- CHÚ GIẢI NGẠ QUỶ
SỰ
- Dịch từ Pali sang Anh Ngữ: PETER
MASEFIELD
[3.c]
III.7 LIỆP LỘC QUỈ SỰ
(MIGALUDDA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Ngươi còn trẻ và được tôn
kính bởi những người nam và những người nữ". Pháp thoại này được
thuyết giảng trong khi Ðức Thế Tôn đang ngụ ở Ve.luvana, liên quan đến
một Ngạ quỉ mà trước kia là người săn Nai.
Tương truyền rằng, tại thành Vương-xá,
có một người thợ săn nọ kiếm sống bằng nghề bắn và giết nai. Anh
ta có một người bạn là một thiện nam, là người mà, vì không thể thuyết
phục anh ta từ bỏ những ác nghiệp luôn khi, bèn thức tỉnh anh ta làm những
việc phước vào lúc ban đêm khi nói rằng, "này bạn, hãy từ bỏ sát
sanh vào lúc ban đêm đi." Anh ta thường không làm điều này vào lúc
ban đêm và thường giết chúng sanh chỉ trong ban ngày mà thôi. Ðúng lúc,
anh ta chết và sanh làm một Vimaanapeta ở gần Raajagaha, chịu nhiều thống
khổ suốt ngày, nhưng thường làm hài lòng cho chính mình, có và được
cung cấp những khoái lạc của ngũ dục vào lúc ban đêm. Khi trông thấy
anh ta, thì Trưởng lão đáng kính Naarada bèn hỏi anh ta bằng câu kệ này:
1. "Ngươi còn trẻ và được tôn
kính bởi những nam nhân và những nữ nhân; ngươi trông rất đẹp nhờ những
dục lạc, nhưng vào lúc ban ngày thì ngươi lại bị lãnh quả khổ - Ngươi
đã làm gì trong kiếp quá khứ của ngươi?"
Chú giải:
1. ÐƯỢC TÔN KÍNH BỞI
NHỮNG NGƯỜI ÐÀN ÔNG VÀ NHỮNG NGƯỜI ÐÀN BÀ (Naranaaripurakkhato): Ðược
tôn kính bởi, được hầu hạ bởi những vị Devaputta và những vị
Devadhiitaa, là những người hầu. NGƯƠI TRÔNG RẤT ÐẸP (sobhasi): ngươi
chiếu sáng rực rỡ vào lúc ban đêm do nhờ ngươi được cung cấp bởi những
thứ này - Ðây là ý nghĩa. Vì lý do này vị ấy nói rằng, "NHƯNG VÀO
LÚC BAN NGÀY NGƯƠI QUẢ THẬT ÐÃ CHỊU KHỔ" (divasa.m anubhosi
kaara.na.m): Nhưng vào lúc ban ngày ngươi lại chịu nhiều cực hình, sự
tiêu diệt. Hay nói cách khác (chúng ta nên đọc là) Vào lúc ban đêm
(rajinii): Vào lúc ban đêm (rattiisu), Ye là một bất biến từ. NGƯƠI ÐÃ
LÀM GÌ TRONG KIẾP QUÁ KHỨ? (kim akaasi purimaaya jaatiyaa): Ngươi đã làm nghiệp
gì trong kiếp quá khứ của ngươi khiến xảy đến hạnh phúc và đau khổ
này, nghĩa là hãy nói cho ta biết điều này.
Khi nghe qua điều này, Ngạ quỉ nói
những câu kệ này để cho Trưởng lão biết những nghiệp mà nó đã làm:
2. Trong quá khứ, ở thành Raajagaha
xinh đẹp, ở giribbaja khả ái ấy, tôi đã làm một người thợ săn độc
ác và có bàn tay dính máu.
3. Bị ô nhiễm trong tâm, tôi sống
không có sự thu thúc, luôn luôn hướng đến sự làm hại những kẻ khác,
vô cùng độc ác đối với những chúng sanh vô tội, là những sanh vật
ở khắp nơi.
4. Tôi có một người bạn có tâm từ
ái, là một thiện nam có đức tin, và người ấy khi cảm thấy thương hại,
đã nhiều lần khuyên tôi khi nói rằng:
5. "Ðừng làm những ác nghiệp,
này bạn, đừng đi đến trạng thái đau khổ, nếu bạn muốn được hạnh
phúc sau khi chết, hãy tránh xa sự sát sanh một cách bừa bãi này".
6. Tôi lắng nghe nghững lời này của
vị ấy đang muốn cho tôi được hạnh phúc, và mong mỏi cho tôi được hạnh
phúc tuy nhiên tôi, vì đã lâu quen với những ác nghiệp mà thiếu trí suy
xét, đã không làm theo đầy đủ lời khuyên của anh ta.
7. Một lần nữa, con người rất có
trí tuệ ấy, do lòng bi mẫn, đã khuyên tôi tỏ sự thu thúc khi nói rằng,
"Nếu ban ngày bạn phải sát sanh, thời hãy thu thúc vào lúc ban đêm."
8. Bởi vậy tôi chỉ giết chúng sanh
vào lúc ban ngày mà thôi, nhưng thu thúc vào lúc ban đêm, không làm những
điều ấy - và nay, vào ban đêm tôi tự làm thoả mãn chính mình nhưng vào
lúc ban ngày tôi có một kiếp sống đau khổ và bị ăn thịt.
9. Do bởi thiện nghiệp ấy nên vào
lúc ban đêm tôi hưởng những dục lạc của Chư thiên, trong khi đó vào
lúc ban ngày thì ngững con chó săn hùng hổ sông vào tôi từ khắp các hướng
để ăn thịt tôi.
10. Bấy giờ những người mà tiếp tục
đặt mình vào, và thường xuyên chuyên tâm vào lời dạy của Ðức Sugala
- thiết nghĩ, riêng những người này sẽ đạt đến trạng thái bất tử
là vô vi.
Chú giải:
2. Ở đây NGƯỜI THỢ
SĂN (Luddho): Người mà độc ác. CÓ BÀN TAY DÍNH MÁU (Lohitapaa.ni): có hai
bàn tay mà đã bị dính máu do sự giết thú nhiều lần - ÐỘC ÁC
(daaruno): người độc ác, nghĩa là người làm hại những sanh vật.
3. VÔ HẠI avirodhakaresu = avirodha.m
karontesu (phối hợp cách): Như là những con nai hay chim v.v...
5. BUÔNG THẢ (asa.myama.m): Không được
kiểm soát, có bản tánh ác.
6. LỜI KHUYÊN CỦA VỊ ẤY
(sakalaanusaasani.m): Toàn thể lời khuyên của vị ấy, nghĩa là sự từ bỏ
những ác nghiệp luôn khi. ÐÃ LÂU QUEN VỚI ÐIỀU ÁC (cirapaapaabhirato): Quen
với điều ác trong một thời gian dài.
7. SỰ THU THÚC (sa.myame): Hạnh kiểm tốt.
KHUYÊN BẢO: nivesayi = nivesesi (thể văn phạm hoán chuyển). NẾU BAN NGÀY BẠN
PHẢI GIẾT NHỮNG CHÚNG SANH THỜI BAN ÐÊM BẠN HÃY TỎ SỰ TỰ CHẾ (sace
divaa hanasi paa.nino atha te ratti.m bhavatu sa.myamo): Ðiều này cho thấy cách mà
anh ta được khuyên. Người ta nói rằng vào lúc ban đêm anh ta cũng chuyên
tâm vào việc sát sanh, trong đó anh ta đặt những cái cọc và những cái bẫy
v.v...
8. VÀO BAN NGÀY TÔI CÓ MỘT KIẾP SỐNG
ÐAU KHỔ VÀ BỊ ĂN THỊT (divaa khajjaami duggato): Bây giờ tôi đã đi đến
cõi khổ, đã đi đến chỗ đau khổ lớn, và tôi bị ăn thịt vào ban
ngày. Người ta nói rằng quả nghiệp này của anh ta đã theo đúng với
nghiệp của anh ta, là nghiệp mà anh ta đã sai những con chó xé xác những
con nai vào ban ngày - như vậy, suốt thời gian của ban ngày những con chó
to lớn thường xông vào anh ta và làm cho thân của anh ta tan nát chẳng còn
gì ngoài xương mà thôi, trong khi vào lúc đêm đến, anh ta thường lấy lại
trạng thái như trước của mình và hưởng sự vinh quang của Chư thiên.
Vì lý do này khiến người ta nói rằng, 'vì thiện nghiệp ấy, nên vào ban
đêm tôi hưởng những dục lạc của chư thiên, trong khi vào lúc ban ngày
thì những con chó săn tàn bạo nhẩy xổ vào tôi từ khắp các hướng và
ăn thịt của tôi.'
9. Ở đây HUNG HĂNG (pa.tihataa): Trong
trạng thái hung hăng tựa như cú nhảy tiêu diệt. TỪ KHẮP CÁC HƯỚNG ÐỂ
ĂN THỊT TÔI (sama~ntà kaaditu.m): Chúng rơi vào tôi từ khắp các hướng để
xé xác của tôi. điều này được nói đến liên quan đến suốt thời
gian mà chúng đến khiến cho anh ta vô cùng sợ hãi. Khi chúng đã xông vào
anh ta và khiến cho anh ta chỉ còn xương, thì chúng lại tiếp tục bỏ đi.
Khi nó đã nói như vậy thì Trưởng lão
bèn nêu lên vấn đề ấy với Bậc Ðạo sư. Bậc Ðạo sư lấy vấn đề
ấy làm nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết pháp đến hội chúng
đã hội họp ở đó. Mọi chuyện đều giống y như đã được nêu ra ở
trên.
-ooOoo-
III.8 ÐỆ NHỊ LIỆP LỘC
QUỈ SỰ
"Trong ngôi nhà có tháp nhọn và
trong cung điện." Pháp thoại này được thuyết giảng trong khi Bậc Ðạo
sư đang ngụ ở Ve.luvana, liên quan đến một Ngạ quỉ khác mà trước kia
cũng là một thợ săn nai.
Tương truyền rằng tại Raajagaha, có
một người thợ săn nai trẻ nọ, do có tài săn bắn, đã từ bỏ những
tiện nghi về của cải của anh ta và ngày đêm đi đây đó để săn nai. Một
vị thiện nam nọ là bạn hữu của anh ta, do lòng bi mẫn, cho anh ta lời
khuyên này, "này bạn, hãy từ bỏ sát sanh, e rằng sẽ có đau khổ dành
cho bạn trong một thời gian dài". Nhưng anh ta chẳng quan tâm. Rồi vị
thiện nam ấy thỉnh một vị Trưởng lão nọ mà đã có tâm tu tiến và đã
đoạn trừ các lậu hoặc, khi nói rằng, "Bạch Ngài, xin Ngài hãy thuyết
pháp đến một người đàn ông đó đó bằng cách nào đó để anh ta từ
bỏ sự sat sanh." Bởi vậy vào một hôm nọ, vị Trưởng lão ấy,
trong khi đang đi quanh thành Raajagaha để khất thực, đứng tại cửa nhà của
anh ta. Khi trông thấy Ngài, thì người săn nai, đầy tôn kính, đi ra để
đón Ngài, mời Trưởng lão vào nhà và dâng chỗ ngồi đến Truởng lão.
Trưởng lão ngồi xuống trên chỗ ngồi đã định sẵn. Khi anh ta đi đến
Trưởng lão, anh ta cũng ngồi xuống. Trưởng lão nói cho anh ta biết về những
quả dữ của sự sát sanh và rồi giải thích những lợi ích của sự
kiêng tránh, nhưng khi anh ta nghe qua đi?u này thì anh ta không muốn từ bỏ
nó. Rồi Trưởng lão nói với anh ta rằng, "Này bạn, nếu bạn không
thể từ bỏ hoàn toàn được, thì tối thiểu cũng hãy từ bỏ nó vào
lúc ban đêm". "Tốt lắm, thưa Ngài, con sẽ tránh xa". Phần
còn lại tương tự như câu chuyện ở ngay trước, ngoại trừ rằng ở chỗ
mà những câu kệ có liên quan đến thì Trưởng lão hỏi anh ta bằng ba
câu kệ này:
1. Trong ngôi nhà có tháp nhọn và
trong cung điện, ở trên chiếc giường được trải bằng lông cừu dài,
ngươi vui thích với âm thanh ngọt ngào của năm loại nhạc.
2. Rồi vào lúc tàn đêm, đến khi mặt
trời mọc, ngươi lại đi đến bãi tha ma, ở đó ngươi chịu nhiều thống
khổ.
3. Bây giờ ác nghiệp nào được làm
bởi ngươi do thân khẩu, hoặc ý? do kết quả của nghiệp nào khiến ngươi
chịu sự thống khổ này?"
Rồi Ngạ quỉ ấy giải thích vấn đề
với Trưởng lão:
4. "Trong thành Raajagaha khả ái,
ở Giribbaja xinh đẹp ấy, trong quá khứ con là thợ săn nai, con là người
độc ác, không tự chế.
5. Con có một người bạn có tâm từ
ái, là một vị thiện nam có đức tin và, một vị Sa-môn, một vị Saavaka
của đức Gotam, thường sống nhờ vào gia đình của anh thiện nam bằng sự
để bát; dầu vị ấy, có lòng thương hại đến con, khuyên can con nhiều
lần. Khi nói rằng:
6. "Ðừng làm những ác nghiệp,
này bạn, đừng đi đến trạng thái đau khổ; Nếu bạn muốn được hạnh
phúc sau khi chết; thời hãy tránh xa sự sát sanh này."
7. Con lắng nghe những lời này của vị
ấy, là người muốn cho con được hành phúc và mong mỏi cho con được lợi
ích, tuy nhiên con, vì quá lâu đã quen với điều ác và thiếu tuệ quán,
nên không làm theo lời khuyên của vị ấy.
8. Lại một lần nữa con người có
trí tuệ vô cùng ấy, do lòng bi mẫn, khuyên con hãy tỏ sự tự chế, khi
nói rằng, "Nếu ban ngày bạn phải giết những chúng sanh thời hãy tỏ
sự tự chế vào lúc ban đêm."
9. Bởi vậy con chỉ sát sanh vào lúc
ban ngày, nhưng tự chế vào lúc ban đêm không làm điều ấy - và vào lúc
ban đêm con làm hài lòng chính mình, nhưng ban ngày con có một kiếp sống
đau khổ và bị ăn thịt.
10. Vì thiện nghiệp ấy nên vào lúc
ban đêm con hưởng những dục lạc của chư thiên, trong khi ban ngày thì những
con chó hung hăng rơi vào con từ khắp các hướng để ăn thịt con.
11. Bấy giờ những người mà tiếp tục
chuyên tâm, thường xuyên chuyên chú vào giáo pháp của đấng Sugata - riêng
những người này, xét nghĩ, sẽ đạt đến trạng thái bất tử, là chỗ
vô vi."
Chú giải:
Ý nghĩa của những câu
này cũng giống như ý nghĩa của những câu đã được nêu ra ở trên rồi.
-ooOoo-
III.9 TRÁ KHI QUỈ SỰ
(KUUTAVINICCHAYIKA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Mang tràng hoa, đội mão và đeo vòng
tai". Pháp thoại này được thuyết giảng trong khi Bậc Ðạo sư đã ngụ
ở Ve.luvana, liên quan đến một Ngạ quỉ đã từng chấp theo tà kiến.
Bấy giờ, Ðại vương Bimbisaara thường
thọ trì Bát Quan Trai sáu ngày trong một tháng, và noi theo gương của vị
ấy, nhiều người khác cũng thọ trì Bát Quan Trai giới. Ðức vua thường
hỏi những người mà đến yết kiến vị ấy rằng, "Nào nào, ngươi
có thọ trì Bát Quan Trai giới hay không?" Rồi một người đàn ông,
được bổ nhiệm vào triều đình của vị ấy, là người có lời nói đâm
thọc, gian lận, quen ăn hối lộ và làm những hành động bạo quyền đã
nói rằng, "Tâu bệ hạ, thần có thọ trì nó." Vì sợ phải nói
ra rằng ông ta đã không thọ trì nó. Rồi khi ông ta đang rời khỏi tầm
nhìn của đức vua, thì một người bạn nói với ông ta rằng, "nào
nào, này bạn, bạn có thọ trì nó ngày hôm nay không?". "Này bạn,
tôi nói như vậy là do sợ hãi đó thôi khi mặt đối mặt với Ðức vua,
nhưng tôi chẳng có thọ trì nó," Sau đó người bạn này nói với ông
ta rằng, "Dầu vậy, bạn vẫn còn có thể thọ trì nửa ngày Bát Quan
Trai giới cho ngày hôm nay, vậy hãy nguyện thọ trì Bát Quan Trai giới
đi." "Tốt lắm", ông ta nói và đồng ý với điều mà người
bạn nói, rồi đi về nhà, chẳng ăn gì, súc miệng và thọ trì Bát Quan
Trai giới.
Ðêm hôm ấy, khi đã đi đến giường,
thì những cơn đau khốc liệt, dữ dội, gây ra bởi cơn gió mạnh sanh
lên, do bụng trống, đã đoản mạng của ông ta và, ngay sau khi chết ông
ta sanh làm một vimaanapeta ở một chỗ sâu hút trong một ngọn núi. Do thọ
trì chỉ một đêm của ngày Bát Quan Trai giới mà ông ta nhận được một
cung điện với tuỳ tùng gồm mười ngàn tiên nữ, và hưởng sự vinh
quang thần tiên vĩ đại; Nhưng vì sự nói dối và nói đâm thọc của ông
ta, nên ông ta phải ăn thịt sau khi đã móc ra từ chính lưng của ông ta.
Ðại Ðức Naarada, khi đi xuống từ núi Kỳ-xà-quật, trông thấy vị ấy
và Trưởng lão hỏi vị ấy bằng bốn câu kệ, sau đó vị ấy trả lời
vấn đề cũng bằng bốn câu kệ:
1. "Ngươi có đeo tràng hoa, đội
mão và đeo vòng, và khắp người của ngươi được phủ bằng trầm
hương; nét mặt cuả ngươi rạng rỡ và ngươi chiếu sáng như mặt trời.
2. Những người hầu này của ngươi,
những vị phi nhân này trong hội chúng của ngươi, và đây là những nữ hầu
của ngươi, mười ngàn thiếu nữ này.
3. Chúng mang những vòng xuyến và những
vòng đeo tay, và đầu của chúng được trang sức bằng những vòng hoa đội
đầu bằng vàng - Ngươi có oai lực lớn và tướng mạo của ngươi làm dựng
tóc.
4. Tuy nhiên ngươi lại ăn thịt mà
chính ngươi đã móc ra từ lưng của ngươi: bây giờ ác nghiệp nào được
làm bởi ngươi do thân khẩu hay ý? do kết quả của nghiệp nào khiến ngươi
ăn thịt từ lưng của ngươi?"
5. "Ở trong thế giới hữu tình,
tôi đã làm suy sụp chính tôi bằng những lời nói dối và đâm thọc, bằng
sự gian trá và lường gạt.
6. Khi tôi đã đi đến một hội chúng
ở đó và đến lúc để nói ra sự thật thì tôi lại không nói đúng sự
thật và không nói những điều đem lại lợi ích cho tôi, lại còn đi theo
con đường sái quấy.
7. Cũng như tôi ngày hôm nay ăn thịt
từ chính lưng của tôi, cũng vậy người nào mà làm người nói xấu sau lưng
cũng phải ăn thịt của chính mình.
8. Chính Ngài đã trông thấy điều này,
thưa Ngài Naarada . Những người mà có lòng bi mẫn và có thiện tâm thường
nói rằng, "Ðừng nói đâm thọc cũng đừng nói dối và đừng làm người
nói xấu sau lưng!"
Chú giải:
1. Ở đây CÓ ÐEO TRÀNG HOA (maalii):
Mang những tràng hoa, trang sức những bông hoa của chư thiên - đây là ý
nghĩa. CÓ ÐỘI MÃO (kirii.tii): Ðầu có vấn khăn. Có đeo vòng (Kaayuurii):
Có những chiếc vòng, nghĩa là những cánh tay của người được trang sức.
CÁC CHI THỂ CỦA NGƯƠI (gattaa): Những phần trên thân của ngươi. ÐƯỢC
PHỦ BẰNG TRẦM HƯƠNG (ca.n.danussadaa): Ðược xức bằng dầu của gỗ trầm
hương. NGƯƠI CHIẾU SÁNG NHƯ MẶT TRỜI (suriyava.n.no vasobhati): Ngươi rực
rỡ, mang tướng mạo sáng chói y như mặt trời mới mọc. Hay nói cách
khác, kinh tạng nói rằng, 'Ngươi đẹp như mặt trời ban mai'
(arunasadisava.n.navaa); MẶT TRỜI BAN MAI (aru.na.m): Về tướng mạo giống như
những vị chư thiên Araniya, nghĩa là có tướng mạo cao qúy.
2. NHỮNG NGƯỜI TRONG HỘI CHÚNG CỦA
NGƯƠI (Paarisajjaa): Những người thuộc hội chúng của vị ấy, nghĩa là
những người hầu riêng của vị ấy.
3. Ngươi: tuva.m = tva.m: (thể văn phạm
hoán chuyển). Sắc tướng của ngươi làm dựng tóc (Lomaha.msanaruupavaa): Sắc
tướng của ngươi đáng làm dựng tóc đối với những người trông thấy
ngươi: điều này được nói đến vì oai lực vĩ đại và uy quyền của vị
ấy.
4. NGƯƠI ÐÃ MÓC Ukkantvaa= Ukkantitvaa:
thể văn phạm hoán chuyển; nghĩa là ngươi đã cắt xẻo.
5. TÔI HÀNH ÐỘNG: aacaarisa.m = aciri.m
(thể văn phạm hoán chuyển): tôi khoác vào lối hành động. BẰNG SỰ NÓI
DỐI VÀ ÐÂM THỌC: (Pesu~n~na musaavaadena = Pesu~n~nnena Musaavaadena ca (phối hợp
cách). VÀ BẰNG SỰ GIAN DỐI, LƯỜNG GẠT: Nikativa~ncanaaya ca = Nikatiyaa
va~ncanaaya ca (phối hợp cách), bằng mưu mô và sự dối gạt mà xem ra chơn
thật đối với những người khác.
6. KHI ÐẾN LÚC ÐỂ NÓI RA SỰ THẬT
(Saccakaale): Khi đến lúc thích hợp để nói sự thật NHỮNG ÐIỀU NẰM
TRONG LỢI ÍCH CỦA TÔI (attha.m): Những cách nói mà có lợi trong cuộc sống
này v.v... ÐIỀU ÐÚNG PHÁP (Dhamma.m): Hạnh kiểm đúng chánh đáng của
tôi. TÔI PHỦ NHẬN (Nira~nkatvaa): Tôi tách rời khỏi chính tôi, tôi từ bỏ.
7. VỊ ẤY (So): Kẻ mà hành động đâm
thọc v.v...
Tất cả phần còn lại đều được
nêu ra như ở trên.
-ooOoo-
III.10 GIỚI BẤT KỈNH
THẤP QUỈ SỰ
(DHAATUVIVA.N.NA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Khi đứng trong không trung".
Ðây là quỉ sự về sự coi thường. Khi Ðức Thế Tôn đã nhập Niết-bàn
giữa hai cây Saala trong rừng cây Saala Upattana của những người Malla tại
Kusinaaraa và những Xá-lợi của Ngài đã được phân chia, vua Ajaatasattu lấy
phần Xá-lợi của mình và, khi hồi tưởng những ân đức của Ðức Phật,
bèn tổ chức một buổi lễ lớn để cúng dường Ngài kéo dài trong bảy
năm, bảy tháng, và bảy ngày, trong suốt thời gian ấy có vô số người
sanh tâm tịnh tín và đạt đến thiên giới. Tuy nhiên, có đến Tám mươi
sáu ngàn người bị ô nhiễm vì đã từ lâu không có đức tin, chấp theo
tà kiến và, dầu ở trong những điều kiện có thể làm khởi sanh lòng tịnh
tín, vẫn bị ô nhiễm trong tâm và bị tái sanh trong cõi Ngạ quỉ. Cũng
trong thành Raajagaha ấy, một người vợ, đứa con gái và con dâu của một
vị phú hộ nọ, là người có của cải, với lòng tịnh tín trong tâm, họ
đã suy nghĩ rằng, "Chúng ta hãy cúng dường đến Xá-lợi", và
mang một ít vật thơm và những bông hoa v.v... Rồi lên đường đi đến chỗ
mà Xá-lợi được tôn trí. Người đàn ông giàu có ấy tỏ thái độ coi
thường của ông ta về sự tôn kính Xá-lợi và phỉ báng Xá-lợi khi nghĩ
rằng, "Có lợi ích gì mà tôn kính những khúc xương?" họ chẳng
quan tâm đến lời mà ông ta nói và đi đến chỗ ấy, cúng dường đến Xá-lợi
và, khi đã trở về nhà, họ bị phát bệnh đến nỗi chẳng bao lâu sau họ
chết, tái sanh trong cõi Devaloka do nhờ việc phước ấy. Tuy nhiên, về phần
ông phú hộ, bị che ám bởi lòng sân hận và chẳng bao âu sau cũng chết,
tái sanh trong cõi Ngạ quỉ do bởi ác nghiệp ấy. Rồi một hôm nọ, Ðại
Ðức Mahaakassapa, do lòng bi mẫn đối với chúng sanh, thị hiện những năng
lực thần thông của Ngài bằng cách nào đó để dân chúng có thể trông
thấy cả những Ngạ quỉ và những vị chư thiên. Khi Ngài đã làm điều
này, đứng trong khuôn viên của Bảo tháp ấy và hỏi ba câu kệ đến con
Ngạ quỉ mà xưa kia đã tỏ thái độ khinh thường Xá-lợi, và rồi Ngạ
quỉ đáp lại:
1. "Khi đứng trong không trung, ngươi
toả ra mùi xú uế, hôi hám, và những con dòi rúc r.ta cái miệng hôi thối
của ngươi - Ngươi đã làm nghiệp gì trong quá khứ?
2. Nhân đó, có những kẻ khác cầm
những con dao của họ và khoét vào thịt của ngươi nhiều lần lập đi lập
lại; chúng phun vào ngươi chất kiềm và rồi lại khoét ngươi nhiều lần
lập đi lập lại.
3. Bây giờ ác nghiệp nào được làm
bởi ngươi do thân, khẩu hoặc ý? Do kết quả của nghiệp nào khiến ngươi
phải chịu sự thống khổ như thế này?"
4. "Trong thành Raajagaha xinh đẹp,
là thành Giribbaja khả ái ấy, thưa Ngài, tôi là chủ của rất nhiều của
cải và ngũ cốc.
5. Tôi đã ra sức ngăn cản người vợ
này, đứa con gái và nàng dâu của tôi khi họ đang mang những bông hoa
tamaala, những hoa sen xanh và những dầu xức đắt giá đi đến bảo tháp -
Ðây là ác nghiệp được làm bởi tôi.
6. Chúng tôi đang lãnh chịu tám mươi
sáu ngàn loại khổ thọ; sau khi đã tỏ thái độ coi thường về sự tôn
kính Xá-lợi, chúng tôi đã bị nấu sôi cùng cực trong địa ngục.
7. Ngài hãy tách rời những người mà
mở miệng nói lời bất lợi ra khỏi hội chúng đang cử hành đại lễ cúng
dường Xá-lợi của bậc A-la-hán.
8. Hãy xem những người này đang đi
đến, mang những tràng hoa và có trang sức, họ đang thọ hưởng kết quả
của những bông hoa - họ rực rỡ và vinh hoa.
9. Và khi đã trông thấy sự kiện kì
diệu làm ngạc nhiên và làm tóc dựng đứng này, những bậc trí tuệ sẽ
tán dương và đảnh lễ Ngài, thưa đại hiền trí.
10. Bây giờ khi đã ra đi khỏi đây
và lại được tái sanh trong cõi người, tôi sẽ nghiêm trang cúng dường
ở bảo tháp nhiều lần lập đi lập lại.
Chú giải:
1. Ở đây MÙI HÔI THỐI
(duggandho): Mùi khó chịu; nghĩa là mùi thối của xác chết bị thối rữa.
Vì lý do này khiến vị ấy nói rằng, "Ngươi toả ra mùi hôi thối"
2. NHÂN ÐÓ (tato): Sau khi toả ra mùi
hôi thối ấy và bị rúc r.ta bởi những con giòi. CHÚNG CẦM NHỮNG CON DAO
CỦA CHÚNG VÀ KHOÉT NGƯƠI NHIỀU LẦN LẬP ÐI LẬP LẠI (sattha.m gahetvaana
okantanti punappuna.m): Những chúng sanh bị kéo đi bởi nghiệp đang cầm những
con dao có lưỡi bén và khoét vào miệng của ngươi nhiều lần lập đi lập
lại. CHÚNG PHUN VÀO NGƯƠI CHẤT KIỀM RỒI KHOÉT VÀO NGƯƠI NHIỀU LẦN LẬP
ÐI VÀ LẬP LẠI (Khaarena paripphositvaa Okantanti punappuna.m): Chúng phun chất cường
toan vào những chỗ mà chúng sẽ khoét ngươi và rồi khoét ngươi nhiều lần
lập đi lập lại.
4. TÔI LÀ CHỦ CỦA RẤT NHIỀU CỦA CẢI
VÀ NGŨ CỐC (issaro dhanadha~n~nassa supahuutassa): Tôi là chúa của, là chủ
nhân của rất nhiều của cải, của vô số của cải và ngũ cốc, nghĩa là
tôi rất giàu có.
5. NGƯỜI VỢ NÀY VÀ CON GÁI VÀ NÀNG
DÂU CỦA TÔI (tassaaya.m me bhariyaa ca dhiitaa ca su.nisaa ca): Người vợ này của
tôi trong kiếp sống quá khứ của tôi, đứa con gái này, nàng dâu này; vị
ấy noi khi chỉ về những vị chư thiên đang đứng ở trong bầu trời. ÐẮT
GIÁ (paccaggha.m): tươi tắn. TÔI RA SỨC NGĂN CẢN... LÀ NHỮNG NGƯỜI ÐANG
CẦM... ÐẾN BẢO THÁP (thuupa.m harantiyo vaasesi.m): Khi tỏ thái độ khinh khi
Xá-lợi, tôi chống lại... Mà đang mang đi... Ðể tôn kính bảo tháp. ÐÂY
LÀ ÁC NGHIỆP ÐƯỢC LÀM BỞI TÔI (ta.m paapa.m pakata.m mayaa): Vị ấy nói bằng
sự ân hận khi nói rằng, "ác nghiệp về việc khinh khi Xá-lợi được
làm bởi tôi".
6. TÁM MƯƠI SÁU NGÀN
(cha.laasiitisahassaani): ngoài ra, còn nhiều hơn tám mươi sáu ngàn. CHÚNG TÔI
(Maya.m): vị ấy nói khi bao gồm những Ngạ quỉ ấy chung với ông ta. ÐANG
CHỊU CÁC LOẠI KHỔ THỌ (paccattavedanaa): Ðiều này chỉ cho thấy rằng sự
cảm thọ nỗi thống khổ lớn đang bị thọ lãnh riêng nhau, theo riêng từng
cá nhân của mỗi người. TRONG ĐỊA NGỤC (niraye): Vị ấy nói điều này,
khi so sánh cõi Ngạ quỉ giống như địa ngục do bởi tánh chất đau khổ
dữ dội của nó.
7. NHỮNG NGƯÒI MÀ... KHI ÐẠI LỄ
TÔN KÍNH BẢO THÁP CỦA BẬC A-LA-HÁN ÐANG TIẾN HÀNH (ye ca kho thuupapuujaaya
vattante arahato mahe): Vị ấy giải rõ nỗi mất mát to lớn của mình bằng
tánh chất phúng dụ khi nói rằng, "ngài nên tách, Ngài nên xem như những
người đứng ngoài, ra khỏi đó, khỏi phước nghiệp ấy, những người mà,
như tôi, nói ra những điều bất lợi, nói những điều không tốt về sự
tôn kính bảo tháp khi đại lễ tôn kính đối với bảo tháp của bậc
A-la-hán, của đức Phật toàn giác, đang tiến hành."
8. KHI ÐI ÐẾN (aayantiyo): Khi đi đến
xuyên qua hư không. KẾT QUẢ CỦA NHỮNG BÔNG HOA (maalaavipaaka.m): Kết quả,
quả báu, của việc tôn kính bằng những bôn hoa nơi bảo tháp. rực rỡ
(samiddhaa): rực tỡ bằng sự vinh quang của Chư thiên. họ vinh hoa (taa
yasassiniyo): Họ có tuỳ tùng.
9. VÀ KHI HỌ ÐÃ TRÔNG THẤY ÐIỀU
NÀY (ta~n ca disvaana): Khi họ đã trông thấy kết quả phi thường, tuyệt hảo,
kỳ diệu, làm dựng đứng tóc, của việc phước, có giới hạn tột bực
của sự tôn kính. NHỮNG BẬC TRÍ TUỆ SẼ TÁN DƯƠNG VÀ TÔN KÍNH NGÀI
VÀ, ÐẢNH LỄ NGÀI THƯA ÐẠI HIỀN TRÍ (namo karonti sappa~n~nà vadanti ta.m
mahaamuni): Những người đàn bà này, thưa Ngài Kassapa, sẽ đảnh lễ, sẽ
sụp mình trước Ngài, là phước điền vô thượng, nghĩa là họ sẽ tán
dương, sẽ tôn kính Ngài.
Rồi Ngạ quỉ ấy, tâm của nó bị
xúc động, bèn thốt lên câu kệ bắt đầu bằng, "Xét thấy rằng khi
tôi", cho thấy điều mà nó định làm trong tương lai phù hợp với sự
xúc động ấy. Ý nghĩa của điều này tự nó hoàn toàn rõ ràng rồi.
Ðại Ðức Mahaakassapa lấy vấn đề
mà được nói như vậy bởi Ngạ quỉ làm nguyên nhân cần thiết đã sanh
lên và thuyết pháp đến hội chúng đã hội họp ở đó.
Quỉ sự về sự coi thường đã kết
thúc - như vậy phần trình bày về ý nghĩa của chương ba, Tiểu phẩm,
được tô điểm bởi mười câu chuyện trong những câu chuyện Ngạ quỉ của
bộ Khuddhaka Nikaaya đã kết thúc.
-ooOoo-