tưởng của
người phân phối (Distributor’ s [thought]
bibliography):
— Thư mục chủ đề (Subject bibliography).
— Danh sách sách chọn lọc
(Book-selection lists).
— Danh mục thư viện (Library catalogues).
c) Thư mục tài liệu của
người phân phối (Distributor’s [material]
bibliography):
— Danh mục của nhà xuất bản (Publishers’ catalogues).
— Danh mục của người bán sách (Book-sellers’ catalogues).
d) Thư mục tư liệu của
nhà sản xuất (Producers’ [material]
bibliography):
— Danh sách tác quyền (Copyright lists).
— Thư mục nhà in (Printers’ bibliography).
— Thư mục người đóng
sách (Binders’ bibliography).
e) Thư mục tư tưởng của
nhà sản suất (Producers’ [thought]
bibliography):
— Thư mục tác giả (Author bibliography).
VII. CÁCH TRÌNH BÀY THƯ MỤC TÀI LIỆU GỐC
KHÔNG THUỘC KINH ĐIỂN TÔN GIÁO VÀTHƯ MỤC TÁC PHẨM NGHIÊN CỨU
a) SÁCH
1. Sách chỉ Có một Tác Giả
Họ+ tên+ chữ lót tác giả. (năm XB) Tên tác phẩm in nghiêng, số tập, Nơi XB:
NXB.
Wayman, Alex. (1974). The Lion’s Roar of Queen Ưriml, New York: Columbia University Press.
Họ+ Tên+ Chữ lót tác giả., Tên tác phẩm in nghiêng, số tập, (Nơi
XB: NXB, năm XB).
Sopa, G., Lectures in Tibetan Buddhism, 2 vols, (Delhi:
Motilal Banarsidass, 1986).
2. Sách chỉ Có một Người Dịch hay Biên Tập
Họ+Tên+Chữ lót người biên tập. (ed.) (năm
XB) (:) Tên tác phẩm in nghiêng, số tập,
Nơi XB, NXB.
Lancaster, L., (ed.) (1977). Praj–pramit and Related Systems, Berkeley, University of
California Press.
Họ+Tên+Chữ lót dịch giảû. (trans.) (năm
XB) (:) Tên tác phẩm in nghiêng, số tập,
Nơi XB: NXB.
Anacker, S. (trans.) (1984). Seven Works of Vasubandhu, Delhi: Motilal
Banarsidass.
Phạm Kim Khánh. (dịch)
(1991). Đức Phật và Phật Pháp, Hồ
Chí Minh: Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh.
3. Sách gồm có Dịch Giả và Người Ấn Hành
Họ+Tên+Chữ lót dịch giả. (trans.), Họ, tên người
ấn hành. (ed. / bt.) (năm XB) Tên dịch phẩm
in nghiêng (tên nguyên tác trong ngoặc đơn in nghiêng), Nơi XB: NXB.
Bhattacharya, K. (trans.),
Johnston, E. H. and Kunst, A. (eds) (1978). The
Dialectical Method of Ngrjuna (Vigrahavyvartan), Delhi: Motilal Banarsidass.
4.
Sách Gồm có Tác Giả và Người Ấn Hành / Biên Tập
Họ+Tên+Chữ lót tác giả. (năm XB) Tên tác phẩm in nghiêng, ed. / bt. Tên họ
người ấn hành, Nơi XB: NXB.
Jayatilleke, K. N. (1974). The Message of the Buddha, ed. Ninian Smart, New
York: Free Press.
5. Sách gồm Có 2
Tác Giả hay 2 Dịch Giả hay 2 Biên Tập Viên
Họ+Tên+Chữ lót 2 dịch giả/biên tập
viên. (trans. / eds.) (năm XB) Tên tác phẩm in nghiêng, Nơi XB: NXB.
Grazia, A. D., and Stevenson,
F. H. (eds.) (1965). World Politics, New Nork:
Barnes and Noble.
Trần Tam và Trần Tứ. (dịch)
(1997). Phật Giáo Ngày Nay, Hồ Chí Minh:
NXB Tuổi Trẻ.
6. Sách Gồm Nhiều
Tác Giả hay Nhiều Biên Tập Viên
Họ+Tên+Chữ lót tác giả. et al. / và tgk. (năm
XB) Tên tác phẩm in nghiêng, Nơi XB: NXB.
Jamspal, L. et al. (1978). Ngrjuna’s Letter to King Gautamputra, Delhi: Motilal
Banarsidass.
Thích-Minh-Châu và tgk.
(1964). Đường về Xứ Phật, Sài Gòn:
Viện Đại Học Vạn Hạnh.
b) BÀI
NGHIÊN CỨU TRONG TUYỂN TẬP / TỰ ĐIỂN BÁCH KHOA
Họ+Tên+Chữ lót tác giả., “Tên bài
nghiên cứu,” in Họ
Tên người biên tập (ed.) Tên tuyển tập
/ bách khoa tự điển in nghiêng, (năm XB) Nơi XB: NXB, số tập : số
trang.
Kalupahana, D. J., “Dhamma
(1),” in Malalasekera, G. P. (ed.) Encyclopaedia
of Buddhism, (1979). Sri lanka: The Government of Sri lanka, vol. IV: 438-53.
Schlossberger, E., “The Self
in Wittgenstein’s Tratatus,” in Leinfellner, E., et al. (eds.) Wittgenstein and His Compact on Contemporary Thought, (1978).
London: Croomhelm, pp. 2-9.
c) BÀI NGHIÊN CỨU TRONG TẠP CHÍ HAY BÁO CHÍ
Họ+Tên+Chữ lót tác giả., “Tên bài
nghiên cứu,” Tên tạp chí / báo chí in nghiêng, (Nơi
XB), số tập (ngày XB), số trang.
Thích-Duy-Tân., “Bàn về
quyển Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam,” Giác
Ngộ, (Hồ Chí Minh), số 34 (11-8-1989), 3-4.
Richard. W. M., “Wittgenstein,
Lion and Other Animals,” University of Dayton
Review (Dayton, U.S.A), vol. 9, no. 2 (1970), 144-53.
d) BÀI VIẾT KHÔNG CÓ TÊN TÁC GIẢ
Tên bài viết trong ngoặc, Tên báo / tạp chí / tự điển / bách khoa
in nghiêng, số tập (ngày XB), trang.
‘Chùa Một Cột’, Tư Tưởng Vạn Hạnh, số 37 (ngày
12-12-1963), 123-65.
e) PHỤ TRƯƠNG CỦA BÁO / TẠP CHÍ
Họ+Tên+Chữ lót tác giả. Tên bài viết trong ngoặc,
Tên báo / tạp chí, Phụ trương số (ngày
XB), trang.
Trần Anh. ‘Huế của Ta’,
Nhân Dân, Phụ trương số 23 (1990),
123-44.
Warder, A. K., ‘Dhamma and
Data’, Journal of Indian Philosophy, Dordrecht
(Reidel) 1971.
f) LUẬN ÁN CHƯA XUẤT BẢN
Họ+Tên+Chữ lót tác giả. (năm trình) Tên luận án in nghiêng, bậc luận án. Địa
điểm trường: tên trường đại học.
Sait‡, A. (1984). The Emptiness of Emptiness, Ph. D. Dissertation.
Delhi: University of Delhi.
Bhatta, A. (1990) Buddhism in America, M. A. Dissertation.
Washington: University of Washington.
g) ẤN
PHẨM CỦA TỔ CHỨC HAY CHÍNH PHỦ
Tên tổ chức / chính phủ. (năm XB) Tên văn bản in nghiêng. Nơi XB: Nhà XB.
United Nations Centre for
National Resources. (1980) Petroleum Enterprises in
Developing Countries. Elmsford: Pergamon.
Giáo hội Phật Giáo Việt
Nam. (1981). Hiến Chương Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam. Hồ Chí Minh: Ban In Aán GHPGVN.
h) BÀI
GIẢNG THUYẾT
Họ+Tên người thuyết trình.
(ngày tháng năm thuyết trình) “đề tài giảng thuyết,” Lecture / Giảng thuyết in nghiêng. Địa điểm
giảng thuyết: hội trường / tên trường.
Thích-Mãn-Giác.
(11-12-1963). “Bồ-tát Thích Quảng Đức,” Giảng Thuyết. Sài Gòn: Trường Đại Học
Vạn Hạnh.
i) BẢN PHÚC
TRÌNH
Họ+Tên+Chữ
lót người phúc trình. Tựa đề phúc
trình in nghiêng. Nơi phúc trình: ngày phúc trình.
Allen,
A. B. et al. Delhi University Research Scientist
Report. Delhi: 3-3-1996.
j) PHỎNG VẤN
Họ+Tên, chức vụ người được phỏng vấn, Interview / Phỏng Vấn in nghiêng. (Nơi phỏng
vấn: ngày phỏng vấn).
Thích
Trí Tịnh, Chủ tịch, GHPGVN, Phỏng Vấn.
(Thủ Đức: ngày 12-7-1998).
k) THƯ TỪ
Họ+Tên, chức vụ người viết thư, Letter / Thư Từ in nghiêng. (nơi viết: ngày
viết).
Trần-Tiến,
Giáo sư Sử học, Trường Đại học Cần Thơ, Thư Từ. (Cần Thơ: 12-2-1956).
l) PHẦN
MỀM VI TÍNH
Họ+Tên+Chữ lót người
viết chương trình. (năm ấn bản) Tên phần
mềm in nghiêng, version / số ấn bản.
Computer Software / Phần mềm vi tính, Tên nhà xuất bản.
Richard,
R. C. (1997). Windows 97 Photoshop, version 1.2. Computer Software, Microsoft Company.
N) WEBSITE
Họ+Tên+Chữ lót tác giả/
dịch giả. Tên tác phẩm in nghiêng. Địa
chỉ truy cập chi tiết của Website chứa tài liệu trích dẫn
Minh
Châu, Thích (dịch). Kinh Trường Bộ. http://members.nbci.com/_XMCM/budtoday/viet/kinh/pali/Truongbo0.htm
- VIII. CÁCH
TRÌNH BÀY THƯ MỤC TÀI LIỆU GỐC
- THUỘC KINH
ĐIỂN TÔN GIÁO
Có hai loại
tài liệu gốc: loại kinh điển tôn giáo và loại tác phẩm không thuộc
kinh điển tôn giáo. Đối với các tác phẩm thuộc kinh điển tôn giáo,
tên tác giả luôn được tỉnh lược, vì tác giả của các kinh điển này
cũng chính là vị sáng lập ra tôn giáo đó, do đó, không cần nêu ra thì
người đọc cũng biết và không bị lẫn lộn. Tựa của các tác phẩm
kinh điển phải được sắp xếp theo thứ tự mẫu tự. Lưu ý, các mạo từ
đứng đầu tựa đề tác phẩm không tính theo thứ tự mẫu tự. Đối với
các tác phẩm không thuộc kinh điển tôn giáo thì các yếu tố họ-tên-chữ
lót tác giả, tựa tác phẩm, nơi xuất bản, nhà xuất bản và năm xuất bản
hay tái bản phải hội đủ. Cách trình bày chúng cũng giống như cách
trình bày “thư mục tên tác giả hay thư mục tài liệu hai.” Sau đây là
cách trình bày thư mục tài liệu gốc thuộc kinh điển tôn giáo:
1. Chỉ
Có Bản Nguyên Tác
Tựa nguyên tác in nghiêng, số tập, ed. by
Họ+Tên người ấn hành. (Nơi XB: nhà XB, năm XB).
AÏguttara Nikya, 4 vols, ed. by Kasyapa,
Bhikkhu G. (Nalanda: Bihar Government, 1960).
Dgha Nikya, 3 Vols, ed. by Rhys Davids,
T.W., & Capenter, J. E. (London: PTS, 1890-1911).
2. Chỉ Có Bản Dịch
Tựa bản dịch in nghiêng, số tập, tr. by
Họ+Tên dịch giả. (Nơi XB: nhà XB, năm XB).
The Gradual Sayings, tr. Woodward, E. L. (London:
PTS, 1989).
Kinh Tăng Chi Bộ, tập II, Thích Minh Châu dịch.
(Hồ Chí Minh: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1996).
3. Gồm Nguyên Tác và Bản
Dịch
Tên nguyên tác in nghiêng, số tập, ed. by Họ+Tênï người ấn hành. (Nơi XB: Nhà
XB, năm XB) ; tr. by Họ+Tên dịch giả, Tên
dịch phẩm in nghiêng. (Nơi XB: NhàXB, năm XB).
Aơguttara Nikya, 6 Vols, ed. by Morris, R., Hardy, E., & Rhys Davids, C. A. F. (London: PTS,
1885-1910); tr. by Woodward, E. L., The Gradual
Sayings. (London: PTS, 1989).
Dgha Nikya, 3 Vols, ed. by Rhys Davids, T.W., & Capenter,
J. E. (London: PTS, 1890-1911); tr. by Nalsha, Maurice. The Long Discourses (London: PTS, 1987).
Khuddaka Nikya, 15 Vols, ed. by Tucci, G. (London: P.T.S); tr. by
Nanamoli, Bhikkhu. The Minor Reading. (London:
PTS, 1991).
Majjhima Nikya, 4 Vols, ed. by Trenck, V., Chalmer, R. & Mrs. Rhys Davids. (London: PTS, 1888-1925);
tr. by Horner, I.B. The Middle Length Sayings
(London: PTS, 1987).
Saịyutta Nikya, 4 Vols, ed. by Feer, L. & Mrs Rhys Davids. (London: PTS, 1884-1925);
tr. by Rhys Davids, The Kindred Sayings.
(London: PTS, 1989).
IX. CÁCH TRÌNH BÀY
THƯ MỤC THAM KHẢO NHẤN MẠNH NĂM XB
Thư mục tham khảo nhấn
mạnh năm xuất bản là thư mục đặt số năm xuất bản hay tái bản trong
ngoặc đơn ngay sau tên tác giả. Thư mục này tương ứng với loại chú thích vắn tắt nhấn mạnh năm xuất bản,
để giúp cho nhà nghiên cứu trình bày một cách ngắn gọn các chú thích
và không làm phân tâm độc giả trong khi đọc.
Loại thư mục này chỉ
áp dụng cho tài liệu nghiên cứu (Secondary
Sources / Studies) và tài liệu gốc không thuộc kinh điển tôn giáo (Primary Sources excluding Religious Bibles) và
không thể áp dụng cho tài liệu gốc thuộc kinh điển tôn giáo. Vì đối
với tài liệu gốc thuộc kinh điển tôn giáo, tên tác giả (được hiểu
là vị khai sáng ra tôn giáo đó) được tỉnh lược, do vậy, các kinh điển
gốc của tôn giáo được liệt vào thư mục tên tác phẩm.
Trình tự của thư mục
nhấn mạnh năm xuất bản như sau:
1. Đối với Tác Giả chỉ Có một Tác Phẩm
Họ + Chữ lót + Tên tác giả. (năm XB) Tựa tác phẩm in nghiêng. Nơi XB: năm XB.
Warder, A. K. (1991). Indian Buddhism. Delhi: Motilal Banarsidass.
Cassirer, Bruno. (1967). Thirty Years of Buddhist Studies: Selected Essays by
Eward Conze. London: Bruno Cassirer Publishers Ltd.
2. Đối với Tác Giả Có Nhiều Tác Phẩm
Khác Năm Xuất Bản
Về cách trình bày: cũng
giống như trường hợp “tác giả chỉ có một tác phẩm trong thư mục
tham khảo.”
Về trật tự: trật tự
của các tác phẩm này phải sắp theo biên niên kỷ, nghĩa là quyển nào xuất
bản trước thì đứng trước và ngược lại.
Warder, A. K. (1974). Introduction to Pali. London: PTS.
__________. (1991). Indian Buddhism. Delhi: Motilal Banarsidass.
3. Đối với Tác Giả Có Ít Nhất 2 Tác Phẩm
Xuất Bản cùng Năm
Để tránh sự lẫn lộn
trong khi trích dẫn cước chú hay hậu chú về các tác phẩm xuất bản
cùng năm của cùng một tác giả được nêu trong thư mục tham khảo, bạn
nên thêm ký hiệu a, b, c, d, ngay sau năm
XB của các tác phẩm, để phân biệt chúng. Chi tiết của cách cước chú
này, do đó, chỉ gồm:
Họ + Tên + Chữ lót tác giả. (năm a/b) Tên
tác phẩm in nghiêng. Nơi XB: năm XB.
Wittgenstein, L., (1954a) Philosophical Atomism. London: Basil Backwell.
__________. (1954b) Philosophical
Investigations. London: Basil Backwell.
X. CÁCH SOẠN THƯ MỤC
THAM KHẢO VỀ MỘT CHỦ ĐỀ
Để soạn thảo tốt thư
mục tham khảo về một chủ đề, người nghiên cứu cần cân nhắc một số
điều sau đây: — Giới hạn lãnh vực và phạm vi nghiên cứu? — Tác phẩm
thuộc chọn lọc hay toàn diện? — Loại hình tài liệu nào cần phải có?
— Hình thức loại mục nào cần sử dụng? Sau đó người nghiên cứu cần
lưu ý hay nắm vững các điểm sau đây:
1) Phạm Vi Văn Học của Đề Tài: Người
nghiên cứu cần nắm vững hiện có bao nhiêu tài liệu và loại hình tài
liệu nào cần thiết cho chủ đề nghiên cứu và cần đưa vào thư mục
tham khảo.
2) Công Cụ Hỗ Trợ Nghiên Cứu: Các công cụ
nghiên cứu cần tham khảo là các loại bách khoa (encyclopedias), danh bạ sách (directories), danh mục sách (catalogues), các dịch vụ tóm tắt tác phẩm,
luận văn và luận án (abstracting services),
các loại tạp chí (periodicals), luận văn
và luận án (dissertations and theses), mục
điểm sách (book reviews). Các công cụ
này một mặt giúp nhà nghiên cứu biết được các bài viết và sách vở
chuyên ngành hay liên hệ đến đề tài và mặt khác cung cấp cho nhà
nghiên cứu các kiến thức căn bản về đề tài nghiên cứu.
3) Kiến Thức về Chủ Đề: Bao gồm kiến
thức làm việc về chủ đề, kiến thức về các phân loại về chủ đề,
kiến thức về thuật ngữ về chủ dề, kiến thức về lịch sử đề tài
và kiến thức về các tác phẩm nền tảng về chủ đề.
4) Kiến Thức về Nguồn Tài Liệu: Người
nghiên cứu cần nắm vững cơ sở của nguồn tài liệu, nơi lưu hành,
hình thức, thời gian và ngôn ngữ của tài liệu, để tham khảo khi cần
đến.
5) Xác Định Đề Mục của Chủ Đề: Sau
khi biết được nguồn lưu hành tài liệu, người nghiên cứu cần xác định
chính xác loại đề mục của chủ đề để phân loại tài liệu đúng
cách và dễ dàng tra khảo.
6) Tham Vấn Chuyên Gia về Đề Tài: Người
nghiên cứu nên tham cứu các chuyên gia về chủ đề đang nghiên cứu để
nắm vững và biết thêm các nguồn tài liệu quý hiếm và chưa được công
bố.
7) Chọn Lọc Nguồn Tài Liệu: Có hai nguồn
tài liệu là tài liệu xuất bản và tài liệu chưa xuất bản. Tài liệu
đã xuất bản bao gồm các loại thư mục (bibliographies),
các bản chỉ dẫn về thuật ngữ, nhân danh và địa danh (indexes), danh mục đã in ấn (printed catalogues), các sách hướng dẫn
văn học về đề tài (guides to literatures),
dịch vụ tóm tắt luận án và sách (abstracting
services). . . Tài liệu chưa xuất bản bao gồm các danh mục thư viện (library catalogues), các tài liệu văn bản
thuộc các viện (institutional records) và
các sáng tác hay tư liệu cá nhân (individual
records).
8) Đánh Giá Nguồn Tư Liệu: Người nghiên
cứu cần đánh giá hoặc ghi chú về tính thẩm quyền của tác giả; phạm
vi, mục đích, phong cách tác phẩm và các đặc điểm nếu có, để tránh
mất thời giờ tìm đọc những tác phẩm không có giá trị và do đó,
không đáng đưa vào thư mục tham khảo.
9) Sắp Xếp Mục Loại: Bao gồm cách sắp xếp
theo phân loại, theo biên niên kỷ, theo mẫu tự tác giả và tác phẩm, theo
tài liệu gốc và theo tài liệu hai. Cách sắp xếp theo phân loại chỉ
thích ứng cho thư mục chủ đề. Cách sắp xếp theo biên niên kỷ chỉ
thích hợp với tác phẩm đồng tác giả. Cách sắp xếp theo mẫu tự tác
giả là loại phổ biến nhất và có thể áp dụng cho cả tác phẩm gốc
không thuộc kinh điển tôn giáo và tài liệu hai. Cách sắp xếp theo mẫu tự
tựa tác phẩm có thể áp dụng cho tài liệu gốc thuộc kinh điển tôn
giáo. Cách sắp xếp tài liệu gốc thuộc tôn giáo có thể tỉnh lược tên
tác giả. Cách sắp xếp tài liệu gốc không thuộc tôn giáo và tài liệu
hai thường theo thứ tự mẫu tự tên tác giả.
Nói cách khác, sau khi chọn
đề tài, tham vấn các chuyên gia, tìm đọc thư viện và các công cụ hỗ
trợ nghiên cứu, người nghiên cứu có được kiến thức căn bản về
văn học và phạm vi đề tài rồi tiến hành chọn và làm mục loại cho thư
mục của mình. Mục loại phải được sắp theo tài liệu gốc trước và
tài liệu nghiên cứu sau. Người nghiên cứu phải trình bày theo mặc ước
quốc tế về phép viết hoa, in nghiêng, chấm phết và trật tự trước sau
của các chi tiết tên tác giả, tựa tác phẩm, người biên tập, dịch giả,
nơi xuất bản, nhà xuất bản, năm xuất bản hay tái bản cho từng loại
hình tài liệu khác nhau, như đã được trình bày trong chương này.
Điều
cần lưu ý là trong quá trình nghiên cứu, nhà nghiên cứu phải biết tận
dụng tài liệu trích dẫn và tham khảo để làm sáng tỏ các luận điểm
của mình. Nguồn tài liệu trích dẫn và tham khảo, do đó, trở thành công
cụ đắc lực trong việc nối dài tư tưởng của người viết đến người
đọc thông qua tiếng nói của các nhà học giả trong cùng lãnh vực. Tại
Việt Nam, thường có quan niệm cho rằng tác phẩm hay không cần trích dẫn
nhiều. Tệ hơn nữa, có người còn cho việc trích dẫn kinh sách chỉ là
công việc "từ chương." Quan niệm này chỉ đúng với các loại
sách tư tưởng và tôn giáo. Đối với loại sách này đối tượng độc
giả thường là những người tìm kiếm các thông tin "sống" hoặc
những "lời hay ý đẹp" để ứng dụng vào đời sống. Họ không
cần biết đến xuất xứ của những ý tưởng được trình bày trong
sách, và ai là tác giả của chúng. Họ chỉ cần đọc các thông tin và kiến
thức được chuyển tải trong sách bằng một giọng văn nhẹ nhàng, trong
sáng, để mà thưởng thức hay ứng dụng. Tuy nhiên, sách loại này không
giúp nhiều cho giới độc giả muốn truy tầm nguồn gốc hay tính nguyên thủy
của tài liệu và thông tin. Quý độc giả của loại sách này thường thích
truy nguyên nguồn tài liệu, do đó các trích dẫn và thư mục tham khảo sẽ
trở thành nguồn thông tin quý báu, giúp họ tiến sâu vào lãnh vực nghiên
cứu và đóng góp nhiều điều mới mẻ cho học giới.
Nói
tóm lại, tuỳ theo bản chất, đối tượng và mục tiêu mà nhà nghiên cứu
nên chọn lựa cách viết thích hợp cho mình. Dù có dẫn chứng và minh hoạ
bằng nhiều tác phẩm hay không, điều mà nhà nghiên cứu cần lưu ý là phải
phát triển càng nhiều càng tốt các quan điểm, cách tiếp cận và các
góc độ nghiên cứu riêng để tạo nên đặc điểm của tác phẩm. Có như
vậy thì tác phẩm của mình mới thật sự đóng góp vào văn học của lãnh
vực mà mình đang nghiên cứu.