- CHÚ GIẢI NGẠ QUỶ
SỰ
- Dịch từ Pali sang Anh Ngữ: PETER
MASEFIELD
[1.a]
CHƯƠNG I: XÀ PHẨM
(URAGAVAGGA)
-ooOoo-
I.1 PHƯỚC ÐIỀN QUỈ SỰ
(KHETTUUPAMAAPETTAVATTHUVA.N.NANAA)
Ðức Thế Tôn, khi đang ngụ ở chỗ
nuôi ăn của những con sóc, trong khu rừng Trúc tại Raajagaha, đã kể lại
câu chuyện này liên quan đến một Ngạ quỉ nọ mà trước kia là con trai
của một vị thương Nhân giàu có.
Tương truyền rằng, tại Raajagaha có
một vị Thương nhân giàu có nọ, có của cải lớn, vật sở hữu lớn,
nhiều nguồn vật chất và vô số Ko.ti của cải tích lũy. Chính vì ông ta
có của cải lớn mà ông ta đơn giản được nổi danh là Mahaa dhanasetthi
(Ðại Trưởng giả). Ông ta chỉ có một đứa con trai duy nhất, được ái
nịch nhiều và được chiều chuộng. Khi cậu ta đến tuổi thành niên thì
cha mẹ của cậu nghĩ rằng, "nếu con trai của chúng ta tiêu xài một
ngàn đồng mỗi ngày trong một trăm năm thì cả số của cải này cũng không
hết. Hãy cho nó hưởng tài sản này theo ý thích của nó với một thân
và tâm không mỏi mệt, vì không cần phải học một nghề nào". Họ
đã không để cho cậu ta học nghề và khi cậu đến tuổi thành niên, họ
đem về cho cậu một nàng dâu thuộc một gia đình tốt, trẻ trung, xinh đẹp
và duyên dáng, nhưng là người ưa khoái lạc nhục dục và không quan tâm
đến lối sống tâm linh. Khi cậu ta hưởng những khoái lạc tình yêu với
nàng, cậu chẳng hề có một ý nghĩ về chánh Pháp và trở nên bất kính
với những vị Sa môn, Bà la môn và những bậc đáng kính, và lại được
vây quanh những người ác. Và được bám sát như thế, cậu ta vui thích
trong ngũ dục bằng tánh si mê của cậu, cậu mải mê đắm chìm trong
khoái lạc và trải qua cuộc đời như thế.
Khi Cha mẹ qua đời, anh ta hoang phí của
cải của mình, vung vải tiền bạc đến những vũ nữ những ca sĩ và những
người khác theo ý thích của anh ta. Chỉ trong một thời gian ngắn, tất cả
của cải của anh ta dần dần cạn hết, anh ta bắt đầu sống bằng cách
cấn nợ vay tiền. Khi anh ta không thể kiếm thêm tiền vay và bị thúc ép
bởi những chủ nợ, anh ta cho họ đất trồng trọt, nhà cửa và những thứ
khác, rồi đến sống trong phước xá dành cho những người nghèo túng
trong cùng thành Phố ấy, ăn (cái gì anh ta kiếm được) bằng cách đi lang
thang cầm bát xin ăn.
Một hôm nọ, có một số tên cướp
kéo đến và nói với anh ta rằng, "Hãy nhìn đây, này người kia, tại
sao cuộc sống của anh lại vất vả đến như thế này? Anh còn trẻ lại
có sức mạnh, nhanh nhẹn và có khả năng. Tại sao phải sống như nguời mất
tay mất chân vậy? Nào! Nhờ đi ăn cắp với chúng ta, anh có thể kiếm về
của cải của những người khác và sống thoải mái!" "Tôi không
biết cách ăn cắp". Anh ta đáp lại. "Chúng ta sẽ chỉ cách cho
anh. Anh chỉ cần làm theo mọi điều mà chúng ta bảo," những tên cướp
nói. "Thôi được", anh ta đồng ý và đi chung với chúng. Rồi những
tên cướp đặt một cây gậy lớn vào tay anh ta rồi đột nhập vào nhà.
Khi chúng đi vào, chúng để anh ta đứng ở cửa ngạch, dặn rằng, "nếu
có ai khác đến đây thì cầm cây gậy này đánh vào người ấy một cú
cho chết". Ðầy si mê rồ dại và không biết cái gì là tốt hay xấu
đối với anh ta, anh ta đứng ở đó, nhìn quanh chờ những người lạ đi
đến, trong khi đó những tên cướp đi vào nhà lấy bất cứ cái gì chúng
có thể rớ tới, và chạy đi loạn xạ ngay khi những người trong nhà biết
được việc làm của chúng. Những người trong nhà đứng lên, chạy rất
nhanh và lùng sục tìm kiếm chúng khắp mọi hướng, trông thấy người đàn
ông đứng ở cửa, nơi mà chúng đã đột nhập vào. "Nó đó kìa, tên
cướp." Họ nói, và rồi tóm lấy anh ta và đánh anh ta bằng cây gậy
và những thứ khác trên hai tay và hai chân của anh ta. Họ đưa anh ta đến
trước đức vua và nói rằng "Tâu Bệ hạ", đây là tên cướp đã
bị tóm bắt ở cửa miệng ngạch". "Truyền chém đầu nó!" Ðức
vua truyền lệnh cho đội binh bảo vệ thành phố. "Xin tuân lệnh, tâu
bệ hạ", Ðội lính canh Thành phố nói và sai trói chặt hai cánh tay của
anh ta ra sau lưng. Với một tràng hoa Kanaviira màu đỏ được buộc quanh cổ
của anh ta và cái đầu của anh ta bị làm vấy bẩn bởi bụi gạch, người
ta đánh anh ta bằng roi trong khi dẫn anh ta đến pháp trường theo con đường
đã được công bố bằng tiếng trống xử trảm. Họ dẫn anh ta đi từ
con đường này đến con đường khác, và từ ngã tư đường này đến ngã
tư đường khác, trong khi đó tiếng la ó từ hai bên đường vang lên rằng,
"đây là tên cướp đã bị tóm bắt trong Thành Phố này!"
Bấy giờ trong Thành Phố ấy, vào trường
hợp ấy, có cô gái điếm của Thành phố, tên là Sulasaa, đang đứng trong
cung điện nhìn ra qua cửa sổ mắt cáo, và trông thấy anh ta bị dẫn đi
như thế. Do đã làm quen với anh ta trong quá khứ, lòng thương xót đối với
anh ta khởi lên trong nàng vì nàng nghĩ rằng: "Người đàn ông này mà
đã thường thọ hưởng sự hưng thịnh lớn trong cùng thành phố này, nay
phải rơi vào tình cảnh bất hạnh như thế, đi đến cảnh ngộ khốn đốn
như vậy". Nàng gởi ra bốn loại đồ ngọt và một ít nước, và sai
công bố với đội lính canh của Thành phố rằng, "Xin các ngài hãy tạm
dừng một chút cho đến khi người đàn ông này đã ăn xong những thứ đồ
ngọt này và uống nước này". Bấy giờ, trong khoảng thời gian xảy
ra sự việc này, Ðại đức Moggallaana trông thấy cảnh ngộ của anh ta khi
Ngài dò xét thế gian bằng thiên Nhãn của Ngài, tâm của Ngài bị kích động
bởi lòng bi mẫn và Ngài nghĩ rằng, "Người đàn ông này đã không
làm những việc phước, anh ta chỉ gây ra những ác nghiệp mà thôi. Vì lý
do này anh ta sẽ anh vào trong Ðịa Ngục. Nhưng nếu ta đi đến đó và anh
ta chịu cho ta những thứ đồ ngọt và nước uống, thời anh ta sẽ ra đi
cọng trú với những vị chư Thiên địa cầu. Lành thay, nếu ta giúp đỡ
người ấy", Và Ngài xuất hiện trước mặt người đàn ông khi những
thứ đồ ngọt và nước uống đang được đem đến cho anh ta. Khi anh ta trông
thấy Trưởng lão, với lòng tịnh tín, anh ta suy nghĩ rằng "Nếu ta ăn
những thứ đồ ngọt này thì có ích gì cho người sắp bị giết chết?
Nhưng chúng có thể làm hành trang cho người đi sang thế giới bên
kia". Và anh ta nhờ người dâng những thứ đồ ngọt và nước uống
đến Trưởng lão. Với mục đích làm gia tăng lòng tịnh tín của anh ta,
Trưởng lão ngồi xuống ở một chỗ để anh ta có thể trông thấy Ngài,
và ăn những thứ đồ ngọt và uống nước, rồi đứng dậy khỏi chỗ ngồi
và ra đi. Người đàn ông bị những Ðao Phủ thủ dẫn đến pháp trường
và chém đầu. Dầu anh ta đáng được sanh vào cõi Devaloka thù thắng nhờ
việc phước mà anh ta đã gieo tạo nơi Trưởng Lão Mahaa Moggallaana, là phước
điền vô thượng, nhưng vì anh ta đã nghĩ rằng, "Chính nhờ ơn của
Sulasaa nên ta có được phước này", nên những ý nghĩ vào lúc lâm
chung của anh ta bị lấm nhơ bởi những cảm nghĩ về tình thương đối với
Sulasaa, và vì thế anh ta sanh lên ở cấp độ thấp, làm một vị thọ Thần
trong một cây đa lớn giữa một đám cây rừng có bóng mát dầy đặc.
Tương truyền rằng, Nếu trong thời
thanh xuân của anh ta mà anh ta làm việc chăm chỉ và trông nom gia hệ, thời
chắc chắn anh ta sẽ là một người tối thắng trong những vị thương nhân
giàu có trong cùng thành phố ấy; nhưng trái lại, nếu khi ở tuổi trung
niên, thời anh ta sẽ là người tối thắng trong những vị thương nhân
giàu có bực trung; và nếu ở tuổi già, thời anh ta sẽ là một trong những
vị thương nhân bực thấp nhứt. Tuy nhiên, nếu trong thời thanh niên của
anh ta mà anh ta đi xuất gia, thời anh ta sẽ trở thành một vị A la hán; nhưng
trái lại, nếu trong thời trung niên, thời anh ta sẽ trở thành một vị Bất
lai hay Nhất lai; và nếu trong tuổi già của anh ta, thì anh ta sẽ trở
thành một vị Tu đà huờn (Sotaapanna). Nhưng người ta nói rằng, do sự kết
hợp của anh ta với bạn ác, anh ta đã trở nên ngang ngạnh và xu hướng
theo hạnh kiểm xấu, và chơi bời trụy lạc với những nữ nhân, uống rượu,
và đến một lúc nào đó anh ta đã tiêu phí hết tất cả tài sản của
mình và đi đến cảnh ngộ bi đát to lớn ấy.
Rồi về sau vị chư Thiên ấy trông
thấy Sulasaa đang đi đến công viên. Ðầy tham ái và dục vọng, vị ấy
làm cho nàng mê mờ, rồi đưa nàng đến cõi của chính vị ấy, và sống
gắn bó với nàng trong bảy ngày và rồi cho nàng trông thấy chơn tướng của
mình. Mẹ của nàng, vì không thể trông thấy nàng ở đâu, bèn rảo đi khắp
các nơi mà khóc lóc. Khi mọi người trông thấy bà ta, họ nói rằng:
"Ðức Mahaamoggallaana tôn quí là Người có đại thần thông và đại
uy lực, sẽ biết được chỗ ở của nàng. Bà nên đi hỏi Ngài"
"Tốt lắm, thưa các người", Bà ta nói, đoạn đi đến Trưởng lão
và hỏi Ngài về vấn đề ấy. Trưởng lão nói rằng Bà sẽ trông thấy
nàng ở mé góc của hội chúng khi Ðức Thế Tôn đang thuyết Giảng Chánh
Pháp ở Mahaa vihaara, trong khu rừng trúc, trong bảy ngày kể từ hôm
nay". Rồi Sulasaa nói với vị Devaputta rằng, "Thật không thích hợp
để tôi sống trong trú xứ của ngài, ngày hôm nay là ngày thứ bảy, và mẹ
của tôi vì không thể trông thấy tôi, sẽ rất nóng lòng và buồn khổ,
xin hãy đưa tôi về lại chỗ đó, Deva ạ!" vị ấy đưa nàng đi khi
đức Thế Tôn đang thuyết giảng Chánh Pháp ở khu rừng trúc, và đặt nàng
ở mé góc của hội chúng, rồi đứng ẩn mình. Nhân đó mọi người, khi
trông thấy Sulasaa, bèn nói rằng, "Sulasaa cưng, cô đã ở đâu trong nhiều
ngày như vậy? Mẹ của cô, vì không thể trông thấy cô, đầy mong ngóng
và buồn khổ như người đảng trí". Nàng kể cho mọi người biết biến
cố đã xảy ra. Và khi mọi người hỏi rằng, "Làm sao mà người đàn
ông ấy, là người đã đắm chìm trong những hành động ác như thế, và
cũng là người chưa hề làm việc thiện nào, lại được sanh làm một vị
Dava?" Salasaa đáp lại rằng: "Anh ta đã cho đến Trưởng lão cao
quí Mahaa Moggallaana những loại đồ ngọt và nước uống mà tôi đã cho
anh ta; chính do việc phước nầy mà anh ta được sanh làm một vị Deva
". Sau khi mọi người nghe được điều này thì họ lấy làm ngạc
nhiên; và họ cảm thấy hoan hỷ lớn và thoả mãn khi nghĩ rằng: "Những
bậc A-la-hán quả thật là phước điền vô thượng của thế gian - Ngay cả
một việc thiện nhỏ nhất được làm đến cho các ngài cũng khiến cho những
chúng sanh ấy được sanh làm chư thiên".
Các vị Tỳ kheo nêu lên vấn đề này
với đức Thế Tôn; và do nhân cần thiết đã sanh lên, đức Thế Tôn bèn
nói những câu kệ này:
1.
Thánh Tăng như ruộng tốt tươi,
Những kẻ dâng cúng như người trồng cây;
Hạt giống như phước thí đây:
Từ những nhân ấy quả này cho ra.
2.
Hạt này với thuở ruộng này,
Với công trồng trọt kết xây quả lành
Cho người quá vãng của mình
Và cho người đã tạo thành phước kia;
Ngạ quỉ hưởng phước được chia,
Người cho nhờ đó sanh về cõi vui.
3.
Ở đây khi phước tạo rồi,
Và cho Ngạ quỉ đứng ngồi chờ mong-
Phước lành khi đã tạo xong,
Người kia khi chết sanh trong cõi trời.
Chú giải:
1- Ở đây: "NHƯ RUỘNG
TỐT TƯƠI (Khettaa Pamaa): Thửa ruộng là chỗ nuôi dưỡng những hạt giống
đã được vãi ra và được gieo xuống trong đó, và là chỗ bảo vệ
chúng bằng cách biến chúng thành quả lớn. Ðó là chỗ dành cho những hạt
lúa đang mọc lên v.v... "Như ruộng tốt tươi" Nghĩa là các Ngài tương
tự như thửa ruộng đã được sửa soạn để cày. THÁNH TĂNG (Arahato): Những
người đã đoạn trừ các lậu hoặc, các Ngài được gọi là
"A-la-hán" bởi vì kẻ thù là ô nhiễm và những cái căm của bánh
xe luân hồi đã bị các ngài phá nát rồi; vì các Ngài đã xa lìa chúng; bởi
vì các Ngài thọ những món vật dụng; và vì các Ngài không làm những ác
nghiệp, ngay trong chỗ những chỗ kín đáo. Về điều này, cũng như một
thửa ruộng đã được khéo sửa soạn, vì nó không bị phá hoại bởi những
cây cỏ, khi được gieo bởi những hạt giống thì cho ra kết quả lớn nhờ
công chăm bón trồng trọt. Khi được gieo nghĩa là nó được tưới nước
đúng thời và những điều kiện cần thiết khác cũng được làm xong. Cũng
vậy, đối với người mà trong tâm người ấy các lậu hoặc đã được
đoạn trừ, người đã chứng đắc rốt ráo và không còn ô nhiễm về
tham -sân - si, khi được gieo bằng hạt giống phước thí, thì đem lại quả
báu lớn cho người cúng dường, chỉ cần đúng thời và những điều kiện
cần thiết khác có mặt. Vì lý do này mà Ðức Thế Tôn nói rằng,
"Các vị A-la-hán như một thuở ruộng". Ðây là lời giải thích bằng
lối đ?nh nghĩa rốt ráo, vì những người hữu học thì không được bao gồm
trong thửa ruộng ấy. NHỮNG NGƯỜI CÚNG DƯỜNG (Daayakaa): Những người cúng
dường là những người đã cho đi những vật dụng như y phục v.v... bằng
sự bố thí rộng rãi của họ những người đã cho đi là những người dã
cắt đứt lòng tham và những ô nhiễm khác trong tâm của chính họ, nghĩa
là những người làm cho thanh tịnh và phòng hộ tâm của họ. NHƯ NHỮNG
NGƯỜI NÔNG DÂN (Kasakaapamaa): Tương tự như người nông dân: Cũng y như
người nông dân có được kết quả thù thắng và dồi dào về những vụ
mùa của ông ta nếu ông ta cày xới những thuở ruộng của ông ta và chăm
chỉ vun bón đều đặn, và thực hiện hệ thống tưới nước, sự cất vào
kho và sự bảo vệ v.v...; Cũng vậy, người mà cho ra cũng được quả báu
dồi dào và thù thắng từ vật thí của người ấy, nếu người ấy siêng
năng trong việc làm phước. Và bằng tánh rộng rãi về việc cúng dường
đến những vị A- la- hán. Vì lý do này mà Ngài nói rằng: "Những người
cúng dường giống như những người nông dân". SỰ LÀM PHƯỚC CÚNG DƯỜNG
NHƯ HỘT GIỐNG (Biijuupama.m deyya dhamma.m): nghĩa là tương tự như hạt giống
là thí vật, vì đây là tên đối với mười loại vật thí mà sẽ được
cho ra, như đồ ăn thức uống v.v... TỪ NHỮNG VẬT THÍ NẦY QUẢ TRỔ SANH
(Etto Nibbattate Phala.m): nghĩa là từ những vật thí này, từ (Sự liên kết
của người cho, sự cho lãnh và sự cho vật thí, quả của vật thí sanh
ra, sanh lên và tiếp tục tồn tại bằng cách chúng được liên kết trong
một thời gian rất lâu. Liên quan đến điều này, vì bản chất của các
vật như đồ ăn và thức uống v.v... được sửa soạn bằng không gì
khác ngoài tác ý bố thí chúng. Do đó, "sở thí vật như hạt giống
" là cách mà vật thí được đem ra so sánh.
2. HẠT GIỐNG, MẢNH RUỘNG VÀ SỰ
GIEO TRỒNG NÀY (Eta.m bija.m kaasiikhett.m): hạt giống đã được nói ở
trên,mảnh ruộng và sự gieo trồng đã được nói ở trên. Ðiều được
gọi như vậy có nghĩa là sự gieo hạt giống ấy trong mảnh ruộng ấy. Ba
cái này khả ái với ai? Ngài nói rằng: "Cho những ngạ quỷ và người
cho đi". Nếu người cho vật thí mà nhân danh Ngạ quỉ thì hạt giống
này, sự gieo trồng và mảnh ruộng này sẽ có lợi ích cho cả những Ngạ
quỉ ấy và những người cho ra. Trong khi đó, nếu người cho vật thí ấy
mà không nhân danh Ngạ quỉ, thời chúng chỉ có lợi cho riêng người cho mà
thôi- ý nghĩa là như vậy. Rồi để định rõ lợi ích này, "Những ngạ
quỷ dùng phước được hồi hướng này, trong khi người cho nhờ phước
ấy mà được sanh lên" được nói đến. Ở đây, NHỮNG NGẠ QUỈ
DÙNG PHƯỚC ÐƯỢC CHO NÀY (Ta.m Petaa Paribhu~nnjanti): trong khi vật thí được
cho ra nhân danh những Ngạ quỉ, do bởi những người cho, những Ngạ quỉ
thọ hưởng quả của vật thí ấy mà có lợi cho những Ngạ quỉ do sự
thành tựu về phước điền đã được nêu ra ở trên, sự gieo trồng và
hạt giống được nêu ra ở trên, và do sự thọ hưởng (được cho thấy
bởi những Ngạ quỉ). TRONG KHI NGƯỜI CHO NHỜ PHƯỚC ẤY MÀ SANH LÊN
(Daataa Pu~n~nena Vaddhati): Tuy nhiên, trong khi người cho, do bởi việc phước
về bố thí của người ấy, được hưng thịnh dồi dào về những dục lạc
thù thắng v.v...trong cõi chư thiên và nhân loại. Vì quả của việc phước
cũng có thể gọi là "Phước" như trong câu: "Chính do sự gieo
tạo những thiện Pháp, này các Tỳ kheo, mà phước này tăng tiến"
v.v...
3. KHI ÐÃ LÀM VIỆC THIỆN NGAY Ở
ÐÂY (Idha' eva kusa.la.m katvaa): Khi đã tích lũy ngay ở đây, trong chính kiếp
sống này, phước bao gồm sự bố thí bằng cách cho ra nhân danh những ngạ
quỷ, và cái gọi là điều thiện mang ý nghĩa rằng lạc quả không tỳ vết.
VÀ LÀM VẺ VANG NHỮNG NGẠ QUỈ (Pete ca pa.tipuujaya.m): Tôn kính bằng sự bố
thí nhân danh những Ngạ quỉ và giải phóng họ ra khỏi nỗi thống khổ
mà họ đang gánh chịu, vì lý do này, "vì sự tôn kính đã được đem
lại cho chúng ta" và "và vinh dự cao tột đã được sanh đến cho
những Ngạ quỉ" được nói đến. VÀ ÐÃ LÀM VẺ VANG NHỮNG NGẠ QUỈ
(Pete ca): Chữ "vaa" bao gồm những lợi ích của việc bố thí (được
hưởng) trong chính kiếp sống này, như là: Người ấy được thương mến
và chìu chuộng nhiều, người ấy sẽ được mọi người đến gần và
tin cậy, người ấy sẽ được tôn kính, và người ấy sẽ được khen ngợi
bởi các Bậc trí tuệ v.v.... khi đã làm việc lành ấy. NGƯỜI ẤY ÐI ÐẾN
CÕI TRỜI (Sagga~n ca Kamati .thaana.m ka.mma.m katvaana bhaddhaka.m): Khi đã làm việc
thiện, khải ái và tốt đẹp ấy, người ấy đi đến bằng sự sanh vào
trong cõi Devaloka, chỗ tái sanh dành cho những người đã làm những việc
phước, nên có tên là "Thiện thú" (Sagga.m) vì nó có mười đặc
tánh thù thăng như thọ mạng của chư Thiên v.v...
Vào lúc kết thúc Pháp thoại này, Tuệ
quán sanh đến cho tám mươi bốn ngàn chúng sanh bắt đầu từ vị devaputta
ấy và nàng Sulasaa
Bằng sự giải thích này về ý nghĩa
bên trong, bằng sự trình bày này rõ câu chuyện Ngạ quỉ này, Phước điền
Ngạ quỉ sự được kết thúc.
-ooOoo-
I.2 TRỦNG QUỈ SỰ
(SUUKARA PETAVAT.THUVA.N.NANAA)
"Thân của ngươi hoàn toàn có
màu vàng".
Pháp thoại nầy được bậc Ðạo sư
thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở chỗ nuôi ăn của những con sóc
trong khu rừng Trúc, gần Raajaagaha,liên quan đến một Ngạ quỉ nọ có mặt
heo.
Tương truyền rằng, cách đây đã
lâu, trong thời kỳ của Ðức Thế Tôn Kassapa có một vị Tỳ kheo có thân
được thu thúc, nhưng khẩu thì không được thu thúc và thường lăng mạ
chửi mắng các vị Tỳ kheo. Khi vị ấy chết, tái sanh trong địa ngục;
ở đó vị ấy bị thiêu đốt trong suốt thời gian giữa vị Phật, đến
thời gian này vị ấy chết đi ở đó, như là kết quả dư báo của nghiệp
ấy, sanh làm một Ngạ quỉ ở dưới chân núi Kỳ-Xà-Quật gần Raajagaha .
Thân của nó có màu huỳnh kim, nhưng mặt của nó giống như mặt của con
lợn. Vào thời ấy, Ðại đức Naarada đang lưu trú ở núi Kỳ Xà Quật.
Khi đã làm xong mọi nhu cầu về thân, vào lúc sáng sớm, trưởng lão mặc
y và mang bát, và khi vị ấy đang đi vào thành Raajagaha để khất thực, trên
đường đi trông thấy Ngạ quỉ ấy, trưởng lão bèn đọc lên câu kệ
này để dò hỏi nhiệp mà nó đã tạo nên:
1.
"Thân ngươi mang sắc huỳnh kim,
Toả ra ánh sáng lung linh bốn bề;
Nhưng mặt ngươi giống lợn xề.
Nghiệp gì ngươi đã nặng nề tạo nên?"
Chú giải:
1. Ở ÐÂY, THÂN NGƯƠI
MANG SẮC HUỲNH KIM (Kaayo te Sabbasova.n.no): Thân của ngươi, con người của
ngươi, trên khắp đều có màu huỳnh kim giống như màu đỏ của vàng bị
tan chảy. TOẢ RA ÁNH SÁNG LUNG LINH BỐN BỀ (Sabbaa Obhaasate Disaa): Nó toả
sáng, nó chiếu ra khắp các hướng bằng hào quang của nó; hay nói cách
khác câu nói: "nó trải ra ánh sáng" (Obhaasate) Có thể ngụ ý một
ý nghĩa về thân, dầu điều này không được diễn đạt bằng hình thức
văn phạm của nó, nghĩa là: "Thân của ngươi hoàn toàn vàng; NÓ SÁNG
LÊN (Obhaaseti), nó chiếu ra ở mọi hướng"- Ðây là cách nên hiểu.
TUY NHIÊN MẶT CỦA NGƯƠI LÀ MẶT CỦA CON LỢN (Mukha.nte-Suukarass'eva): Nhưng
mặt của ngươi thì giống như mặt của con lợn, nghĩa là mặt của ngươi
tương tự như mặt của con lợn. NGƯƠI ÐÃ LÀM NGHIỆP GÌ TRONG QUÁ KHỨ?
(Ki.m ka.mma.m Akarii pure): Vị ấy hỏi nó đã tạo nghiệp nào trước kia
trong kiếp quá khứ.
Ngạ quỉ ấy được hỏi như vậy bởi
Trưởng lão về nghiệp mà nó đã tạo, bèn trả lời bằng cách thốt lên
câu kệ này:
2. Tôi đã thu thúc về thân; về lời
nói thì tôi không thu thúc. Vì lý do này, thưa Ngài (Naarada), sắc tướng của
tôi như Ngài thấy đó."
Tôi đã thu thúc về thân,
Nhưng còn lời nói thì không hộ phòng;
Nên thân sáng đẹp vô ngần,
Còn mặt giống lợn muôn phần gớm ghê.
Chú giải:
Ở đây, TÔI ÐÃ THU THÚC
VỀ THÂN (Kaayena Sa~n~nato aasi.m): Tôi đã thu thúc bằng sự thu thúc về
thân, tôi đã kiểm soát bằng sự kiểm soát trong những vấn đề liên
quan đến thân căn. VỀ LỜI NÓI THÌ TÔI KHÔNG THU THÚC (Vaacaayaasi.m
asa~n~nato): Trong các điều liên quan đến lời nói thì tôi không có sự thu
thúc, không có sự kiểm soát. VÌ LÝ DO NÀY (Tena): Do bởi sự thu thúc này
và sự không thu thúc. SẮC TƯỚNG LÀ NHƯ THẾ (Taadiso va.n.no): là vậy như
Ngài, thưa (Naarada), có thể thấy về chính tôi; tôi có sắc tướng là
thân của tôi có hình người và màu huỳnh kim, nhưng mặt của tôi thì tương
tự như con heo. Ðây là cách mà nó nên được hiểu. Chữ "Sắc tướng"
(Va.n.no) nên được xem ở đây là sự đề cập đến nước da và hình tướng
của vị ấy.
Khi Ngạ quỉ đã trả lời như vậy vấn
đề mà nó được hỏi đến bởi Trưởng lão, khi nương vào lý do này,
nó thốt lên câu kệ này để khuyên Trưởng lão:
3. "Do đo tôi xin nói với Ngài, Thưa
Ngài (Naarada), chính Ngài đã trông thấy điều này; đừng tạo nghiệp ác
về khẩu, đừng kết thúc bằng cái mặt heo!"
Vậy, hỡi (Naarada):
Tôi xin được nói rằng
Ðiều này Ngài đã thấy,;
Ác khẩu chớ tạo ra,
Ðừng để kiếp sau phải
Có mặt heo như ta!
Chú giải:
3. Ở đây, chữ DO ÐÓ:
Ta.m=Tasmaa (...) hình thức văn phạm hoán chuyển (...). TÔI (NÓI) VỚI NGÀI:
Taaha.m = Te aha.m (cách nối). NAARADA "Naarada":, Nó đang nói với Trưởng
lão NÓI (Bruumi): Nói cho biết. CHÍNH NGÀI (Saama.m): Bởi chính Ngài. ÐIỀU
NÀY (Ida.m): nó nói liên quan đến thân của chính nó. Ở đây, ý nghĩa như
thế này: "Bởi vì Ngài, thưa Ngài Naarada, khi chính Ngài đã trông thấy
trạng thái mà thân của tôi có hình người từ cổ trở xuống và hình tướng
con heo (Từ cố trở lên). Do đó, tôi xin nói để khuyên Ngài. Ngạ quỉ đã
nói điều gì? "Ðừng tạo ra ác nghiệp nào về lời nói, đừng kết
thúc bằng cái mặt của con heo". Ở đây ÐỪNG (Maa): là một tiểu từ
không biến đổi về sự cấm. VỀ KHẨU: Mukhasaa = Mukhena (Hình thức văn
phạm hoán chuyển) Kho (không được dịch) Ðược dùng để nhấn mạnh. Ðừng
gieo tạo, đừng làm ác nghiệp nào về lời nói. ÐỪNG KẾT THÚC BẰNG
CÁI MẶT CỦA CON HEO (maa kho suukaramu kho ahu): đừng kết thúc bằng cái mặt
cuả con heo như tôi đã bị. Nhưng nếu Ngài lỗ mãng và phạm phải những
ác nghiệp về lời nói thời chắc chắn Ngài sẽ bị kết thúc bằng cái
mặt của heo. Do đó, nó khuyên vị ấy như vầy: "Ðừng tạo ác nghiệp
nào về lời nói cả", để ngăn đừng cho sanh quả là cái mặt ấy.
Rồi Trưởng lão Naarada đi tiếp đến
Raajagaha để khất thực. Sau khi thọ thực xong, vị ấy trở về và nêu vấn
đề với Bậc Ðạo sư khi Ngài đang ngồi ở giữa tứ chúng. Bậc Ðạo sư
nói rằng: "Nầy Naarada Như Lai cũng đã trông thấy chúng sanh ấy trong
quá khứ", và rồi thuyết Pháp khi giải thích bằng vô số cách về những
quả liên quan đến ác hạnh . Thời pháp ấy đem lại lợi ích cho hội
chúng đã hội họp ở đó.
-ooOoo-
I.3 XÚ KHẨU QUỈ SỰ
(PUUTIMUKKHA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Ngươi có nước da đẹp như chư
Thiên".
Pháp thoại này được Bậc Ðạo sư
thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở chỗ nuôi ăn của những con sóc
trong khu rừng trúc, liên quan đến một Ngạ quỉ nọ có miệng thúi.
Tương truyền rằng cách đây đã
lâu, trong thời của Ðức Thế Tôn Kassapa,có hai chàng thanh niên thuộc gia
đình danh giá, đã xuất gia theo giáo pháp của Ngài và có đầy đủ giới
hạnh, sống cuộc đời khổ hạnh và trú ngụ với nhau trong sự hoà hợp
ở trong một ngôi làng nọ. Rồi một vị Tỳ kheo nọ, có xu hướng theo những
việc làm ác và thích đâm thọc, đã đến tại chỗ ngụ của họ. Hai vị
Trưởng lão đã tiếp đón vị ấy một cách thân mật và lo cho vị ấy nơi
ăn chốn ở. Vào ngày hôm sau, hai vị trưởng lão cùng với vị Tỳ kheo
kia đi vào làng để khất thực. Khi trông thấy những vị này, dân chúng tỏ
sự tôn kính tột bậc đến ba vị Trưởng lão và dâng cúng đến họ một
bữa ăn bằng cơm dẻo và những thứ khác. Khi vị Tỳ kheo ấy đã đi vào
Tịnh xá, vị ấy suy nghĩ, "Ngôi làng này là một nguồn vật thực hấp
dẫn, vì những người của nó có đầy niềm tin, lại dâng cúng vật thực
ngon, và tịnh xá nầy mát mẽ, lại có nước đầy đủ . Ta có thể sống
hạnh phúc ở đây; Nhưng chừng nào hai vị Tỳ kheo này còn sống ở đây
thì Tịnh xa này sẽ không đem lại cho ta sự thoả mái nào- Ta sẽ sống
ở đây như một môn đệ thường trú. Thôi được, ta phải làm cho họ phải
xa lìa nhau và làm theo cách nào để họ không thích sống ở đây nữa".
Bởi vậy vào hôm nọ, khi vị Trưởng
lão lớn đã giáo giới hai vị kia rồi thì vị Tỳ kheo đâm thọc đi vào
chỗ ngụ của vị ấy, ở lại đó một chốc lát và rồi đi đến vị
Trưởng lão lớn ấy. Trưởng lão hỏi vị ấy rằng: "Này hiền giả,
tại sao hiền giả đến vào lúc phi thời như thế?" " Thưa ngài,
tôi có chuyện cần nói ra", (vị ấy đáp lại); Và khi Trưởng lão đã
cho phép vị ấy (nói) thì vị ấy nói rằng: "Thưa Ngài, vị Trưởng lão
bạn này của Ngài khoe mình như một người bạn trước mặt của Ngài, nhưng
sau lưng thì nói những chuyện về Ngài như là một địch thủ". Khi
được hỏi đó là điều gì, vị ấy nói rằng: " Hãy lắng nghe, thưa
Ngài, vị ấy nói về điều mang tai tiếng của Ngài, rằng: "Vị Trưởng
lão lớn láo cá, xảo quyệt và gian dối; vị ấy kiếm sống bằng những
phương tiện bất chánh". "Ðừng nói như vậy, này hiền giả, vị
Tỳ kheo này không nói những chuyện về tôi. Vị ấy đã biết tánh của
tôi từ lúc chúng tôi còn là cư sĩ. Tôi luôn luôn có tánh thân ái và dễ
thương". "Nếu Ngài nghĩ như vậy do bởi tấm lòng thanh tịnh của
Ngài, thời điều ấy xem như xong đối với Ngài. Nhưng tôi thì không có cảm
nghĩ xấu đối với vị ấy như vậy, thế thì tại sao tôi lại nói cho
Ngài biết rằng vị ấy đã nói như vậy nếu vị ấy không nói điều đó?
Tốt lắm, thưa Ngài, nhưng chính Ngài sẽ tự mình hiểu về điều ấy sau
một thời gian", vị ấy nói. Nhưng vị Trưởng lão ấy, vì vẫn còn
là một Puthujjana, bị rung động, tự hỏi rằng' "Có đúng như vị ấy
nói không?" Và sự ngờ vực khởi lên trong tâm của vị ấy, lòng tin
cậy của vị ấy bị lay động một ít. Sau khi đã làm ly gián vị Trưởng
lão lớn, kẻ ngu ấy cũng đưa vị Trưởng lão kia vào tình trạng như đã
nói ở trên . Vào ngày hôm sau, vị trưởng lão lớn chẳng nói chuyện với
vị Trưởng lão kia khi mang y và bát, và đi vào ngôi làng ấy để khất thực.
Khi họ đem về vật thực khất thực của họ, mỗi người ăn nó trong chỗ
ngụ riêng của mỗi người và không trao đổi một sự xã giao nào, dầu
nhỏ nhặt nhất, trãi qua ngày ngay tại chỗ đó; Trong khi vào lúc rạng
sáng, mỗi người đi đến bất cứ chỗ nào mà người ấy thấy thuận tiện
và không báo cho vị kia biết. Khi họ trông thấy vị Tỳ kheo đâm thọc đã
đi vào ngôi làng ấy, là nơi có thể làm thành tựu tất cả những ước
muốn của vị ấy, mọi người hỏi rằng: "Thưa Ngài, các vị Trưởng
lão đã đi đâu rồi?" "Họ cãi lộn nhau suốt đêm. Tôi đã
khuyên họ đừng cãi cọ mà hãy sống trong sự hoà hợp và rằng sự cãi
vã ấy dẫn đến sự bất hạnh, đem lại sự đau khổ trong tương lai và
đưa đến những việc làm bất thiện; Hơn nữa, bấy nhiêu điều có lợi
ích mà đã được làm rồi xem như bị tiêu tan bởi sự tranh cãi và những
điều khác. Nhưng họ đã bỏ đi và không quan tâm đến những lời khuyên
của tôi". Khi nghe điều này, dân chúng nài nỉ rằng: "Hãy để những
vị Trưởng lão ấy đi, nếu họ muốn nhu vậy. Nhưng Ngài phải ở lại
đây vì lòng bi mẫn đối với chúng tôi. Ngài sẽ không có sự hối tiếc
nào!" "Tốt lắm" Vị ấy đồng ý. Khi đã ở lại đó trong
vài ngày, vị ấy suy nghĩ, "ta đã gây bất hoà cho những vị Tỳ kheo
có giới đức và có tánh dễ mến, do lòng ham hố trú xứ của ta. Chắc
chắn ta sẽ làm một điều ác độc rồi!" Và bị dày vò bởi lương
tâm khó chịu cùng cực, vị ấy nhuôm bịnh bởi sức nặng của sự sầu
khổ của vị ấy; chẳng bao lâu vị Tỳ kheo đâm thọc mạng chung và tái
sanh trong địa ngục Aviiji .
Khi hai vị Trưởng lão bạn kia đi
lang thang quanh khắp vùng ấy, họ gặp nhau ở một chỗ ngụ nọ và trao đổi
những lời chào hỏi thân thiện với nhau. Họ báo cho nhau biết về những
lời ly gián mà vị Tỳ kheo kia đã nói; và khi họ khám phá rằng không có
sự chơn thật trong đó, lại hoà hợp trở lại; và đúng lúc họ trở về
lại chính chỗ ngụ ấy. Khi dân chúng trông thấy hai vị Trưởng lão ấy,
họ vô cùng vui sướng, và đầy hạnh phúc, dâng cúng hai vị Trưởng lão
bốn món vật dụng. Hai vị Trưởng lão ở lại đó, được cung cấp bởi
đồ ăn thích hợp và đã phát triển tuệ quán do sự tập trung của tâm,
và không bao lâu sau chứng đắt đạo quả A-la-hán.
Vị Tỳ kheo đâm thọc bị thiêu đốt
trong địa ngục trong một trung gian Phật thời; và trong suốt thời gian của
Ðức Phật này, sanh lên không cách xa thành Vương xá làm một Ngạ quỉ
có miệng hôi thối. Thân của nó có màu sắc huỳnh kim, nhưng có những
con giòi bò ra từ miệng của nó và đục khoét chỗ này chỗ nọ trên mặt
của nó. Nó toả ra mùi hôi thối, xông khắp cả không trung. Bấy giờ, khi
Ðại Ðức Naarada đi xuống từ ngọn núi Kỳ-Xà- Quật, vị ấy trông thấy
nó và hỏi về nghiệp mà nó đã tạo bằng câu kệ này:
"Người có sắc đẹp của chư
Thiên. Nhưng khi ngươi đứng trong không trung, trong bầu trời, thì những
con giòi đục khoét cái miệng thối của ngươi. Ngươi đã làm nghiệp gì
trong quá khứ?"
"Thân ngươi đẹp sắc chư Thiên
Nhưng khi ngươi đứng ở trên bầu trời,
Thì từ cái miệng của ngươi
Bị đục khoét bởi đám giòi thối tha.
Nghiệp gì ngươi đã tạo ra
Trong thời quá khứ nói ta nghe nào?"
Chú giải:
1. Ở đây, CHƯ THIÊN, THẦN
TIÊN (Dibha.m): thường có nghĩa là: có đặc tánh của chư Thiên, khi đã đạt
đến trạng thái của chư Thiên, "chư Thiên" nghĩa là " như
chư Thiên". ÐẸP (Sabha.m): chiếu sáng hay ở trong một trạng thái thù
thắng. SẮC, NƯỚC DA (Va.n.nadhaatu.m): màu của da. NGƯƠI CÓ (Dhaaresi): Ngươi
mang vào . KHI NGƯƠI ÐỨNG TRONG KHÔNG TRUNG, TRONG BẦU TRỜI (Vehaayasan
Ti.t.thasi antalikkhe): Ngươi đứng trong không trung làm sáng rực bầu trời.
MIỆNG THỐI (Puutigandha.m): có mùi của xác chết sình thối, nghĩa là mùi
thối tha. NGƯƠI ÐÃ TẠO NGHIỆP GÌ TRONG QUÁ KHỨ (Kim ka.mma.m aakaasi Pubbe):
vị ấy hỏi "Những con dòi đục khoét cái miệng có mùi thối của ngươi,
tuy nhiên thân của ngươi thì có màu huỳnh kim. Loại nghiệp nào mà ngươi
đã làm trong quá khứ để có thể là nguyên nhân cho sắc tướng như vậy?"
Khi được hỏi bởi Trưởng lão về
nghiệp mà nó đã làm, con Ngạ quỉ thốt lên câu kệ để giải thích vấn
đề:
2. "Ta là một Sa môn có miệng ác
và thối tha; Dầu mang lốt của một vị Sa môn, nhưng ta không thu thúc cái
miệng. Do sự tinh tấn khổ hạnh của ta khiến ta nhận được màu sắc
này, và do lời nói đâm thọc của ta khiến ta có miệng hôi thối."
"Tôi là một vị xuất gia.
Nói lời chia rẽ thối tha không chừng.
Dầu mang tướng một Sa môn,
Nhưng về khẩu nghiệp tôi không hộ phòng.
Do công tinh tấn tu hành,
Nên thân tôi có sắc vàng huỳnh kim,
Và do đâm thọc xỏ xiên.
Nên miệng tôi bị thối rình như ri."
Chú giải:
2. Ở đây, TÔI LÀ MỘT VỊ
SA MÔN ÁC (Samano aha.m Paato): Tôi là một vị Sa môn đáng khinh, một vị Tỳ
kheo ác. CÓ MIỆNG THỐI (Du.t.thavaaco): có lời nói dơ bẩn thối tha; Tôi
sát phạt những kẻ khác, tôi cũng đi quá xa với cái miệng của tôi, nghĩa
là tôi là người nói hạ thấp giới đức của những kẻ khác. Có cách
đọc khác là CÓ MIỆNG VÔ CÙNG HÔI THỐI (Atitu.t.thavaaco): vô cùng ác khẩu,
thích ác hạnh về lời nói như nói dốí và nói lời nói đâm thọc v.v...
TRONG HÌNH TƯỚNG CỦA MỘT VỊ SA MÔN (Tapassiiruupo): Mang lốt một vị Sa
môn: BẰNG CÁI MIỆNG: Mukhasaa = Mukhena (thể văn phạm hoán chuyển), THỌ
LÃNH (Laddhaa): có được, chữ "vaa" (ca) có ý nghĩa về sự kết hợp.
TÔI: Me = Mayaa (Thể văn phạm hoán chuyển). DO SỰ KHỔ HẠNH CỦA TÔI
(Tapasaa): Do phạm hạnh của tôi. DO LỜI NÓI ÐÂM THỌC CỦA TÔI (Pesuni yeịa):
Do lời nói hiểm độc của tôi. THỐI (Puuti): mùi hôi thối.
Khi Ngạ quỉ ấy đã trình bày nghiệp
mà nó đã tạo, sau đó nó nói lên câu kệ kết luận để khuyên Trưởng
lão:
3. Chính Ngài đã trông thấy điều này,
thưa ngài Naarada . Những người mà có lòng bi mẫn và có thiện tâm thường
nói rằng: "Ðừng nói đâm thọc cũng đừng nói dối - như thế người
sẽ trở thành một Yakkha với tất cả những mong muốn của người được
làm thoả mãn."
"Chính Ngài đã thấy điều này,
Những người tốt bụng và hay thương người
Khuyên "Ðừng đâm thọc dối đời-
Nếu được như thế cõi trời chờ mong,
Làm chư Thiên hoặc Dạ Xoa,
Những điều mong muốn cho ta tức thì".
Chú giải:
Ở đây, ÐIỀU NẦY
(Tayida.m): Sắc tướng này của tôi. NHỮNG NGƯỜI CÓ LÒNG BI MẪN VÀ CÓ
TÁNH THIỆN THƯỜNG NÓI RẰNG: (Anuka.mpa kaaye kussalaa Vadeyyu.m): Những người
mà có tánh thương người và có lòng bi mẫn là những người thiện, có
trí tuệ trong việc làm lợi ích cho những người khác, như Ðức Phật và
những người khác, thường nói y như điều mà tôi đang nói- đây là ý
nghĩa cho thấy lời khuyên này. Rồi nó - nói rằng: "Ðừng nói đâm thọc
cũng đừng nói dối - thời người sẽ trở thành một Yakkha với tất cả
những ước muốn của người được làm thoả mãn. Ý nghĩa là như thế này:
Ðừng nói ra lời nói có tánh chất đâm thọc cũng đừng nói dối: Nếu
Ngài từ bỏ nói dối và lời đâm thọc hiểm ác, và có thu thúc về lời
nói, thời Ngài sẽ trở thành một Yakkha hay một vị deva hay người trong
tuỳ tùng của một vị Deva . Sau khi được sự ưu thắng thần tiên tốt
đẹp nhất và bất cứ ước muốn nào mà có thể muốn, Ngài có thể
thong dong từ chỗ này chỗ kia và được sung sướng bằng cách làm thoả
mãn các căn theo ý thích.
Khi đã nghe qua điều này, Trưởng lão
đi tiếp đến thành Vương Xá để khất thực. Khi đã độ thực xong sau
khi khất thực trở về, vị ấy nêu lên vấn đề với Bậc Ðạo sư. Bậc
Ðạo sư lấy đó làm nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết giảng chánh
pháp. Thời Pháp ấy đem lại lợi ích cho hội chúng đã tụ họp ở đó.
-ooOoo-
I.4 TÍCH TRUYỆN CÁI
BÁNH ÐỒ CHƠI
(PI.T.THADHIITALIKA)
"Liên quan đến bất cứ ai!"
Bậc Ðạo sư, khi đang ngụ trong
Jetavana tại Saavatthi, đã kể lại câu chuyện này, liên quan đến sự bố
thí vật thực của gia chủ Anaa.thapi.n.dika .
Tương truyền rằng, đứa cháu gái của
gia chủ Anaathapi.n.dika, vẫn còn là một cô gái nhỏ, được vú nuôi cho một
cái bánh đồ chơi, bà ta nói rằng, "Hãy lấy cái này mà chơi". Cô
bé xem nó như đứa con gái của chính mình. Rồi một hôm, trong khi đang
chơi với nó, cô bé bất cẩn để nó rơi xuống và bị vỡ. Khi thấy vậy,
cô bé bậc khóc, nói rằng, "con gái của tôi đã chết!" Nhưng không
có người hầu nào có thể làm vơi nước mắt của nó được.
Bấy giờ trong cùng thời gian ấy, Bậc
Ðạo sư đang ngồi trong chỗ ngồi đã được soạn sẵn trong nhà của gia
chủ Anaathapi.n.dika, và vị Thương nhân rất giàu có ấy thì ngồi gần Ðức
Thế Tôn. Bà vú nuôi đi với cô gái đến trước vị Thương nhân. Khi ông
ta trông thấy bà ta, ông ta nói rằng, "tại sao cháu bé này khóc?"
Bà vú nuôi tường thuật lại biến cố đã xảy ra với vị phú thương, và
ông ta để cô bé ngồi trên đùi của ông ta và an ủi nó: "ông sẽ
cúng dường vật thực nhân danh con gái của cháu". Và rồi bạch với
Bậc Ðạo sư rằng: "Con muốn cúng dường vật thực nhân danh con gái
cuả cháu gái con- là cái bánh đồ chơi này. Xin ngài hoan hỷ nhận lời mời
của con, bạch Ðức Thế Tôn, và năm trăm vị Tỳ kheo đến thọ thực vào
ngày mai". Ðức thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi vào ngày hôm sau, đức
Thế Tôn đi với Năm trăm vị Tỳ kheo, đến nhà của vị phú Thương ấy
và, khi Ngài đã thọ thực xong, bèn nói những câu kệ này để nói lên lời
tán dương của Ngài:
1. Liên quan đến bất cứ ai, những
người không bỏn xẻn cho vật thực, dầu đối với những Ngạ quỉ trước
kia, hay hơn nữa đến những vị chư Thiên trong nhà,
2. Và Tứ Ðại Thiên Vương, là những
kẻ hộ trì nổi tiếng của Thế gian; Ðó là: Kuvera, Dhatara.n.nha,
ViRuupakkha, Virulhaka. Khi những vị này được tôn kính thì những người
cho không phải không có quả báu.
3. Dầu khóc lóc, sầu muộn hay ta
thán đến bao nhiêu cũng không đem lại lợi ích gì cho những Ngạ quỉ, dầu
những quyến thuộc của họ mãi theo sát bên họ.
4. Nhưng sự bố thí này mà sau khi đã
được làm rồi, đã gieo trồng vững chắc trong chư Tăng, thì bằng kết
quả tức thời sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho chúng.
Những người không bỏn xẻn
Hằng cho ra vật thí,
Rồi cho bất cứ ai,
Hoặc Ngạ quỉ quá vãng,
Hay đến những chư Thiên,
Ở trong các tư gia.
Và Tứ Ðại Thiên Vương,
Là những kẻ bảo vệ,
Nổi tiếng của thế gian -
Ðó là Kú Vê Rá
Và Dhá-Tá-Rá-tha
Và Vi-ru-bắc-khá
Cùng Ví-run-há-cá.
Khi những thiên vương này
Ðược tôn kính như vậy,
Thì những người bố thí
Không phải không có quả.
Dầu khóc lóc buồn rầu,
Hay ta thán thế nào,
Cũng không đem lợi ích
Ðến cho những Ngạ quỉ,
Dầu quyến thuộc của chúng
Cứ dai dẳng nhớ chúng.
Nhưng sự bố thí này
Mà đã được làm rồi,
Và đã trồng vững chắc
Trong chúng tăng của Phật
Thì hiệu quả tức thì
Sẽ làm lợi lâu dài
Cho những Ngạ quỉ ấy.
Chú giải:
1. Ở đây, LIÊN QUAN ÐẾN
BẤT CỨ AI (Ya.m Ki~ncaara.mmana.m): Liên quan đến, nhân danh cho, bất cứ ai
khác có (tham dự) trong những buổi lễ làm phước v.v... HẰNG CHO RA:
(Dajjaa= Dadeyya) (thể văn phạm hoán chuyển). NHỮNG NGƯỜI KHÔNG BỎN XẺN
(Amaccharii): Những người không bỏn xẻn là những người do sự vắng mặt
của lòng bỏn xẻn có đặc tánh là không thể (chia) sự may mắn của
chính họ cho những kẻ khác; Người có tánh rộng rãi. Họ thường cho ra
sau khi họ đã tẩy sạch những bợn nhơ trong tâm như lòng bỏn xẻn và
tham lam v.v... Ðây là cách nên được hiểu. DẦU CHO NHỮNG NGẠ QUỈ TRƯỚC
KIA (Pubbe pete ca aarabbha): Dầu nhân danh cho bất cứ những tổ tiên nào đã
quá vãng. NHỮNG VỊ CHƯ THIÊN TRONG NHÀ (vatthudevataa): liên quan đến những
chư Thiên mà sống trong nhà hay trong những vùng đất của nhà v.v... Ðây
là cách nên được hiểu. HAY HƠN NỮA (atha vaa): Chỉ rõ rằng những người
hằng cho những vật thí theo cách này, cũng cho đến bất cứ những vị
chư Thiên nào khác hay người hay bất cứ ai.
2. Ở đây, sau khi định rõ "và Tứ
Ðại Thiên Vương". Trong chừng mức này chỉ về một số chư Thiên nổi
tiếng trong những vị chư Thiên, Ngài lại nói, "Kuvera" và những vị
khác để nói về tên của họ. Ở đây, Kuvera (Kuvera.m): (Vessavana).
Dhata-ra.t.tha (Dhata-ra.t.tha.m) v.v... Là tên của những vị chư Thiên bảo vệ
thế gian. Khi những vị này đã được tôn kính (te c'eva puujitaa honti): Khi
bốn vị đại vương này, những thân nhân quá vãng và những vị chư Thiên
trong nhà được tôn kính qua những việc phước thí nhân danh họ. NHỮNG
NGƯỜI CHO KHÔNG PHẢI KHÔNG CÓ KẾT QUẢ (Daayakaa ca anpphalaa): Những người
cho, những người mà cho những vật thí nhân danh những người khác, không
phải hoàn toàn không có kết quả; Tương tự, họ cũng hưởng quả về những
vật thí của chính họ. Rồi để cho thấy rằng những người mà khóc
lóc, rên rỉ, ta thán với cái chết của những quyến thuộc của họ
không làm lợi ích cho những quyến thuộc ấy, và chỉ làm khổ chính họ
mà thôi, Ngài đọc lên câu kệ (bắt đầu) "Dầu khóc lóc bao
nhiêu".
3. Ở đây, KHÓC LÓC (ru.n.na.m) =
(Rudita.m) (hình thức văn phạm hoán chuyển): sự đổ lệ, sự chảy nước
mắt. Những chữ còn lại giải thích rằng điều này không nên làm. BUỒN
RẦU (soko): Than thở, làm khổ tâm, nghĩa là làm đốt cháy ở bên trong. BẤT
CỨ SỰ TA THÁN NÀO KHÁC (Yà c'a~n~na Paridevanaa): bất cứ sự ta thán nào
ngoài sự khóc lóc và sầu muộn, như nói lầm bầm rằng, "Ðứa con
trai duy nhất của tôi đâu rồi?" v.v... Thì không nên, chữ
"hay" (và) dưới mọi tình huống dùng để chỉ về một sự hoán
chuyển: chẳng có sự khóc lóc nào đem lại lợi ích nào cho Ngạ quỷ quá
cố. Do đó, họ không nên làm như vậy, cho dù những quyến thuộc ngu si của
họ cứ dai dẳng bám theo họ - đây là ý nghĩa. Sau khi đã cho thấy sự
vô ích của sự khóc lóc và ta thán như vậy rồi, Ngài đọc lên câu kệ
(bắt đầu bằng): "Nhưng sự bố thí này" cho thấy sự hữu ích của
việc bố thí cúng dường đến chư Tăng bởi Người cho dành cho những Ngạ
quỉ và những người khác.
4. Ở ÐÂY (Aya.m): Ngài nói để chỉ
về những vật thí trước mặt vị ấy mà được cho bởi thí chủ ấy.
NHƯNG (Ca) là một chữ để định rõ một cái gì đó được thêm vào.
Ngài làm sáng tỏ nét đặc biệt bằng cách nói rằng, chỉ vì khóc v.v...
Không đem lợi ích cho Ngạ quỉ hoặc là bất cứ ai khác. Tuy nhiên, bằng
sự bố thí này sẽ có lợi ích lâu dài cho họ. Kho (không được dịch)
được dùng để nhấn mạnh. SỰ BỐ THÍ CÚNG DƯỜNG (Dakkhi.naa): Sự bố
thí vật thực. ÐƯỢC TRỒNG VỮNG CHẮC TRONG CHƯ TĂNG, (Sa"ngha.mhi
Suppati.t.thitaa): Ðược gieo trồng vững chắc trong Chư Tăng - là phước điền
Vô thượng. SỰ LỢI ÍCH LÂU DÀI CỦA HỌ. (Diigharatta.m hitaa' Yassa): Ðiều
tốt, lợi ích của Ngạ quỉ ấy trong thời gian lâu dài. SẼ ÐEM LẠI HIỆU
QUẢ TỨC THỜI (.Thaanaso Upakappati): Nó có hiệu quả ngay, nghĩa là không
có thời gian gián đoạn nào. Ðây quả thật là quy luật: Những Ngạ quỉ
bày tỏ sự tùy hỉ của chúng khi vật thí được cho nhân danh chúng, thời
ngay tức thì chúng được vơi đi những đau khổ do quả của sự tùy hỷ
ấy.
Khi Ðức Thế Tôn đã thuyết giảng
chánh pháp như thế và đã làm cho người ấy vui thích trong sự bố thí
nhân danh những Ngạ quỉ, Ngài đứng dậy khỏi chỗ ngồi và ra đi. Vào
ngày hôm sau, người vợ của vị phú hộ ấy tổ chức một cuộc bố thí
vật thực to lớn kéo dài đến một tháng. Rồi (Paasenadi) vua của nước
(Kosala), đi đến Ðức Thế Tôn và hỏi rằng, "Bạch Ðức Thế Tôn, tại
sao những vị Tỳ kheo không đến nhà của con cả tháng nay?". Khi Bậc
Ðạo sư báo cho vị ấy biết lý do thì Ðức vua cũng vậy, noi theo gương
của vị phú hộ ấy, tổ chức một cuộc lễ bố thí lớn đến chư Tăng
có Ðức Phật dẫn đầu. Và khi trông thấy điều này thì những thần
dân cũng noi theo gương của Ðức Vua và tổ chức một cuộc Ðại thí lớn
kéo dài trong một tháng. Như vậy, họ đã tổ chức một cuộc đại thí
kéo dài trong hai tháng, tất cả dều do cái bánh đồ chơi.
-ooOoo-