- CHÚ GIẢI NGẠ QUỶ
SỰ
- Dịch từ Pali sang Anh Ngữ: PETER
MASEFIELD
Mục Lục
Lời giới thiệu
Giải thích ý nghĩa bên trong.
Chú giải về những câu chuyện Ngạ quỉ.
Chương
I. Xà Phẩm (Uragavagga)
I.1 Phước điền quỉ sự
(Khettuupamaa-Petavatthuva.n.nnanaa)
I.2 Trủng quỉ sự (Suukara-Petavatthuva.n.nnanaa)
I.3 Xú khẩu quỉ sự (Puutimukha-Petavatthuva.n.nanaa)
I.4 Tích chuyện cái bánh đồ chơi (Pi.t.thadhiitalika)
I.5 Hộ ngoại quỉ sự (Tiroku.d.da-Petavatthuva.n.nanaa)
I.6 Thực ngũ nhi quỉ sự (Pa~ncaputta khaadaka)
I.7 Thực thất nhi quỉ sự (Sattaputtakhaadaka)
I.8 Ngưu quỉ sự (Go.na-Petavatthuva.n.nanaa)
I.9 Ðại chức vật sư quỉ sự (Mahaapesakaara-Petavatthuva.n.nanaa)
I.10 Ngốc đầu quỉ sự (Khallaa.tiya-Petavatthuva.n.nanaa)
I.11 Tượng quỉ sự (Naaga-Petavatthuva.n.nanaa)
I.12 Xà quỉ sự (Uraga-Petavatthuva.n.nanaa)
Chương
II. Uất Ba Lợi Phẩm (Ubbariivagga)
II.1 Ly luân hồi quỉ sự
(Sa.msaaramocaka-Petavatthuva.n.nanaa)
II.2 Xá Lợi Phất Mẫu quỉ sự (Saariputtattheramaatu- Petavatthuva.n.nanaa)
II.3 Mẫu quỉ sự (Mattaa-Petavatthuva.n.nanaa)
II.4 Nan Đà quỉ sự (Nandaa-Petavatthuva.n.nanaa)
II.5 Nhĩ hoàn nữ quỉ sự (Ma.t.taku.n.dali-Petavatthuva.n.nanaa)
II.6 Hắc quỉ sự (Ka.nha-Petavatthuva.n.nana)
II.7 Tài hộ quỉ sự (Dhanapaala-Petavatthuva.n.nanaa)
II.8 Tiểu thương quỉ sự (Cuu.lase.t.thi-Petavatthuva.n.nanaa)
II.9 Quỉ sự về Ankura (A"nkura-Petavatthuva.n.nanaa)
II.10 Uất Đa La Mẫu quỉ sự (Uttaramaatu-Petavatthuva.n.nanaa)
II.11 Tư Ngạ quỉ sự (Sutta-Petavatthuva.n.nanaa)
II.12 Vô nhĩ khuyển cẩu quỉ sự (Ka.n.namu.n.da-Petavatthuva.n.nanaa)
II.13 Uất Ba Lợi quỉ sự (Ubbarii-Petavatthuva.n.nanaa)
Chương
III. Tiểu Phẩm (Cu.lavagga)
III.1 Bất đáng quỉ sự
(Abhijjaamaana-Petavatthuva.n.nanaa)
III.2 Quỉ sự về Sanuvasi (Saanuvaasi-Petavatthuva.n.nanaa)
III.3 Tạo Xa quỉ sự (Rathakaara-Petavatthuva.n.nanaa)
III.4 Mạt quỉ sự (Bhusa-Petavatthuva.n.nanaa)
III.5 Tiểu nhi quỉ sự (Kumaara-Petavatthuva.n.nanaa)
III.6 Sê Rí Ni quỉ sự (Serinii-Petavatthuva.n.nanaa)
III.7 Liệp lộc quỉ sự (Migaludda-Petavatthuva.n.nanaa)
III.8 Ðệ nhị liệp lộc quỉ sự
III.9 Trá khi Ngạ quỉ sự (Kuu.tavinicchayika-Petavatthuva.n.nanaa)
III.10 Giới bất kỉnh thấp quỉ sự (Dhaatuviva.n.na-Petavatthuva.n.nanaa)
Chương
IV. Ðại Phẩm (Mahaavagga)
IV.1 Ăm Bá Sắc Khá Rá quỉ sự
(Ambasakkhara-Petavatthuva.n.nanaa)
IV.2 Sê Rít Sá Ká quỉ sự (Serissaka-Petavatthuva.n.nanaa)
IV.3 Nan Đà quỉ sự (Nandaka-Petavatthuva.n.nanaa)
IV.4 Rê Vát Ti quỉ sự (Revatii-Petavatthuva.n.nanaa)
IV.5 Cam giá quỉ sự (Ucchu-Petavatthuva.n.nanaa)
IV.6 Tiểu nhi quỉ sự (Kumaara-Petavatthuva.n.nanaa)
IV.7 Vương nhi quỉ sự (Raajaputtapetavatthuva.n.nanaa)
IV.8 Phẩn thực quỉ sự (Guuthakhaadaka-Petavatthuva.n.nanaa)
IV.9 Thực phẩn quỉ sự (Guuthakhaadaka-Petavatthuva.n.nanaa)
IV.10 Quần tập quỉ sự (Ga.na-Petavatthuva.n.nanaa)
IV.11 Hoa tử quỉ sự (Paa.taliputta-Petavatthuva.n.nanaa)
IV.12 Âm Ba quỉ sự (Amba-Petavatthuva.n.nanaa)
IV.13 Mộc trục quỉ sự (Akkharukkha-Petavatthuva.n.nanaa)
IV.14 Súc tài quỉ sự (Bhogasa.mhara.na-Petavatthuva.n.nanaa)
IV.15 Thương tử quỉ sự (Se.t.thiputta-Petavatthuva.n.nanaa)
IV.16 Quỉ sự về sáu chục ngàn cái búa (Sa.t.thikuu.tasahassa-
Petavatthuva.n.nanaa)
Kết luận |
-ooOoo-
LỜI GIỚI THIỆU CỦA DỊCH GIẢ
Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng.
Kính thưa quí Phật tử và quí độc giả uyên thâm.
Tập chú giải Ngạ quỉ sự này được
khởi dịch vào khoảng sau mùa dâng y năm vừa rồi và hoàn mãn vào ngày
02, tháng 02, năm 1994. Qua bộ chú giải này, chúng tôi có một vài nhận
xét như sau:
Những chúng sanh nào trong cõi người
mà chưa chứng đắc các tầng thiền, nghĩa là tâm vẫn còn bị chi phối bởi
ngũ dục: Ðối với những người có Ðức tin trong chánh Pháp thường gieo
tạo nhiều việc phước như bố thí, trì giới v.v..., nhưng đôi khi vẫn
còn phạm phải chút ít các nghiệp về thân, khẩu và ý; Do đó, sau khi chết
đều tái sanh trong cõi Dục. Nếu vào lúc lâm chung mà thiện nghiệp được
tích lũy mạnh hơn sanh lên trong tâm thời sẽ được sanh về một trong sáu
tầng trời Dục giới hay cõi nhân loại. Tuy nhiên, nếu có ác nghiệp nào
đó đã làm trong quá khứ sanh lên trong tâm vào lúc lâm chung thời người
ấy phải tái sanh trong bốn khổ cảnh: Hoặc là địa ngục, Súc sanh, A tu
la, hoặc là sanh làm Ngạ quỉ. Nếu ác nghiệp ấy quá nặng nề, thời phải
trực tiếp sanh trong địa ngục, rồi sau đó sanh trong cõi Ngạ quỉ hoặc
- Súc sanh v.v... Nhưng khi sanh làm người, sẽ chịu nhiều bất hạnh (đây
là trường hợp chung chung chứ không tuyệt đối). Bằng ngược lại,nếu
ác nghiệp yếu hơn và có tiềm ẩn trong tâm một số thiện nghiệp, nhưng
vì lúc mạng chung tâm đi tái sanh là tâm bất thiện, nên người này có thể
sanh vào cõi Ngạ quỉ, hoặc nửa Ngạ quỉ nửa chư Thiên, hoặc sanh trực
tiếp vào cõi súc sanh.
Trong kinh có dạy rằng: "Giới ngăn
ngừa cho chúng sanh không sanh vào các khổ cảnh". Nhưng cái gì khiến
cho giới sanh lên trong tâm? Trong tạng luật có dạy rằng, tàm và quí - hổ
thẹn và ghê sợ tội lỗi, là hai trạng thái của tâm thiện. Chúng như
hai vị Kiện tướng hùng dũng dẫn đường cho Ðạo quân thiện Pháp vươn
tới để người ta thành tựu những việc phước. Chính bộ Ngạ quỉ này
mà sau khi đọc xong, chắc chắn quí vị sẽ không nhiều thì ít thấy rõ nỗi
khổ cùng cực mà các Ngạ quỉ phải lãnh chịu trong khổ cảnh ấy. Và do
đó, sẽ sanh tâm ghê sợ và hổ thẹn tội lỗi; nhờ vậy mà giới của
quí vị sẽ được củng cố và trong sạch. Ðó là lợi ích của việc thọ
trì bộ chú giải Ngạ quỉ sự này.
Ðức Phật có dạy rằng: Có những
nghiệp ác mà do tác ý khéo léo của những thiện nhân khiến cho nó trở
thành vô hiệu nghiệp, nghĩa là nó không thể cho quả được như hạt giống
không có chỗ đất và những điều kiện thích hợp để cho nó nẩy mầm,
đành phải khô héo và tiêu tan. Nhưng có những nghiệp mà dầu chư Thiên
có Ðại oai lực hay phạm thiên hay ngay cả Chư Phật trong kiếp chót của
các Ngài cũng không thể tránh khỏi được. Do vậy, tôi xin lấy lời
khuyên mình để thưa với quí vị rằng: Chúng ta không nên khinh thường một
ác nghiệp nào cả, dầu nhỏ nhặt đến đâu, bởi vì khi nó cho quả thì
sự thọ lãnh của nó thật là cay đắng và đau khổ. Tuy nhiên, cũng có những
kẻ thiếu trí tự cho rằng mình đã làm quá nhiều thiện nghiệp, thì những
điều ác nhỏ nhặt có thấm vào đâu, hoặc là nếu nó có cho quả thì ta
cũng có thể chịu được, vì một việc thiện lớn. Nhưng đối với họ
là nhỏ, còn những người có tàm có quí thì xem những ác nghiệp nhỏ tựa
như núi Thái sơn. Ở đây tôi tán dương những người làm việc thiện dầu
ở bất cứ tôn giáo nào! Nhưng tôi không khen ngợi và tán thành câu:
"Sát nhất miêu cứu vạn thử", bởi vì đức Phật có dạy rằng,
"Ðiều nào đem lại lợi ích cho người và cho chính mình thì hãy làm,
bằng ngược lại thì không nên làm." Do đó, khi làm việc thiện, ta
nên rán tránh những điều ác có thể len lỏi vào.
Cha mẹ hay thân bằng quyến thuộc của
chúng ta đã quá vãng thì ta nên làm phước về bốn món vật dụng như vật
thực v.v... để hồi hướng cho những quyến thuộc ấy của chúng ta. Ðó
là cách báo đáp ân sâu đối với những bậc hữu ân đã quá vãng, biết
đâu những quyến thuộc ấy đã sanh trong cõi Ngạ quỉ hay làm một Vimaana
Peta, nghĩa là nửa chư thiên nửa Ngạ quỉ; Nếu không thì phước ấy
cũng không vô ích cho chính ta. Ngoài cách cầu siêu ấy ra thì không còn
cách nào hơn.
"Pháp thí thù thắng hơn tất cả
các sự bố thí khác". (Phật ngôn).
Do phước báu của Sự phiên dịch bộ
kinh này, xin hồi hướng đến chư Thiên ở khắp mười phương, nhất là
Vua trời Ðế Thích và Tứ Ðại Thiên Vương, cầu mong các Ngài hoan hỷ thọ
lãnh Pháp Thí ấy. Sau khi đã thọ lãnh rồi; xin hộ trì cho cha mẹ của
chúng tôi được an vui, mạnh khỏe, tật bệnh tiêu trừ, tai qua nạn khỏi
và được tiến hoá trên Ðường Phật Ðạo, xin hộ trì cho chư thí chủ
cũng được thành tựu các quả lành như ý nguyện, và cho tất cả chúng
sanh được thanh bình hạnh phúc, mưa thuận gió hoà, người người thương
yêu lẫn nhau, dìu dắt nhau vươn tới hạnh phúc tối thượng.
Người ta nói rằng: Dịch là phản,
nhưng với lòng tha thiết với giáo Pháp của Ðức Phật mà trình độ phiên
dịch thì có hạn, nên không thể tránh khỏi thiếu sót; mong chư Ðại Ðức
Tăng và chư độc giả uyên thâm hãy niệm tình hỉ xã.
Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Mong thay!
Tỳ kheo Minh Huệ.
-ooOoo-
CHÚ GIẢI VỀ NHỮNG
CÂU CHUYỆN NGẠ QUỈ
Con xin thành kính tán dương Ðức Thế
Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri.
Lời Phi Lộ
1. Con xin đảnh lễ Ðấng cứu tinh
có lòng từ bi quảng đại, Bậc đã vượt qua Ðại Dương của các Pháp
có thể biết được, và bằng nhiều phương tiện đã thuyết giảng các
pháp vi diệu và thâm sâu.
2. Con xin đảnh lễ Pháp cao thượng,
được đức Chánh Biến Tri tôn trọng, nhờ đó mà những người có trí
tuệ và giới đức đều được dẫn dắt ra khỏi thế gian này.
3. Con xin đảnh lễ Chư Thánh Tăng, là
Phước điền vô thượng gồm những bậc có những đức tánh về giới đức
v.v... đã đứng vững trong các thánh Ðạo.
4. Do phước báu của sự làm lễ ba
ngôi Tam Bảo, do hồng ân chói lọi của Tam Bảo, xin giúp con diệt trừ những
chướng ngại ở khắp mọi nơi.
5. Chính do sự khác biệt về sự hưởng
quả của nghiệp này hay nghiệp khác mà các Ngạ quỉ đã gieo tạo trong những
kiếp quá khứ, khiến cho kiếp sống này hay kiếp sống nọ sanh làm một
Ngạ quỉ đã xảy đến cho chúng.
6. Sự giải rõ điều này là giáo
Pháp ấy của chư Phật, làm cho thấy rõ sự thọ lãnh quả của các nhiệp,
đặc biệt khiến cho sự kinh cảm sanh lên.
7. Và điều ấy có cơ sở trên một
sự hiểu biết hoàn toàn (Về chủ đề), tức là những câu chuyện Ngạ
quỉ được trùng tuyên bởi những vị Thầy vĩ đại trong bộ
Khuddaka-Nikaaya.
8. Hoàn toàn dựa vào đó theo cách
chú giải cổ xưa về những câu chuyện Ngạ quỉ và giải thích chủ đề
đặc biệt ở nhiều chỗ.
9. Giải rõ một cách rõ ràng và
không có lộn xộn những ý nghĩa vi tế theo đúng với những quan điểm của
người trú ngụ trong Tịnh xá Mahaavihaara,
10. Tôi sẽ trình bày bằng hết khả
năng của mình một bài giải thích sáng chói về ý nghĩa của chúng. Với
lòng tôn kính đúng mức, xin hãy chú tâm theo dõi điều mà tôi sẽ giải
ra.
Ở đây câu chuyện Ngạ quỉ (kể) về
điều này hay điều nọ là nghiệp làm nguyên nhân cho sự đạt đến kiếp
sống sanh làm Ngạ quỉ của chúng, Bắt đầu bằng câu chuyện về đứa
con trai của vị thương nhân giàu có. Do đó, những câu chuyện Ngạ quỉ từ
bài kinh mà bắt đầu bằng câu kệ, "Những vị A la hán như một thửa
ruộng". Diễn ra bằng lối giải thích rõ ràng ý nghĩa của chúng. Bây
giờ những câu chuyện Ngạ quỉ này, được nói ra cho ai, được nói ở
đâu, khi nào, và tại sao những câu chuyện ấy được nói ra? Tương truyền
rằng những câu chuyện Ngạ quỉ này tiếp diễn trong hai phần, do nhân cần
thiết đã sanh lên và do những câu hỏi và những câu trả lời. Ở đây
cái mà diễn ra do nhân cần thiết đã sanh lên, chừng này được nói ra bởi
đức Thế Tôn, trong khi phần kia khi được hỏi bởi Trưởng lão Naarada
và những vị khác, và được trả lời bởi Ngạ quỉ này hay Ngạ quỉ
khác. Tuy nhiên, bởi vì phần này hay phần kia của những câu hỏi và những
câu trả lời khi đã được nêu lên bởi Trưởng lão Naarada và những vị
khác thì bậc Ðạo sư sẽ lấy phần này hay phần nọ làm nguyên nhân cần
thiết đã sanh lên và thuyết giảng giáo Pháp cho hội chúng đã hội họp
ở đó; do đó toàn thể những câu chuyện Ngạ quỉ được xem là đã được
nói ra bởi chính bậc Ðạo sư. Khi bậc Ðạo sư đã chuyển bánh xe của
Giáo Pháp cao thượng và đang lưu trú ở chỗ này hay chỗ nọ, như ở
Raajagaha và những nơi khác. Theo lệ thường, bài pháp nầy hay bài Pháp
khác bao gồm một câu chuyện Ngạ quỉ đã xảy ra với mục đích làm cho
thấy rõ sự thọ lãnh quả của nghiệp của những chúng sanh do bởi những
câu hỏi và những câu trả lời mà điều này hay điều khác (đã tình cờ)
sanh lên nguyên nhân cần thiết. Tới chừng mức như vậy, đây là câu trả
lời chung cho những câu hỏi nói về "do ai mà chúng được nói ra"
v.v... Tuy nhiên, vấn đề này sẽ xuất hiện đặc biệt trong bài giải
thích về ý nghĩa của câu chuyện này hay câu chuyện khác.
Về Tam tạng Pi.taka, tức là Luật tạng,
Kinh tạng, và tạng Abhidhamma, những câu chuyện Ngạ quỉ này được bao gồm
trong Kinh tạng. Ðối với năm bộ Nikaaya, tức là Trường Bộ Kinh, Trung Bộ
Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh, và Tiểu Bộ Kinh, chúng được
bao gồm trong Tiểu Bộ Kinh. Về chín chi phần của giáo Pháp, tức là những
bài pháp văn xuôi, văn xuôi và kệ, những bài thuyết giảng, những câu kệ,
những câu kệ cảm hứng, Kinh Phật thuyết như vậy, những câu Chuyện Bổn
sanh, những điều kỳ diệu, linh tinh, chúng được phân loại là những
câu kệ. Về Tám Mươi Bốn Ngàn Pháp Môn của Giáo Pháp được thừa nhận
bởi vị quan giữ kho Chánh Pháp như vầy:
"Tám Mươi Hai Ngàn tôi đã
lãnh hội Từ Ðức Phật, và Hai Ngàn từ vị Tỳ kheo, là Saariputta. Tám Mươi
Bốn Ngàn Pháp Môn này là pháp luân chuyển". Chuyện Ngạ quỉ được
phân loại là một số ít trong những pháp Môn này. Bằng những phần tụng
đọc, có đến bốn phần tụng đọc. Về phẩm thì chúng được phân loại
thành bốn phẩm: Xà Phẩm, Phẩm Ubbarii (Uất-ba-lợi), Tiểu Phẩm và Ðại
Phẩm. Về những phẩm này, có mười hai câu chuyện trong phẩm đầu, mười
ba câu chuyện trong phẩm thứ hai, mười câu chuyện trong phẩm thứ ba, và
mười sáu câu chuyện trong phẩm thứ tư. Như vậy, bộ kinh này được tô
điểm bởi năm mươi mốt câu chuyện cả thảy. Ở đây về phẩm thì Xà
phẩm là Phẩm thứ nhứt; về những câu chuyện thì chuyện Ngạ quỉ như
thửa ruộng là câu chuyện thứ nhứt, hơn nữa, trong câu chuyện này câu kệ
đầu tiên là: "Những vị A la hán giống như một thửa ruộng".
Bây giờ, đây là câu chuyện ấy.
-ooOoo-