- CHÚ GIẢI NGẠ QUỶ
SỰ
- Dịch từ Pali sang Anh Ngữ: PETER
MASEFIELD
[4.d]
IV.12 ÂM-BA QUỈ SỰ
(AMBA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Hồ sen này của ngươi thật vô
cùng khả ái". Quỉ sự này được Bậc Ðạo sư kể lại khi Ngài
đang ngụ ở Saavatthi, liên quan đến một Ambapeta .
Tương truyền rằng, tại Saavatthi có
một gia chủ nọ có của cải đã trở nên cạn hết. Vợ của ông ta đã
chết và ông ta có một đứa con gái duy nhất, là người mà ông ta bỏ lại
ở nhà của một người bạn và rồi, khi mang hàng hoá mà ông ta đã mua với
số tiền vay một trăm Kahaapana, ông ta lên đường với một đoàn thương
nhân để buôn bán, và chẳng bao lâu quay về nhà với đoàn thương nhân
sau khi đã kiếm được một món tiền lời gồm năm trăm Kahaapana, phụ thêm
với số tiền vốn. Trên đường đi, những tên cướp đi đến đoàn thương
nhân và bao vây họ, và những người trong đoàn thương buôn bỏ chạy tứ
tán. Tuy nhiên, vị gia chủ, để những đồng Kahaapana trong một cái bị
và giấu gần đó, nhưng những tên cướp lại bắt và giết ông ta. Vì
lòng tham lam của cải nên ông ta phải tái sanh làm một peta trong chính chỗ
ấy.
Khi những vị thương nhân trở lại
Saavatthi, họ thuật lại biến cố ấy với đứa con gái của ông ta, nàng
đầy bất an và khóc than thảm thiết cho cả cái chết của cha nàng và
khóc vì lòng mong mỏi phương tiện kiếm sống của chính nàng. Một người
đàn ông giàu có mà đã từng là bạn của cha nàng khi ấy an ủi nàng,
nói rằng, "cũng như những cái nồi của người thợ gốm, tất cả đều
có sự hoại diệt khi chúng kết thúc; Do đó đời sống của chúng sanh cũng
có sự hoại diệt vì sự kết thúc, cũng vậy đời sống của chúng sanh cũng
có sự hoại diệt vì sự kết thúc của nó. Cái chết là thông thường đối
với tất cả và không có loại thuốc chữa trị nào. Bởi vậy, con đừng
nên ưu bi và ta thán quá mức cho cha của con. Ta sẽ làm cha của con và con
sẽ là con gái của ta. Ta sẽ làm điều gì phải được làm cho cha của
con. Con có thể sống hạnh phúc trong ngôi nhà này, không lo lắng, cũng như
nó là nhà của cha con vậy". Nỗi sầu khổ của nàng được lắng dịu
khi nghe những lời dạy này của ông ta và nàng trở nên có đầy sự tôn
kính và tôn trọng đối với ông ta, tựa như ông ta chính là cha của nàng
vậy; và do những hoàn cảnh khốn khổ của nàng, nàng trở thành người
giữ nhà cho ông ta.
Khi thời gian trôi qua, nàng muốn tổ
chức những lễ cúng cho người chết đến cha của nàng. Nàng nấu một
ít cháo và trong một cái bát bằng đồng, nàng đặt một số trái xoài ngọt
và đã chín lụng và có màu đỏ của chất tỳ sương, nàng sai người tớ
gái mang cháo, những trái xoài đi theo nàng đến tịnh xá, vào đảnh lễ Bậc
Ðạo sư và rồi nói như vầy, "Cầu xin Bậc Ðạo sư rũ lòng bi mẫn
mà thọ nhận vật thí này của con". Bậc Ðạo sư, tâm của Ngài bị
rung động bởi lòng đại bi, khi làm cho ước muốn của nàng được thành
tựu viên mãn, bèn tỏ ý muốn rằng Ngài sắp ngồi xuống. Quá vui sướng,nàng
trải ra một tấm vải sạch và mới mà nàng đã đem theo, và sửa soạn một
chỗ ngồi cho đức Phật cao quí, rồi dâng cúng chỗ ngồi này. Ðức Thế
Tôn ngồi xuống trên chỗ ngồi đã được sửa soạn. Rồi nàng dâng món
cháo đến Ðức Thế Tôn và Ðức Thế Tôn nhận lãnh món cháo. Rồi nàng
cũng dâng cháo đến Chư Tăng, dành cho Chư Tăng. Sau khi nàng đã bố thí
món cháo, một lần nữa với hai tay sạch sẽ, nàng dâng đến Ðức Thế
Tôn những trái xoài và rồi Ðức Thế Tôn thọ thực. Nàng đảnh lễ Ðức
Thế Tôn và tác bạch như vầy, "Bạch Ðức Thế Tôn, sự bố thí này
mà con đã làm bằng vật thí gồm cái toạ cụ được trải ra, món cháo
và những trái xoài, cầu xin cho vật thí ấy thấu đến cha của con";
Ðức Thế Tôn nói rằng, "chúc thành tựu như ý" Và ban lời phúc
chúc. Nàng đảnh lễ Ðức Thế Tôn, đi vòng quanh Ngài và hướng về hướng
phải rồi ra đi.
Ngay khi nàng hồi hướng phước thí
ấy thì vị Peta ấy có được một rừng xoài, một công viên, một lâu đài,
một cây như ý và một hồ sen như là sự vinh quang của Chư thiên. Rồi
vào một dịp khác nọ, khi những thương nhân ấy đang đi để buôn bán, họ
đi đến chính con đường ấy và cắm trại qua đêm ở chỗ mà họ đã ngụ
lúc trước. Khi trông thấy họ, vị Vimaanapeta hiện ra trước mặt họ cùng
với công viên lâu đài v.v... của vị ấy. Khi trông thấy vị peta ấy, những
vị thương nhân bèn nói lên hai câu kệ này để hỏi về sự vinh quang mà
vị ấy đã nhận được:
1. Hồ sen này của ngài thật vô cùng
khả ái. Những bờ hồ xinh đẹp của nó bằng phẳng và nó có nhiều nước.
Nó có nhiều hoa và lấm tấm khắp nơi những đàn ong - Làm sao ngài sanh ra
mà có được cái hồ khả ái này?
2. Và khu rừng xoài này của ngài thật
vô cùng khả ái và có trái suốt bốn mùa. Nó đang nở hoa và lấm tấm khắp
nơi những đàn ong, làm sao Ngài sanh ra mà có được lâu đài này?
Chú giải:
1. Ở đây VÔ CÙNG KHẢ
ÁI: Surammaa= su.t.thu rama.niiyaa (phối hợp cách). BẰNG PHẲNG (samaa): Có những
bề mặt ngang bằng. NHỮNG BỜ HỒ XINH ÐẸP (Supatitthaa): Những chỗ tắm
xinh đẹp do bởi những chiếc cầu thang của chúng được làm bằng châu
báu. NÓ CÓ NHIỀU NƯỚC (mahodakaa): Hồ sen ấy có nhiều nước
2. TRONG TẤT CẢ CÁC MÙA (sabbotuka.m):
Nó tạo ra sự hạnh phúc do bởi những cây của nó v.v... đầy những bông
hoa và mang những trái trong khắp các mùa. Vì lý do này người ta nói rằng,
"và mang những trái" NÓ ÐANG NỞ ÐẦY HOA (Supupphita.m): Vườn xoài
nở hoa thường xuyên.
Khi nghe qua điều này, vị Peta bèn
nói lên câu kệ này để giải thích cái gì là nguyên nhân khiến vị ấy
có được hồ sen ấy v.v...:
3. Một vật thí bằng những trái
xoài chín, nước và cháo, được cho ra bởi con gái của tôi - chính do bởi
điều này khiến cho tôi nhận được bóng che mát mẻ và khả ái này ở
đây.
Chú giải:
3. Ở đây CHÍNH DO BỞI
ÐIỀU NÀY... ÐƯỢC NHẬN LÃNH BỞI TÔI Ở ÐÂY (tena me idha labhati): Bởi
vì vật thí ấy gồm những trái xoài chín, nước và cháo được cho ra bởi
con gái tôi đến Ðức Thế Tôn và các vị Tỳ kheo, được cho ra bởi nàng
dành cho tôi, chính do bởi vật thí này được cho ra bởi con gái của tôi
nên những trái xoài chín được nhận lãnh bởi tôi ở đây trong rừng
xoài Chư thiên này, trong tất cả các mùa, và cũng có được nước Chư
thiên trong cái hồ sen Chư thiên khả ái nầy; Trong khi đó, chính do vật
thí nầy gồm món cháo và tấm vải được trải ra nên bóng mát khả ái
và mát mẻ này được tìm thấy trong công viên này, cung điện này và cây
như ý này v.v... Ðược nhận lãnh ở đây, nghĩa là được thành tựu.
Khi đã nói như vậy, vị Peta dẫn những
thương nhân đi và chỉ cho họ thấy năm trăm Kahaapana khi nói rằng,
"Các người có thể lấy một nửa của số tiền này và cho nửa kia
đến con gái của tôi, bảo nàng hãy làm sạch món nợ của tôi và sống
thanh thản".
Ðến đúng lúc, những thương nhân
đi đến Saavatthi kể cho đứa con gái của ông ta biết và cho nàng mọi thứ
bao gồm phần tiền mà ông ta đã trao cho họ. Nàng trả một trăm Kahaapana
đến những chủ nợ của ông ta và cho phần còn lại đến người đàn
ông giàu có mà đã là bạn của cha nàng và, đối với chính nàng, vẫn
ở lại làm người giữ nhà cho ông ta. Nhưng ông ta cho lại nàng món tiền
ấy khi nói rằng, "Tất cả món tiền này là của riêng con". Và
cho nàng làm nữ chủ trong ngôi nhà của đứa con trai đầu lòng của ông
ta. thời gian sau, nàng có một đứa con trai và nàng thường nói câu kệ
này khi nàng chăm sóc nó:
4. Hãy xem kết quả, ngay trong đời sống
này, của sự bố thí, của sự thu thúc và tự chế. Tôi là một nữ nô lệ
trong gia đình của chủ tôi, và bây giờ là nàng dâu của ông ta cũng là nữ
gia chủ.
Rồi một hôm nọ Bậc Ðạo sư, sau
khi đã xem kỹ sự chín muồi trong tâm của nàng, bèn phóng ra hào quang của
Ngài và hiện ra tựa như đang đứng đối diện với nàng, và rồi nói
lên câu kệ này:
5. Người mà không siêng năng, bị
chinh phục bởi sắc khả ái của những kẻ không khả ái, bởi sắc tướng
dễ thương của những kẻ không dễ thương và bởi sắc tướng khả ái của
cái đem lại đau khổ.
Nghĩa là: Những người nào mà không
siêng năng và chánh niệm không hiện hữu trong họ, thì bị ngự trị, bị
chiến thắng và bị che mờ bởi sắc tướng hảo huyền của ba cái này.
Vào lúc kết thúc của câu kệ này,
nàng được an trú trong quả Thánh Tu- Ðà- hườn; và ngày hôm sau, nàng bố
thí vật thực đến Chư Tăng có Ðức Phật dẫn đầu, và rồi nêu lên vấn
đề ấy với Ðức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy vấn đề ấy làm nguyên
nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết pháp đến hội chúng đã tụ họp
ở đó. Thời pháp ấy đem lại lợi ích cho những người ấy.
-ooOoo-
IV.13 MỘC TRỤC QUỈ SỰ
(AKKHARUKKHA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Khi một người cho ra thì không
phải ngay ở đó". Ðây là quỉ sự về người bố thí một cái trục
xe. Câu chuyện bắt nguồn như thế nào?
Khi Ðức Thế Tôn đang ngụ ở
Saavatthi, thì có một vị Thiện nam nọ, là dân cư của thành Saavatthi chất
đầy hàng hoá vào một số cỗ xe và đi đến videha để buôn bán. Ông ta
bán hàng hoá của ông ta ở đó và chất đầy những hàng hoá mà ông ta đã
mua lại, cho vào trong những cỗ xe của ông và rồi đi vào con đường dẫn
đến Saavatthi . Khi ông đang đi dọc theo con đường ấy ở trong khu rừng
thì cái trục xe của một trong những chiếc xe của ông bị gãy. Bấy giờ
có một người đàn ông nọ mà sau khi đã rời khỏi ngôi làng của ông ta
và đang cho người mang theo cái rìu và búa để đốn cây đem về, đang
lang thang trong rừng và đi đến chỗ ấy. Ông ta trông thấy tâm trạng
chán nản của vị thiện nam do vì cái trục xe bị gãy ấy, bèn nghĩ rằng,
"Vị thương nhân này đang sầu khổ ở trong rừng do vì cái trục xe bị
gãy ấy". Và khi đem lòng thương hại vị thương nhân ấy, ông ta đốn
hạ một cây, làm một cái trục xe cứng cáp, tặng nó cho vị thương nhân
và gắn nó vào cỗ xe. Ðến đúng lúc, ông ta chết và sanh làm một vị Chư
thiên địa cầu trong cùng chỗ ấy ở trong khu rừng.
Khi đã quán xét về những nghiệp của
mình vào lúc ban đêm, ông ta đi đến nhà của vị thiện nam ấy và nói
lên câu kệ này khi đứng ở cửa nhà:
1. Khi người bố thí thì nó không phải
chỉ nằm ở đó thôi đâu - người nên cho ra những vật thí đi; Khi người
đã bố thí rồi thì người sẽ vượt qua cả hai, người đi đến cả hai
bằng phương tiện này. Hãy giác tỉnh! Ðừng dễ duôi!
Chú giải:
1. Ở đây KHI NGƯỜI CHO RA THÌ NÓ
KHÔNG PHẢI CHỈ Ở ÐÓ (Ya.m dadaati na ta.m hoti) khi người cho ra một thí vật
thì nó không phải chỉ nằm ở đó, mà trong thế giới bên kia, quả của
vật thí cũng sẽ hiện ra nữa vì có nhiều quả khả ái và đầy hoan hỷ
nữa. DO ÐÓ NGƯỜI NÊN TINH TẤN CHO RA NHỮNG VẬT THÍ (deth'eva daana.m): Người
cũng nên cho ra những vật thí thích hợp. Rồi vị ấy giải thích lý do:
KHI NGƯỜI ÐÃ CHO, NGƯỜI SẼ VƯỢT QUA CẢ HAI (datvaa ubhaya.m tarati): Khi
người đã cho những vật thí thì người sẽ vượt qua đau khổ và rủi
ro cả trong đời này và trong đời sau nữa. NGƯỜI SẼ ÐI ÐẾN CẢ HAI BẰNG
PHƯƠNG TIỆN NÀY (ubhaya.m tena gacchati): Người sẽ đến, người sẽ đạt
đến, cả hạnh phúc trong đời này và trong đời sau bằng phương tiện của
những vật thí này. Hơn nữa ý nghĩa nên được hiểu là, lợi ích và hạnh
phúc dành cho cả chính mình và những người khác nữa. HÃY CẢNH GIÁC! ÐỪNG
DỄ DUÔI! (jaagaratha mà pajjaha): Nghĩa là hãy tỉnh táo tìm kiếm những vật
thí mà sẽ trổ sanh cả hai loại lợi ích và sự xua tan cả hai loại khổ
đau bằng cách này. Hãy sửa soạn những món đồ vật để làm những vật
thí và hãy siêng năng ở trong đó. Ðiều này được nói đến bằng cách
lập lại ở đây để cho thấy sự tôn kính.
Khi vị thương nhân đã làm xong điều
gì ông ta cần phải làm, ông ta quay về và đúng lúc đến tại Saavatthi vào
ngày hôm sau. Ông ta đi đến Bậc Ðạo sư, đảnh lễ Ngài, và khi ngồi xuống
ở một bên, ông ta nêu lên vấn đề với Ðức Thế Tôn. Bậc Ðạo sư lấy
vấn đề ấy làm nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết pháp đến
hội chúng đã tụ họp ở đó. Thời pháp đã đem lại lợi ích cho những
người đã tụ họp ở đó.
-ooOoo-
IV.14 SÚC TÀI QUỈ SỰ
(BHOGASA.MHARA.NA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Chúng ta tích lũy của cải".
Ðây là quỉ sự về sự tích lũy. Nó bắt nguồn như thế nào?
Tương truyền rằng khi Ðức Thế Tôn
đang ngụ tại Ve.luvana, có bốn người đàn bà ở thành Raajagaha đang bận
rộn trong việc buôn bán thục tô, mật ong, dầu và ngũ cốc v.v... kiếm lợi
một cách phi pháp bằng sự đong lường gian dối và bằng những mánh khóe
bịp bợm khác. Vào lúc thân hoại mạng chung sau khi chết, họ sanh làm những
nữ Ngạ quỉ trong một cái hào ở bên ngoài thành phố. Vào lúc ban đêm,
họ bị hành hạ bởi nỗi đau khổ và đi lang thang phát ra tiếng kêu to lớn
và kinh khủng khi gào lên rằng:
1. "Chúng ta tích lũy của cải đúng
pháp và phi pháp. Bây giờ của cải này được hưởng bởi những người
khác, trong khi số phận của chúng ta là đau khổ".
Dân chúng lấy làm khiếp đảm khi họ
nghe tiếng gào la này; và khi trời hừng sáng, họ tổ chức một cuộc bố
thí vật thực lớn đến Chư Tăng có Ðức Phật dẫn đầu và khi thỉnh Bậc
Ðạo sư và Tăng chúng đến, họ phục vụ các Ngài bằng vật thực thượng
vị loại cứng loại mềm. Khi Ðức Thế Tôn đã thọ thực xong và tay rời
khỏi bát, họ ngồi xuống ở gần kề và kể lại biến cố ấy. Ðức Thế
Tôn nói rằng, "Nầy chư thiện tín, không có tai hoạ nào đến với các
ngươi trong tiếng ấy cả. Ðó chỉ là bốn nữ Ngạ quỉ bị hành hạ
đau khổ, đang ta thán kêu to trong nỗi thất vọng của chúng sau khi nói về
ác nghiệp mà chúng đã làm, chúng đã nói câu kệ này:
2. Chúng ta tích lũy của cải đúng
Pháp và không đúng pháp. Bây giờ của cải này được hưởng bởi những
người khác, trong khi đó số phần của chúng ta là đau khổ".
Chú giải:
2. Ở đây CỦA CẢI
(Bhoge): Những của cải và phương tiện đặc biệt như y phục và những vật
trang sức v.v... Mà được biết đến là "của cải" (Bhoga), bởi
vì những của cải ấy có thể được người ta hưởng dụng
(paribhu~njitabbatthena): CHÚNG TA TÍCH LUỸ (Sa.mharimha) với tâm của chúng ta bị
ngự trị bởi bợn nhơ của lòng bỏn sẻn, chúng ta chất lên, mà không
cho đến một ai cả. ÐÚNG PHÁP VÀ KHÔNG ÐÚNG PHÁP (Samenavisamena ca): Phải
đạo và sái quấy, nhưng có vẻ hợp pháp. TRONG KHI ÐÓ PHẦN CỦA CHÚNG TA
LÀ ÐAU KHỔ (maya.m dukkhassa bhaaginii): Do chúng ta không có thiện hạnh đối
với bất cứ ai và do bởi ác hạnh của chúng ta khiến bây giờ chúng ta
phải lãnh lấy số phần đau khổ to lớn này ở trong cõi Ngạ quỉ, nghĩa
là chúng ta đang chịu đau khổ lớn.
Khi Ðức Thế Tôn đã nói câu kệ như
vậy mà được thốt lên bởi những Ngạ quỉ và kể lại biến cố ấy,
Ngài lấy đó làm nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết pháp đến
hội chúng đã tụ họp ở đó. Sau khi giải thích bốn chân lý cao thượng
và sau khi kết thúc thời pháp ấy, nhiều người chứng đắc quả thánh
Tu-Ðà-hườn v.v...
-ooOoo-
IV.15 THƯƠNG TỬ QUỈ SỰ
(SE.T.THIPUTTA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Trong sáu chục ngàn năm".
Ðây là quỉ sự về những đứa con trai của vị phú thương. Câu chuyện
bắt nguồn như thế nào?
Ðức Thế Tôn đang ngụ ở Jetavana, tại
Saavatthii . Lúc bấy giờ vua nước Kosala là Paasenadi, đang đi quanh thành phố
trong uy quyền vĩ đại của vua, trong sự rực rỡ vĩ đại của vua, trang
phục oai phong và cỡi trên con voi kiết tường nhất. Vị ấy trông thấy một
người đàn bà có sắc đẹp giống như một nữ thần, nàng mở các cửa
sổ ở gác trên của một ngôi nhà nọ và đang nhìn xuống xem sự vinh
quang của vua. Với tâm bị ngự trị bởi sự tấn công dồn dập của những
ô nhiễm đã nhanh chóng sanh lên trước một cảnh sắc mà vị ấy chưa hề
trông thấy trước kia và dầu vị ấy đã có một hậu cung mà ở trong đó
những cung nữ có những đặc tánh nổi bật như gia đình quí phái, sắc
đẹp và thiện hạnh v.v.. Tuy nhiên đức vua vẫn đem lòng yêu thương người
đàn bà ấy vì tâm của vị ấy phù phiếm và khó nhiếp phục. Ðức vua
ra hiệu cho người đàn ông ngồi ở gần tựa như muốn nói rằng, "Ngươi
hãy để ý chỗ ngụ có tầng gác ấy và người đàn bà ấy", và rồi
đi vào hoàng cung. Mọi điều khác sẽ được hiểu như đã giải thích ở
trước rồi trong quỉ sự Ambasakkhara nhưng có sự khác biệt này. Ở đây
người đàn ông đi đến ngay trước khi mặt trời lặn, khi cổng thành bị
đóng lại, và treo đất sét đỏ và những hoa súng mà anh ta đã mang về
ở trên cột của cái cổng, và rồi đi đến jetavana để ngủ. Trong khi đó
đức vua, là người đã đi ngủ trong phòng ngủ của vua, vào canh giữa
nghe bốn tiếng, "Du, sa, na, so", tựa như được thốt ra trong nỗi
thất vọng từ cuống họng.
Tương truyền rằng đây là những chữ
đầu của những câu kệ được thốt ra bởi bốn đứa con trai của vị
phú thương mà đã lâu là những dân cư của thành Saavatthi, và là những
người mà trong thời thanh xuân của chúng đã say mê với sự ngã mạn về
của cải và đi chung với vợ của những người đàn ông khác, nên đã
gây ra nhiều tội lỗi. Về sau chúng chết và sanh ra trong một cái vạc sắt
gần chính thành phố ấy. Khi chúng đang bị nấu sôi, chúng thường nổi lên
ở bờ miệng của cái vạc sắt, mỗi người nói lên một câu kệ, nhưng
ngay khi chúng thốt ra chữ đầu thì chúng bị những cảm thọ đau đớn giáng
xuống và chìm vào cái vạc sắt.
Khi Ðức vua nghe tiếng ồn ào ấy, vị
ấy đầy kinh hãi, bị giao động và tóc dựng đứng. Vị ấy trải qua phần
còn lại của đêm trong đau khổ, và vào lúc trời rạng sáng sai gọi vị
Tư Tế quan đến và kể cho ông ta nghe biến cố ấy. Khi vị Tư tế quan
ấy biết được sự sợ hãi của đức vua, thì vị ấy, vì tham lam lợi lộc,
suy nghĩ rằng, "một cách kiếm lợi dành cho ta và những Bà la môn đã
sanh lên", Và nói rằng, "Tâu đại vương, một tai hoạ lớn chắc
chắn đã sanh lên. Ngài phải cúng tế bốn cái của mỗi loài sinh vật".
Khi nghe qua lời đáp lại này, đức vua bèn truyền lịnh cho những vị quan
cố vấn đặc biệt rằng, "hãy sai sửa soạn bất cứ cái gì cần thiết
cho cuộc cúng tế bốn vật của mỗi loại": Khi nghe qua lệnh truyền
này, hoàng hậu Ma.llikaa nói với đức vua rằng, "Tâu đại vương, tại
sao ngài lắng nghe những lời của những vị Bà la môn ấy và bây giờ muốn
tổ chức những buổi lễ mà trong đó vô số chúng sanh sẽ phải bị giết
hại? chắc chắn chính Ðức Thế Tôn là người vận dụng trí tuệ vô ngại
trong tất cả các pháp, là người nên được hỏi đến và sau đó bệ hạ
nên hành động đúng theo lời đáp lại của Ðức Thế Tôn".
Khi đức vua nghe qua điều mà nàng đã
phải nói ra, vị ấy đi đến yết kiến Bậc Ðạo sư và nên lên vấn đề
với Ðức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn nói rằng, "Tâu đại vương, không
có tai hoạ nào đến với với bệ hạ dù bất cứ điều gì từ nguyên
nhân ấy". Và rồi giải thích vấn đề ngay từ đầu về những chúng
sanh mà đã sanh trong địa ngục vạc dầu bằng sắt. Rồi Ngài làm cho đầy
đủ những câu kệ mà mỗi chúng sanh ấy bắt đầu nói ra, khi nói rằng:
1. Cả thảy chúng ta đều bị nấu sôi
trong địa ngục đủ sáu chục ngàn năm - khi nào mới hết bị như thế này?
2. Sẽ không có sự chấm dứt - Tại
sao có sự chấm dứt? không có sự chấm dứt ấy được vì đó là cách
mà những ác nghiệp được làm bởi các bạn và tôi, thưa các Ngài.
3. Chúng ta đã sống một cuộc sống
ác; dầu ở trong tầm tay nhưng chúng ta đã không bố thí từ đó - Dầu những
vật thí ở trong tầm tay nhưng chúng ta không làm chỗ nương tựa cho chính
chúng ta.
4. Như vậy, khi chúng ta đã đi khỏi
đây và được sanh trong cõi người, tôi sẽ tỏ ra cởi mở, có giới đức
và quyết tâm làm nhiều việc thiện.
Chú giải:
1. Ở đây TRONG SÁU CHỤC NGÀN NĂM:
Sa.t.thi vassasahassaaani = vassaana.m sa.t.thisahassaani (phối hợp cách). Tương
truyền rằng hễ chúng sanh nào sanh trong cái vạc sắt địa ngục sẽ đi
xuống trong ba chục ngàn năm cho đến khi hắn đi đến mức thấp nhất, nhân
đó hắn đi lên lại cũng trong ba chục ngàn năm cho đến khi hắn đến chỗ
ở bờ miệng của nó. Ðể làm cho chúng ta nhận biết điều này, nó muốn
nói lên câu kệ bắt đầu bằng: "Cả thảy chúng ta đã bị nấu sôi
trong địa ngục trong sáu chục ngàn năm", Nhưng sau khi nói "sa"
Nó bị rơi xuống bởi những cảm thọ đau đớn và chìm lại xuống dưới.
Tuy nhiên, Ðức Thế Tôn đã làm cho nó đầy đủ và kể lại nó cho đức
vua nghe. Phần này cũng sẽ được áp dụng trong những câu kệ còn lại.
Ở đây KHI NÀO SẼ CÓ SỰ CHẤM DỨT NỖI KHỔ NÀY (kadaa anto bhavissati):
Khi nào sẽ có sự chấm dứt, có sự kết thúc nỗi đau khổ này là bị nấu
sôi trong địa ngục vạc dầu bằng sắt?
2. Vì đó là cách mà (tathaa hi): Cũng
như sẽ không có sự chấm dứt có thể thấy được về nỗi khổ này của
các anh và tôi, đó là cách mà những ác nghiệp được làm bởi các anh
và tôi - Nó sẽ được xem như vậy bằng sự thay đổi của biến tố.
3. MỘT ÐỜI SỐNG ÁC (dujjiivita.m): Một
đời sống đáng bị chê trách bởi những bậc trí tuệ. DẦU Ở TRONG TẦM
TAY (Ye sante): Dầu những vật thí ấy ở trong tầm tay, có sẵn đối với
chúng ta. CHÚNG TA ÐÃ KHÔNG BỐ THÍ na dada.mhase = na dadamha (thể văn phạm
hoán chuyển): Ðể làm cho sáng tỏ ý nghĩa của điều mà hắn đã nói,
khi ấy Ngài nói rằng, "Dầu những vật thí ở trong tầm tay, nhưng chúng
ta không làm chỗ nương tựa cho chính chúng ta".
4. TÔI=so 'ha.m= So aha.m (phối hợp
cách): Khi ấy (nuna): là một bất biến từ về sự suy xét điều được nói
ra. TỪ ÐÂY (ito): Từ địa ngục vạc sắt này. ÐÃ ÐI (gantvaa): Ðã ra
đi. ÐƯỢC VÀO CÕI NGƯỜI (yoni.m laddhaana maanusi.m): Có được cõi người,
kiếp sống trong cõi người. CỞI MỞ (vada~n~nuu): có tánh rộng rãi hay tử
tế với những người ăn xin. CÓ GIỚI ÐỨC (siilasampanno): Có giới hạnh.
VÀ QUYẾT TÂM LÀM NHIỀU VIỆC THIỆN (kaahaami kusala.mbahu.m) Không rơi vào
trong sự dễ duôi như trước kia chúng ta đã làm, ta quyết tâm làm nhiều
việc thiện, nhiều việc phước, nghĩa là chúng ta sẽ tích lũy chúng.
Khi Bậc Ðạo sư đã nói những câu kệ
này, Ngài thuyết giảng chánh pháp đầy đủ những chi tiết. Vào lúc kết
thúc của thời pháp ấy, người đàn ông mà đã kiếm về đất sét đỏ
được an trú trong quả thánh Tu- Ðà- hườn. Ðức vua đầy xúc động, bèn
từ bỏ sự tham luyến vợ của người đàn ông khác và thoả mãn với vợ
của chính mình.
-ooOoo-
IV.16: QUỈ SỰ VỀ SÁU
CHỤC NGÀN CÁI BÚA
(SA.T.THIKUU.TA SAHASSA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Tại sao ngươi, như một người
điên?" Quỉ sự này được kể lại trong khi Bậc Ðạo sư đang ngụ
ở Ve.luvana, liên quan đến một Ngạ quỉ nọ.
Tương truyền rằng, cách đây đã
lâu ở trong thành phố Ba la nại, có một người què nọ có tài trong việc
búng sỏi. Khi ông ta đã đạt đến sự toàn hảo như vậy về nghệ thuật
búng sỏi, ông ta thường ngồi ở gốc của một cây đa ở cổng thành và
bằng cách bắn vào những ngọn là của cây đa bằng những viên sỏi, ông
ta thường tạo ra những mẫu hình về những con voi, những con ngựa, chiếc
xe, người, những ngôi nhà tháp nhọn với những lá cờ, những cái lu đầy
nước v.v... khiến cho chúng hiện ra trên những ngọn lá ấy. Những đứa
trẻ của thành phố ấy thường trả công cho ông ta bằng những đồng tiền
bỏ túi của chúng và bảo ông ta trổ tài theo ý thích của chúng. Rồi một
hôm nọ, khi đức vua của thành Ba la nại rời khỏi thành phố, vị ấy
đi đến gốc của cây đa ấy. Ðức vua trông thấy nhiều hình thức và mẫu
mã khác nhau như hình của con voi v.v... dính vào những ngọn lá của cây
đa ấy và hỏi mọi người rằng, "ai đã tạo ra những hình thể và
những mẫu mã khác nhau bằng cách này trên những ngọn lá đa này?"
Dân chúng chỉ về người què mà nói rằng, "Tâu bệ hạ, chúng được
làm bởi người đàn ông ấy". Ðức vua gọi người đàn ông ấy đến
và nói rằng, "Hãy nhìn đây, có thể nào để ngươi làm đầy bụng một
người đàn ông bằng những viên phân dê trong khi ông ta đang nói chuyện,
mà không để cho ông ta biết, nếu ta chỉ cho thấy ông ta?" "Tâu bệ
hạ, điều ấy có thể được". Ông ta đáp lại.
Đức vua dẫn ông ta đi đến hoàng
cung và, chán nghe những lời lãi nhãi của vị tư tế quan, đã cho gọi vị
tư tế quan ấy đến. Ðức vua ngồi chung với vị Tư tế quan trong một chỗ
cách biệt được bao quanh bởi một vách màng, và trong khi tham khảo ý kiến
với vị Tư tế quan, bèn cho gọi người què đến. Người què đi đến
mang theo một ống tre chứa đầy những viên phân dê, khi lưu ý chỗ ngồi
của đức vua, ngồi xuống xoay mặt về phía vị Tư tế quan, và khi miệng
của vị Tư tế quan hả ra thì ông ta bắn vào những viên phân dê xuyên
qua một lỗ hở trên bức màng, viên này đến viên khác, đến đầy cuống
họng của vị Tư tế quan. Do xấu hổ, không thể nôn ra trước mặt của
đức vua, vị Tư tế quan đành phải nuốt hết tất cả những viên phân
dê. Khi cái bao tử của vị Tư tế quan đã chứa đầy phân dê thì đức
vua cho vị ấy ra về khi nói rằng, "Hãy đi, này ông Bà la môn, ông đã
nhận lãnh kết quả của sự nói lảm nhảm của ông rồi đó. Khi ông đã
uống thứ nước được làm từ trái cây được nghiền nát và những loại
lá v.v.... Của cây Piya"ngu thì ông sẽ nôn ra. Bằng cách này ông sẽ
hoàn toàn khỏe lại", và, thoả thích với điều mà người què kia đã
làm, bèn cho ông ta mười bốn ngôi làng.
Sau khi có được những ngôi làng
này, chính ông ta được hạnh phúc và vui sướng luôn. Ông ta sống đầy
đủ tiện nghi, nhưng không quên lãng những điều lợi ích trong cả đời
sống này và thế giới bên kia và ông ta thường cho bất cứ cái gì cần
thiết đến mọi người như những vị sa môn và những vị Bà la môn;
trong khi đó ông ta cho vật thực và sự hưởng công đến những người mà
đã đến với ông ta khi họ rèn luyện nghệ thuật của ông ta. Rồi một
người đàn ông nọ, đi đến với ông ta và nói như vầy, "Xin hãy
làm thầy của con và dạy cho con về môn này, nhưng con không dùng gì đến
vật thực của thầy gọi là sự trả công". Ông ta dạy cho người đàn
ông ấy về môn búng sỏi của mình. Sau khi trở thành lão luyện trong nghệ
thuật búng sỏi bằng cách bắn sỏi vào người, anh ta đã làm bể đầu của
Ðức Phật Ðộc Giác Sunetta khi ngài đang ngồi trên bờ sông và Ðức Phật
Ðộc Giác nhập Niết bàn ngay tại đó ở trên bờ sông. Khi dân chúng nghe
tin về biến cố này, họ đánh anh ta ngay tại đó bằng những cục đất
và những cây gậy v.v... Và đã giết chết anh ta.
Khi anh ta chết, anh ta tái sanh trong đại
địa ngục Aviici và bị nấu sôi trong nhiều ngàn năm trong địa ngục ấy.
Trong suốt thời kỳ của Ðức Phật này anh ta sanh lên, do bởi dư báo của
nghiệp ấy, làm một Ngạ quỉ không cách xa thành vương xá. Vì kết quả
phải theo đúng với nghiệp, sáu chục ngàn cái búa được đưa lên vào buổi
sáng, trưa và tối do bởi lực thôi thúc của nghiệp ấy và rồi giáng xuống
trên đầu của hắn; nhân đó, cái đầu của hắn bị đánh và bị bể ra
khiến hắn phải lãnh chịu những cảm thọ đau đớn cùng cực. Hắn thường
té xuống đất, nhưng ngay khi những cái búa đã đi khỏi rồi thì hắn đứng
dậy với cái đầu của hắn trở lại như cũ. Rồi một hôm nọ, Ðại Ðức
Mahaamoggallaana đi xuống từ núi Kỳ xà quật, trông thấy hắn và hỏi hắn
bằng câu kệ này:
1. Tại sao ngươi, như một người điên,
lao đi chỗ này chỗ kia như một con nai bị khiếp đảm vậy? Không nghi ngờ
gì ngươi là một kẻ làm ác - tại sao ngươi tạo ra tiếng ồn ấy?
Chú giải:
1. Ở đây NHƯ MỘT NGƯỜI
ÐIÊN (Ummattaruupo va): Như người mà có tánh điên, như người bị phát điên.
LAO ÐI CHỖ NÀY CHỖ KIA NHƯ MỘT CON NAI BỊ KHIẾP ÐẢM (Migobhanto va
dhaavasi): lao đi chỗ này chỗ kia như một con nai bị hốt hoảng. Vì không
thấy chỗ tránh né nào khi những cái búa sắt đang giáng xuống khiến hắn
phải lao đi chỗ này chỗ kia hy vọng rằng, có lẻ nó sẽ không đánh ta
ở chỗ này. Nhưng bị đưa lên bởi lực thôi thúc của nghiệp ấy chúng
rơi xuống ngay trên đỉnh đầu của hắn ở bất cứ chỗ nào mà hắn
đang đứng. TẠI SAO NGƯƠI TẠO RA TIẾNG ỒN ẤY (ki.m nu saddaayase tuva.m): Tại
sao ngươi tạo ra âm thanh ấy, tại sao ngươi đi chỗ này chỗ kia tạo ra
tiếng gào rất tuyệt vọng ấy?
Khi nghe qua điều này, Ngạ quỉ bèn
đáp lại bằng hai câu kệ này:
2. Bạch Ngài, con là một Ngạ quỉ đã
đi đến kiếp sống đau khổ của Yamma. Sau khi đã làm ác nghiệp, con đã
đi từ đây đến thế giới của những Ngạ quỉ.
3. Cả thảy đủ sáu chục ngàn cái
búa rơi xuống trên dầu của con và những cái búa này đập vỡ cái đầu
của con.
Chú giải:
3. Ở đây SÁU CHỤC NGÀN CÁI BÚA
(Sa.t.thikuu.ta sahassaani): Ðến sáu chục ngàn cái búa bằng sắt. CẢ THẢY
(Sabbaso): Tổng số, tương truyền rằng cái đầu của hắn có cỡ bằng
cái đỉnh núi, đủ lớn để sáu chục ngàn cái búa giáng xuống. Những
cái búa đang giáng xuống ấy làm bể cái đầu của hắn đến mức độ mà
ngay cả một chỗ để đầu của cọng tóc có thể xuyên qua cũng không
có. Vì lý do này hắn tạo ra tiếng kêu đau đớn; vì lý do này khiến hắn
nói rằng, "Cả thảy đủ sáu chục ngàn cái búa, rơi xuống trên đầu
của con và những cái búa này đập bể cái đầu của con".
Rồi Trưởng lão dò hỏi về nghiệp
mà hắn đã làm bằng hai câu kệ:
4. Bây giờ ác nghiệp nào được làm
bởi ngươi do thân, khẩu hoặc ý? do kết quả của nghiệp nào khiến ngươi
đã đi từ đây đến thế giới của những Ngạ quỉ?
5. Tại sao đủ cả thảy sáu chục
ngàn cái búa rơi xuống trên đầu của ngươi, và tại sao những cái búa
này đập bể cái đầu của ngươi?
Ngạ quỉ ấy nói lên ba câu kệ để
giải thích nghiệp mà hắn đã làm:
6. Con đã trông thấy Ðức Phật
Sunetta, là người mà trong đó các căn đã được tu tập, đang ngồi dưới
một cội cây, đang thiền quán và không sợ gì từ bất cứ hướng nào.
7. Do một cú búng những viên sỏi của
con, con đã làm bể cái đầu của Ngài - chính do kết quả của nghiệp ấy
khiến con phải chịu đau khổ.
8. Ðủ cả thảy sáu chục ngàn cái
búa rơi xuống trên đầu của con và những cái búa này đập bể cái đầu
của con.
Chú giải:
6. Ở đấy ÐỨC PHẬT
(Sambuddha.m): đức Phật Ðộc Giác. SUNETTA (sunetta.m): người có tên ấy. NGƯỜI
MÀ TRONG ÐÓ CÁC CĂN ÐÃ ÐƯỢC TU TẬP (bhaaviti~ndriya.m): Người mà trong đó
các căn như tín căn v.v.. đã được tu tập bằng sự tu tiến của thánh
Ðạo.
7. Do một cú búng những viên sỏi
(saalittakappahaarena): Do sự đánh bằng cách búng đi những viên sỏi theo
cách như sau: Sự thực hành về việc búng sỏi bằng những ngón tay hay một
cái ná nhỏ. Một cách đọc khác là, Bằng sự đánh qua việc búng đi những
viên sỏi (Saalittakappahaga.nena): CON LÀM VỠ: Bhindissa.m = bhindi.m (thể văn phạm
hoán chuyển).
Khi nghe qua điều này Trưởng lão bèn
nói lên câu kệ kết thúc, để cho thấy rằng quả của nghiệp trước mà
bây giờ hắn đang nhận lãnh thật hoàn toàn đúng với việc mà hắn đã
làm:
9. Thật đáng đời cho ngươi, một kẻ
hèn hạ như ngươi, rằng cả thảy đủ sáu chục ngàn cái búa giáng xuống
trên đầu của ngươi và những cái búa này đập bể cái đầu của
ngươi.
Chú giải:
9. Ở đây ÐÁNG ÐỜI CHO
NGƯƠI (dhammena): Nó đúng với nhân của nó (Ngươi, te = tava; thể văn phạm
hoán chuyển). Quả này mà đến với ngươi thật hoàn toàn thích hợp với
ác nghiệp mà ngươi đã làm trong việc xúc phạm vị Phật Ðộc Giác ấy.
Do đó Trưởng lão chỉ cho thấy rằng điều này không thể được tránh
né bởi bất cứ ai, dầu là Chư thiên hay ma vương hay Phạm thiên, hơn nữa
ngay cả Ðức Phật Toàn giác.
Bấy giờ, khi Trưởng lão đã nói như
vậy, ngài bèn đi từ đó đến thành phố để khất thực và khi ngài đã
thọ thực xong, Ngài đi đến Bậc Ðạo sư vào buổi chiều và nêu lên vấn
đề ấy với Ðức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy vấn đề ấy làm nguyên
nhân cần thiết đã sanh lên và, trong khi thuyết giảng Pháp đến tứ chúng,
cho biết những đức tánh kỳ diệu của Chư Phật Ðộc Giác và tánh cách
mà các nghiệp không bị vô hiệu. Mọi người đầy xúc động, đầy niềm
tin; Họ từ bỏ những ác nghiệp và thiên về những việc phước như bố
thí v.v...
Phần trình bày quỉ sự về sáu chục
ngàn cái búa đã kết thúc- Như vậy phần trình bày về ý nghĩa của phẩm
thứ tư, Ðại phẩm, mà được tôi điểm bởi mười sáu câu chuyện trong
những câu chuyện Ngạ quỉ này của bộ Khuddaka Nikaaya đã kết thúc.
- * * * -
NHỮNG LỜI NHẬN XÉT
ÐỂ KẾT LUẬN
Như vậy:
1. Những kẻ mà đã sanh trong cõi Ngạ
quỉ tất cả đều là những người đã làm ác nghiệp; Do bởi những ác
nghiệp ấy, quả dành cho chúng là xấu và khốc liệt.
2. Sự chứng minh và giải thích điều
này bằng lối vấn đáp là giáo lý cần thiết, khiến cho chúng sanh phải
kinh cảm.
3. Bộ Ngạ quỉ ấy hình thành một
thiện luận sự và được khéo thành lập trên một sự hiểu biết toàn
diện về đề tài, nghĩa là, những quỉ sự mà đã được kiết tập bởi
những bậc thầy vĩ đại.
4. Khi dựa vào trên đó, theo cách của
bộ chú giải cổ xưa của chúng, để làm trong sáng ý nghĩa của chúng,
tôi đã thực hiện phần trình bày này về ý nghĩa của chúng.
5. Nghĩa là, phần giải thích về ý
nghĩa bên trong, làm sáng tỏ một cách đúng đắn những ý nghĩa bên trong
ở nhiều chỗ trong đó.
6. Sự phân tích có thứ lớp này về
những ý nghĩa vi tế mà bao gồm đến mười lăm phần tụng đọc về kinh
bây giờ đã đến chỗ kết thúc rồi.
7-8. Do nhờ oai lực của bất cứ phước
báu nào mà tôi đã làm được qua sự biên soạn bộ chú giải bằng cách
này, cầu mong tất cả chúng sanh đều được thấm nhuần giáo pháp của
đấng cứu rỗi thế gian và cầu mong tất cả chúng sanh được nếm
hương vị giải thoát qua hạnh kiểm thanh tịnh và giới đức đầy đủ
v.v...
9. Cầu mong cho giáo pháp của Ðức Phật
toàn giác được trường tồn trong thế gian và cầu mong cho tất cả chúng
sanh luôn luôn có lòng kính mộ giáo pháp ấy.
10. Cầu mong thần mưa cũng rơi xuống
thích hợp và đúng lúc, và cầu mong chúa của quả đất sùng mộ giáo
pháp chân chánh và trị vì thế gian theo đúng với chánh pháp.
Như vậy phần trình bày về ý nghĩa
của những quỉ sự được thực hiện bởi Ðại Ðức Aacariya Dhammapaala,
là vị Tỳ kheo và là bậc hiền trí cao quí và cũng là vị Sa môn trú ngụ
trong tịnh xá Badaratittha, đã kết thúc.
- Kết thúc bộ Chú giải Ngạ quỉ
sự -
-ooOoo-