- CHÚ GIẢI NGẠ QUỶ
SỰ
- Dịch từ Pali sang Anh Ngữ: PETER
MASEFIELD
[2.a]
CHƯƠNG II: UẤT BA LỢI
PHẨM (UBBARIIVAGGA)
-ooOoo-
II.1 LY LUÂN HỒI QUỈ SỰ
(SA.MSAARAMOCAKA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Người trần truồng và có hình
tướng thô xấu".
Pháp thoại này được Bậc Ðạo sư
thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở Trúc Lâm viên, liên quan đến một
nữ Ngạ quỉ nọ trong ngôi làng tên là I.t.thakaarati, thuộc vương quốc
Magadha.
Tương truyền rằng, trong vương quốc
Magadha có hai ngôi làng, I.t.thakaavatii và Diigharaajii, ở đó có nhiều Ðạo
sĩ sa.msaaramocaka trú ngụ. Cách đây đã lâu, khoảng năm trăm năm về trước,
một nữ nhân nọ sanh trong gia đình samsaaramocaka ngay tại đó ở
I.t.thakaavatii, và do bởi những tà kiến của nàng, nàng đã giết hại nhiều
côn trùng và châu chấu và tái sanh trong cõi Ngạ quỉ; Ở đó, nàng chịu
khổ đói và khổ khát trong năm trăm năm. Rồi khi Ðức Thế Tôn của
chúng ta đã sanh ra trong thế gian và đã lăn bánh xe diệu pháp, và đến đúng
thời kỳ đến trú ngụ tại trúc lâm viên, gần Raajagaha, nàng lại sanh trở
lại trong cùng gia đình samsaaramocaka ấy trong cùng ngôi làng I.t.thakaavatii
ấy. Rồi một hôm nọ, khi nàng đã được bảy hoặc tám tuổi và đang mãi
vui chơi với những cô gái trên con đường lớn, Ðại Ðức Trưởng lão
Saariputta, khi đang ngụ tại tịnh xá anuravatii gần ngôi làng ấy, đi qua chính
con đường gần cổng làng ấy, được tháp tùng bởi mười hai vị Tỳ
kheo. Ngay lúc ấy, nhiều cô gái của ngôi làng ấy, sau khi đã rời khỏi
ngôi làng, đang chơi gần cổng làng, theo phong tục của cha mẹ chúng,
chúng bèn nhanh chóng đi đến với tâm Ðạo nhiệt thành, và đảnh lễ
Trưởng lão và những vị Tỳ kheo khác với năm điểm chạm đất. Tuy nhiên,
cô gái trong gia đình của những người không có đức tin ấy, lại tỏ ra
bất kính và thiếu những tánh tốt của những người có giới đức, lại
tỏ ra vô học. Do nàng đã không tích lũy những thiện nghiệp trong một thời
gian dài, vẫn đứng như người thất học. Trưởng lão thấy rõ tánh hạnh
trong quá khứ của nàng, sự tái sanh hiện tại của nàng trong gia đình
samaaramocaka, và thấy rằng nàng đáng bị sanh trong địa ngục trong tương
lai. Trưởng lão biết rằng: nếu nàng đảnh lễ Ngài thời nàng sẽ không
tái sanh trong địa địa ngục, dầu nàng có sanh trong cõi Ngạ quỉ nàng cũng
được sự thù thắng do ngài, Trưởng lão nói với những cô ấy rằng,
"các con thì đảnh lễ những vị Tỳ kheo, nhưng cô gái này thì vẫn
đứng như người không được giáo dục vậy". Rồi những cô gái ấy
túm lấy hai tay của cô gái, kéo nàng tới và bằng sự thúc ép, khiến
nàng đảnh lễ dưới chân của Trưởng lão. Ðến đúng thời, nàng đến
tuổi thanh xuân và được gả cho một chàng trai nọ thuộc một gia đình
Samsaaramocaka trong ngôi làng Diigharaajii . Khi nàng sắp sanh,thì nàng chết và
sanh trong cõi Ngạ quỉ, trần truồng, và có hình tướng gớm guốc, trông
thật ghê tởm; khi đi lang thang vào lúc đêm tối, nàng hiện ra trước mặt
Trưởng lão Saariputta và rồi đứng ở một bên. Khi trông thấy nàng, Trưởng
lão bèn hỏi nàng bằng câu kệ này:
1. "Nàng trần truồng và có hình
tướng gớm guốc, gầy mòn với những đường gân lồ lộ. Nàng là một
kẻ gầy ốm, với những xương sườn lộ ra, bây giờ, nàng là ai mà đứng
ở đây?"
Chú giải:
1. VỚI NHỮNG ÐƯỜNG GÂN
LỒ LỘ (Dhamanisanthataa): với tấm thân được phơi bày ra bằng tấm lưới
gân do không có thịt và máu. VỚI NHỮNG XƯƠNG SƯỜN LỘ RA (Upphaasulike):
với những xương sườn lồi ra. NGƯƠI LÀ NGƯỜI ỖM O (Kisike): ngươi với
tấm thân gầy mòn; Sau khi đã nói ở trên "gầy mòn" Những chữ:
"Ngươi là người ốm o" được lập lại nhằm mục đích cho thấy
sự gầy ốm quá mức của nàng mà trong đó tấm thân ấy chỉ có da, xương
và gân mà thôi.
Khi nghe qua điều này, nữ Ngạ quỉ
ấy nói lên câu kệ này để cho biết về chính nàng:
2. Thưa Ngài, tôi là một nữ Ngạ quỉ,
đã đi đến cõi Ngạ quỉ trong thế giới của Yama; Khi đã làm ác nghiệp,
tôi đã đi từ đây đến cõi Ngạ quỉ.
Ðược hỏi thêm một lần nữa bởi
Trưởng lão về nghiệp mà nàng đã làm:
3. "Bây giờ ác nghiệp nào mà ngươi
đã làm bằng thân, khẩu và ý? do kết quả của nghiệp nào khiến ngươi
ra đi từ đây đến cõi của những Ngạ quỉ?"
Nàng nói lên ba câu kệ để cho thấy
rằng vì đã sống với lòng bỏn sẻn và thiếu đức bố thí, nàng đã phải
sanh trong Ngạ quỉ và chịu nhiều thống khổ như vậy:
4. "Thưa Ngài, trước kia tôi
không có cha mẹ, hay những quyến thuộc khác, thậm chí cũng không có những
người mà có lòng thương xót tôi, để khuyên rằng, "Hãy bố thí với
tâm đạo nhiệt thành đến các vị Sa môn, Bà la môn".
5. Từ nay trở đi, trong năm trăm năm,
tôi phải đi lang thang trần truồng như thế này, bị đốt cháy bởi cơn
đói và khát dục. Ðây là quả về ác nghiệp của tôi.
6. Con xin đảnh lễ Ngài, thưa bậc
ứng cúng, bằng tâm đạo tín thành; xin hãy thương xót con, hỡi Bậc vĩ
Ðại và kiên quyết. Xin hãy bố thí một cái gì đó và hồi hướng phước
thí ấy đến cho con; xin hãy giải thoát cho con ra khỏi cảnh khổ này, thưa
Ngài.
Chú giải:
4. CÓ LÒNG THƯƠNG XÓT
(Anuka.mpakaa): Có lợi đối với hạnh phúc trong kiếp sau của nàng. BẠCH
NGÀI (Bhante): Nàng đang nói với Trưởng lão. LÀ NHỮNG KẺ HẰNG KHUYẾN
KHÍCH CON (ye ma.m niyojeyyu.m): con đã không có mẹ hay cha hay những người
quyến thuộc khác mà có lòng thương tưởng con, khuyên nhủ con rằng:
"Với lòng tịnh tín, ngươi hãy cho ra những vật thí đến các vị Sa
môn hay Bà la môn" - Ðây là cách nên được hiểu.
5. TỪ NAY TRỞ ÐI TRONG NĂM TRĂM NĂM NỮA,
CON PHẢI ÐI LANG THANG TRẦN TRUỒNG NHƯ THẾ NÀY (Ito aha.m vassasataani pa~nca
ya.m evaruupaa vicaraami naggaa): Sau khi nhớ lại kiếp sống sanh làm Ngạ quỉ
trong kiếp quá khứ của nàng trước đó hai kiếp, nữ Ngạ quỉ nói điều
này để xác nhận rằng, bây giờ nàng cũng phải đi lang thang theo cách ấy
trong năm trăm năm. Ya.m (không được dịch): = Yasmaa (Hình thức văn phạm
chuyển đổi); Bởi vì con không làm việc phước nào về Bố thí v.v.. Nên
con đã trở thành một Ngạ quỉ trần truồng như thế này, và từ nay trở
đi con phải đi lang thang trong năm trăm kiếp - Ðây là cách nên được hiểu;
BỞI KHÁT ÁI (Ta.nhaaya): Bởi sự khao khát. BỊ THIÊU ÐỐT: Khajjamaanaa =
Khaadiyamaanaa (hình thức văn phạm chuyển đổi), nghĩa là bị hành hạ.
6. CON XIN ÐẢNH LỄ NGÀI, THƯA BẬC
ỨNG CÚNG, BẰNG TÂM TỊNH TÍN (vandaami ta.m ayyapasannacittaa): Với lòng tịnh
tín, con xin đảnh lễ Ngài, thưa Bậc ứng cúng. Ðiều này cho thấy chỉ
chút ít phước mà con có thể làm được bây giờ. XIN HÃY THƯƠNG TƯỞNG
ÐẾN CON (anukampa ma.m): Xin hãy giúp đỡ, xin hãy nhủ lòng bi mẫn đến
con. XIN HÃY BỐ THÍ MỘT CÁI GÌ ÐÓ VÀ HỒI HƯỚNG PHƯỚC THÍ ẤY ÐẾN
CHO CON, (datvaa ca me aadissa ya.m hi ki~nci): Nàng nói lời khẳng định rằng,
khi vị ấy đã bố thí vật nào đó và đã hồi hướng phước thí ấy đến
cho nàng, thời nhờ đó sẽ có sự giải thoát cho nàng thoát khỏi cõi Ngạ
quỉ ấy. Vì lý do này khiến nàng nói rằng: "Hãy giải thoát con ra khỏi
khổ cảnh này, thưa Ngài".
Ba câu kệ này được nói bởi những
vị kiết tập Tam tạng, để cho thấy tánh cách mà Trưởng lão thực hiện
khi nữ Ngạ quỉ ấy đã nói như vậy:
7. "Tốt lắm, "Trưởng lão
Saariiputta đồng ý, người có lòng bi mẫn, và đã cho đến các vị Tỳ
kheo một miếng vật thực, một miếng vải có kích thước một gang tay và
một bát nước, và hồi hướng phước thí này đến cho nàng.
8. Ngay khi vị ấy hồi hướng phước
thí này thì kết quả hiện ra: vật thực, y phục, thức uống - là kết quả
của phước thí này.
9. Nhân đó, nàng được thanh tịnh, mặc
y phục sạch sẽ và tươi sáng, là loại vải mịn hơn những thứ của xứ
Kaasi; Và được trang sức bằng nhiều loại y phục và vật trang sức,
nàng đi đến Trưởng lão Saariputta .
Chú giải:
7. ÐẾN CÁC VỊ TỲ KHƯU
(Bhikkhuuna.m): Ðến một vị Tỳ kheo: điều này được nói bằng sự méo
mó về số lượng. Một số đọc là: Cho đến một vị Tỳ kheo một miếng
(aalopa.m bhikkhuno datvaa). MỘT MIẾNG (aalopa.m): Một miếng vật thực, nghĩa
là chỉ một miếng vật thực. Một mảnh vải có kích thước một gang tay
(Paanimatta~nca co.laka.m): Kích thước một bàn tay, nghĩa là một miếng vải.
VÀ MỘT BÁT NƯỚC (Thaalakassa ca paaniiya.m): chỉ một bát nước.
Phần còn lại cũng giống như đã
được nêu ra ở Ngốc đầu quỉ sự.
Rồi khi Ðại Ðức Saariputta trông thấy
nữ Ngạ quỉ ấy sau khi đã đến trước mặt Ngài, đứng với các căn đã
được làm cho tươi sáng, có nước da hoàn toàn thuần tịnh và được
trang sức bằng những y phục và những vật trang sức của chư Thiên, và
làm sáng lên mọi thứ quanh nàng bằng hào quang của chính nàng, vị ấy
nói ba câu kệ này khi muốn nàng giải thích kết quả của những nghiệp
mà nàng đang thọ hưởng:
10. Ai mà đứng với sắc đẹp tuyệt
trần, này tiên nữ, chiếu sáng khắp các hướng như được Vương Tinh.
11. Sắc đẹp của nàng như vậy là
do cái gì? Do cái gì mà điều này được thành tựu bởi nàng ở đây và
có sanh lên bất cứ dục lạc nào mà nàng ưa thích?
12. Ta hỏi nàng, này Devii có đại
oai lực, việc phước gì mà ngươi đã làm khi ngươi còn làm người? Do
điều gì mà oai lực của ngươi sáng chói như vậy và sắc đẹp của
ngươi chiếu sáng khắp mười phương?
Chú giải:
10. TUYỆT TRẦN
(abhikkantena): Vô cùng khả ái, nghĩa là rất xinh đẹp. BẰNG SẮC ÐẸP
(va.n.nena): Với nước da. SÁNG RỰC LÊN KHẮP MƯỜI PHƯƠNG (Obhaasentii disaa
sabbaa): Chiếu sáng trong khắp mười phương với chỉ một vầng ánh sáng.
Như thế nào? Vị ấy nói, "Như được Vương Tinh". Ngôi sao này
có cái tên là (Osadhii), bởi vì hào quang chói lọi (Ussanna) được chứa
(dhiiyati) bởi nó hay là vì nó cho công năng đến các loại thuốc
(Osadhiina.m): Cũng như nó đứng toả ra ánh sáng khắp quanh nó, cũng vậy
ngươi đang đứng chiếu sáng khắp mười phương - đây là ý nghĩa.
11. DO CÁI GÌ? (Kena): Chữ cái gì
(Ki.m) trong hình thức nghi vấn của nó; Ðây là công cụ cách có ý nghĩa hỏi
về nguyên nhân, nghĩa là do nguyên nhân nào? CỦA NGƯƠI: te = tava (hình thức
văn phạm chuyển đổi). NHƯ VẬY (Etaadiso): Ðiều này được nói liên quan
đến cách mà nó xuất hiện lúc ấy. ÐIỀU NÀY ÐƯỢC THÀNH TỰU BỞI NGƯƠI
DO BỞI CÁI GÌ Ở ÐÂY? (kena te idha - m - ijjhati): Quả của thiện sự này
là do phước đặc biệt nào mà đang được thọ lãnh bởi ngươi, được
thành tựu, được tạo ra ở đây, tại chỗ này. SẼ CÓ SANH LÊN
(uppajjanti): Sẽ có hiện ra. NHỮNG DỤC LẠC (Bhogaa): Những vật sở hữu
và những phương tiện thù thắng như y phục và những vật trang sức v.v..
Mà có được cái tên là "Những dục lạc" (Bhogaa) Vì đáng được
thọ hưởng (Paribhu~njitabbatena). BẤT CỨ CÁI GÌ (Ye keci): Nghĩa là tất cả
những dục lạc được bao gồm, không có cái dư sót, vì đây là một câu
nói bao hàm mọi thứ không có dư sót, TÂM CỦA NGƯƠI ÁI HẢO (manaso
piyaa): Cái được ưa thích, khả ái với tâm của ngươi, nghĩa là thân ái
với tâm của ngươi.
12. TA HỎI (Pucchaami): Ta đặt câu hỏi,
nghĩa là ta muốn biết. Ngươi: ya.m=tva.m (Hình thức văn phạm chuyển đổi).
Devii (Devi): Nàng là một (Devii) do vì nàng có oai lực của chư Thiên. Vì
lý do này mà vị ấy nói rằng, "Có oai lực lớn". KHI NGƯƠI CÒN
LÀ NGƯỜI (Manussabhuutaa): Khi ngươi sanh trong cõi nhân loại và đạt đến
địa vị làm người. Ðiều này được nói theo đúng với quy luật chung
là: chúng sanh làm những việc phước trong khi họ ở trong kiếp người.
Ðây là ý nghĩa của những câu kệ vắn tắt thôi. Tuy nhiên, điều ấy nên
hiểu đúng như đã nêu ra đầy đủ chi tiết trong bộ chú giải thiên cung
sự, trong phần giải thích này về ý nghĩa bên trong.
Nữ Ngạ quỉ ấy, khi được hỏi bởi
Trưởng lão, bèn nói lên những câu kệ còn lại để làm sáng tỏ lý do về
cách mà sự thù thắng này của nàng đã được nhận lãnh:
13. Vị thánh đầy lòng bi mẫn đối
với thế gian trông thấy con đã đi vào kiếp sống đau khổ - vàng vỏ, gầy
ốm, đói khát, trần truồng, với da nhăn nheo.
14. Vị ấy đã cho đến các vị Tỳ
kheo một miếng vật thực, một mảnh vải có kích thước một gang tay và
một bát nước, và hồi hướng phước ấy cho con.
15. Hãy xem quả của miếng cơm ấy:
Trong một ngàn năm con đẽ ăn vật thực được gia vào nhiều gia vị, vui
hưởng với tất cả những gì đem lại sự thỏa mãn cho những ước muốn
của con.
16. Hãy xem loại kết quả có được
của một mảnh vải chỉ bằng gang tay: Nhiều y phục như trong khắp cõi của
vua Nanda.
17. Còn hơn thế nữa, thưa Ngài, là
những y phục và những đồ trải bằng lụa và bằng vải len, vải lanh
và vải sợi của con.
18. Chúng có nhiều và đắt quí -
Chúng còn thòng xuống từ bầu trời; Và con chỉ mặc vào bất cứ cái gì
mà con thấy thích.
19. Hãy xem loại kết quả có được
từ một bát nước: những hồ sen được khéo bố trí ở ngoài và có bốn
góc.
20. Với nước trong và những bờ hồ
xinh đẹp, mát và thơm, được phủ lên bằng những hoa sen và hoa súng, nước
đầy những nhụy sen.
21. Và con vui thích, chơi giỡn và vui
sướng, chẳng có gì để sợ từ bất cứ hướng nào. Bạch Ngài, con đến
đây để đảnh lễ Bậc hiền trí có lòng bi mẫn đối với thế gian.
Chú giải:
13. VÀNG VÕ (uppannuki.m):
Ðã trở nên hơi vàng. BỊ ÐÓI (Chaata.m): muốn ăn, bị cơn đói hành hạ.
VỚI DA NHĂN NHEO (Sampatitacchavi.m): với da nơi thân của con bị nứt nẻ. ÐỐI
VỚI THẾ GIAN (Loke): Ðiều này cho thấy phạm vi của lòng bi mẫn của người
ở đây được xem là "đầy lòng bi mẫn". CON (Ta.m ma.m): Con trong
điều kiện ấy, con trong một trạng thái mà chắc chắn cần có lòng bi mẫn
như đã được nêu ra ở trên. ÐI ÐẾN KHỔ CẢNH (Duggata.m): Ðã đi đến
trạng thái đau khổ.
14. VỊ ẤY CHO ÐẾN CÁC VỊ TỲ KHƯU
MỘT MIẾNG (Bhikkhuuna.m aalopa.m datvaa): Ðịnh rõ cách mà Trưởng lão hành
động do lòng bi mẫn.
15. VẬT THỰC (Bhatta.m): Cơm, nghĩa là
vật thực của chư Thiên. TRONG MỘT NGÀN NĂM (Vassasata.m dasa): trong mười lần
một trăm năm được xem là một ngàn năm; đây là đối cách mang ý nghĩa
một thời gian kéo dài liên tục. THÊM NHIỀU HƯƠNG VỊ, KHI THỌ HƯỞNG SỰ
LÀM CHO VỪA LÒNG TẤT CẢ NHỮNG ƯỚC MUỐN CỦA CON (Kaama kaaminii anekarasa
vya~njana.m): Con sẽ ăn vật thực với nhiều loại hương vị, lại có những
dục lạc khác nữa - đây là cách nên được hiểu.
16. MỘT MẢNH VẢI (colassa): Ðiều
này chỉ rõ việc phước bao gồm sự bố thí với cái này là vật có tên
gọi chung là vật thí. HÃY XEM LOẠI QUẢ BÁU (Vipaakaampassayaadisa.m): Hãy xem
quả, cái được gọi là kết quả, của vật thí về mảnh vải, thưa Ngài.
Trong trường hợp ấy người nên hỏi cái gì? nữ Ngạ quỉ nói, "Nhiều
y phục như trong khắp cõi của vua Nanda v.v..." Bây giờ về điều này,
vua Nanda là ai?
Tương truyền rằng cách đây đã
lâu, khi thọ mạng của loài người là mười ngàn năm, một người có của
cải, là thường dân của xứ Ba la nại, trông thấy một vị Phật Ðộc
Giác nọ trong khu rừng của ông ta khi đang đi bộ trong rừng. Ðức Phật
Ðộc Giác đang làm một chiếc y tại đó, nhưng đã gấp nó lại và bắt
đầu đem cất, vì phần nối bị thiếu. Khi người đàn ông có của cải
trông thấy cảnh này, ông ta nói rằng, "Bạch Ngài, Ngài đang làm gì
thế? Dầu Ngài chẳng nói gì do lòng tri túc của Ngài, ông ta vẫn biết rằng
vật liệu làm y bị thiếu, bèn đặt chiếc áo choàng của ông ta dưới chân
của Ðức Phật Ðộc Giác. Ðức Phật Ðộc Giác nhặt lấy nó và, khi
thêm nó vào chỗ vá, làm thành chiếc y và mặc nó vào. Vào lúc thân hoại
mạng chung, người đàn ông có của cải ấy chết và tái sanh trong cõi trời
Ba mươi ba. Vị ấy thọ hưởng sự vinh quang của chư Thiên ở đó đến hết
thọ mạng của mình, và khi mạng chung từ cõi ấy, sanh vào trong gia đình
của một vị Tư tế quan trong một ngôi làng nọ cách Ba la nại một do Tuần.
Vào lúc vị ấy đến tuổi thành niên, thì lễ hội ăn mừng tháng mới
được công bố trong ngôi làng đó. Chàng trai nói với mẹ của mình rằng,
"thưa mẹ, hãy cho con một chiếc áo choàng để con có thể đi dự hội
ăn mừng tháng mới". Bà ta lấy ra một chiếc áo mới và trao cho cậu.
"Thưa mẹ, chiếc áo này thô quá". Chàng trai nói. Bà ta lấy ra một
chiếc áo khác và trao nó cho cậu, nhưng cậu ta cũng từ chối chiếc áo
này. Rồi người mẹ nói với cậu ta rằng, "này con, từ khi chúng ta
sanh vào trong gia đình này, chúng ta không tạo những phước nào để có những
y phục tốt hơn những thứ này nữa". "con sẽ đi đến một chỗ
để kiếm ra nó, thưa mẹ". "Thế thì hãy đi đi, này con, mẹ muốn
rằng chính ngày hôm nay con có thể có được quyền cai trị vương quốc
Ba la nại này". "Tốt lắm, thưa mẹ" cậu ta đáp lại. Chàng
trai cúi chào mẹ, đi vòng quanh bà ta về hướng phải và nói rằng,
"xin chào mẹ". "Chào con". Tương truyền rằng ý nghĩ xảy
đến với bà ta rằng, "nó có thể đi đâu? nó chỉ có thể ngồi chỗ
này chỗ kia quanh ngôi nhà này mà thôi". Nhưng bị thôi thúc bởi những
việc phước của mình, cậu ta rời khỏi ngôi làng và đi đến Ba la nại;
ở đó cậu ta nằm xuống trên một tảng đá có điềm may sau khi che người
từ đầu trở xuống. Lúc bấy giờ là ngày thứ bảy sau khi đức vua băng
hà. Khi những vị quan cố vấn đặc biệt của đức vua và vị tư tế
quan đã làm lễ mai táng rồi, họ ngồi trong sân triều và bàn luận với
nhau rằng, "Có một đứa con gái của đức vua, nhưng không có đứa
con trai nào cả; Một vương quốc mà không có vua thì không tồn tại được.
Chúng ta phải gởi đi một chiếc xe hoa". Họ thắng ách bốn con ngựa
có màu hoa sen trắng và để vào trong chiếc xe năm biểu tượng của đức
vua, đứng đầu là cái lọng trắng. Rồi họ cho chiếc xe đi và cho trổi
nhạc ở đằng sau. Chiếc xe đi về cổng đông và hướng về vườn ngự
uyển. Một số người nói rằng, "Chiếc xe đang đi về vườn ngự uyển
theo thói quen, hãy quay nó lui". Nhưng vị tư tế quan nói rằng, "đừng
quay nó lui". Chiếc xe đi vòng quanh chàng trai về hướng phải và rồi
đứng chờ sẵn để người ấy leo lên. Vị Tư tế quan dỡ lên một góc
của tấm chăn, quan sát hai lòng bàn chân của vị ấy và nói rằng,
"Hãy để chàng trai này làm nơi nương tựa của chúng ta- vị ấy có
thể tạo ra độc nhất một vương quốc gồm cả bốn châu và hai ngàn đảo
vây quanh", và rồi sai trổi nhạc ba lần khi nói rằng, "Hãy trổi
nhạc lên, hãy trổi nhạc lên nữa đi!" chàng trai mở tấm chăn trên mặt
ra, nhìn quanh người của vị ấy và nói rằng, "này ông bạn, ông đến
đây có chuyện gì thế?" "Tâu bệ hạ, vương quốc đã đến với
bệ hạ". "Vua của các ngươi đâu?" "Vị ấy đã thăng hà
rồi, tâu chúa thượng". "Bao nhiêu ngày rồi?" "Hôm nay là
ngày thứ bảy rồi". "Không có con trai hay con gái nào à?"
"Chỉ có một đứa con gái, tâu bệ hạ, nhưng không có con trai".
"Thôi được, nếu vậy thì ta sẽ cai trị". Ngay tức thì họ dựng
lên một nhà mát để phong vương cho vị ấy, trang sức cho đứa con gái của
đức vua bằng tất cả những vật trang sức của nàng, dẫn nàng đến vườn
ngự uyển và phong vương cho chàng thanh niên. Khi vị ấy đã được phong
vương, họ dâng đến cho vị ấy những tấm vải trị giá một trăm ngàn
đồng, "Ðây là cái gì, này các bạn". Vị ấy hỏi, "những
chiếc y của bệ hạ, tâu bệ hạ". "Chúng không thô, phải không
các bạn?" "không có những thứ nào tốt hơn những thứ này trong
bất cứ những y phục nào được dùng bởi loài người, tâu bệ hạ".
"Vua của các ngươi có mặc giống như thế này không?" "thưa có,
tâu bệ hạ". "Ta không nghĩ rằng vua của các ngươi có phước. Hãy
đem đến cho ta một cái bình nước bằng vàng và ta sẽ kiếm một số y
phục". Họ đem đến cái bình bằng vàng. Vị ấy đứng lên, rửa tay,
súc miệng và, khi cầm một ít nước trong tay, rảy nó vào hướng đông,
nhân đó tám cây như ý rẽ đất mọc lên. Vị ấy lại lấy một ít nước
và rảy nó vào hướng nam, hướng tây và hướng bắc, khi rảy nước như
vậy vào các hướng, thời mỗi nơi trong tất cả các hướng ấy vị ấy
đã tạo ra tám cây để có ba mươi hai cây như ý mọc lên tất cả. Một
số người nói rằng trong mỗi hướng, vị ấy tạo ra mười sáu cây để
có tất cả sáu mươi bốn cây. Chàng trai mặc vào một chiếc của chư Thiên,
đắp quanh người và nói rằng, "hãy cho đánh trống rao truyền rằng
trong mỗi lãnh thổ của vua Nanda, người đàn bà làm nghề xe chỉ không cần
xe chỉ nữa".
Vị ấy bảo họ trương lên chiếc lọng
và, khi đã mặc y phục, trang sức và cỡi trên con voi oai phong nhất, đi vào
thành phố, đi lên cung điện và thọ hưởng sự vinh quang vĩ đại.
Thắm thoát một thời gian, đến một
hôm nọ, hoàng hậu khi trông thấy sự vinh quang của đức vua, đã tỏ
tình thương của nàng bằng cách nói rằng, "chắc chắn bệ hạ cần tỏ
nhiều tiết chế hơn". Khi được hỏi, "nàng muốn ám chỉ gì,
này ái khanh?" nàng bèn nói rằng, "Ngài có sự vinh quang tột độ,
tâu bệ hạ. Có một thời nào đó trong quá khứ, chắc bệ hạ đã làm những
việc thiện, nhưng bây giờ, bệ hạ không làm những việc thiện vì hạnh
phúc trong tương lai của bệ hạ". "Chúng ta có thể bố thí đến
cho ai? không có những bậc giới đức". "Tâu bệ hạ, cõi
Jambudiipa này không thiếu những vị A la hán. Bệ hạ chỉ cần sửa soạn
những vật thực và thiếp sẽ thỉnh những vị A la hán", nàng nói.
Vào ngày hôm sau, đức vua sai sửa soạn một cuộc bố thí vĩ đại. Hoàng
Hậu khấn nguyện rằng, "nếu có những vị A la hán trong hướng này,
thì xin các Ngài hãy đến đây và thọ lãnh những vật thí từ chúng
con!" và nằm sấp xoay mặt về hướng bắc. Ngay khi hoàng hậu đang nằm
thì Ðức Phật Ðộc Giác Paduma, là vị cao hạ nhất trong năm trăm vị Phật
Ðộc Giác, là những đứa con trai của hoàng hậu Padumavatii và đang trú ngụ
trong vùng Hy Mã Lạp Sơn, nói với huynh đệ của vị ấy: "Vua Nanda
đang thỉnh các tôn giả, thưa chư tôn giả - chư tôn giả nên nhận lời của
vị ấy". Họ đồng ý và ngay tức thì đi xuyên qua hư không và đáp
xuống ở cổng bắc. Dân chúng báo tin với đức vua rằng, "Tâu bệ hạ,
năm trăm vị Phật Ðộc Giác đã đến". Ðức vua đi cùng với hoàng hậu
ra đảnh lễ các Ngài, lãnh bát của các Ngài và mời các Ngài vào trong
hoàng cung; Ở đó, vị ấy cúng dường những vật thí đến các Ngài. Khi
bữa ăn đã kết thúc, họ bèn quì xuống, đức vua ở dưới chân của vị
cao hạ nhất và hoàng hậu ở dưới chân của những vị nhỏ hạ hơn, họ
bạch rằng, "Các bậc ứng cúng sẽ sống không thiếu những vật dụng;
Những việc phước của chúng con sẽ không suy giảm. Xin hãy cho chúng con lời
đồng ý của các Ngài mà ở lại đây". Khi đã được sự đồng ý của
các Ngài, vị ấy sai dựng lên những chỗ ngụ trong vườn ngự uyển và hầu
hạ chư Phật Ðộc Giác suốt cuộc đời còn lại của họ. Khi các Ngài
nhập Niết bàn, đức vua sai tổ chức những buổi lễ thiêng và tổ chức
những nghi lễ mai táng bằng gỗ chiên đàn và những thứ khác, và rồi lấy
xá lợi của các Ngài và tôn trí những xá lợi ấy trong một bảo tháp.
Ðầy xúc động khi nghĩ rằng, "nếu cái phải đến với ngay cả những
vị ẩn sĩ có đại oai lực này, thì có lời nào có thể được nói về
những người như ta?" Vị ấy phong vương cho đứa con trai đầu của mình,
rồi chính vị ấy ra đi, sống đời không nhà của một vị ẩn sĩ. Hoàng
hậu, khi tự hỏi nàng có thể làm gì khi xét thấy đức vua đã xuất gia
rồi, cũng đi xuất gia. Khi trú ngụ trong vườn ngự uyển, hai vị đạo
sĩ này đã khiến cho những tầng thiền sanh lên và trải qua thời gian của
họ trong pháp an lạc của thiền định. Vào lúc kết thúc thọ mạng của
họ, họ sanh trong cõi phạm thiên. Tương truyền rằng Trưởng lão
Mahaakassapa, một đại Thinh văn của Bậc Ðạo sư của chúng ta, là đức
vua Nanda ấy; và Bhaddaa Kapilaanii là hoàng hậu của vị ấy. Trong mười ngàn
năm, chính vua Nanda này đã mặc những y phục của chư Thiên, vị ấy đã
khiến cho toàn thể lãnh thổ của vị ấy giống như Uttarakuru và đã bố
thí những y phục của chư Thiên đến các bậc ứng cúng. Bấy giờ khi đề
cấp đến sự vinh quang này, Nữ Petii nói rằng, "có nhiều y phục như
trong khắp lãnh thổ của vua Nanda ".
Ở đây, TRONG LÃNH THỔ (Vijitassmi.m):
Trong vương quốc. Y PHỤC (Paticchadaa): Vải vóc vatthaani: Chúng được gọi
là, "y phục" pa.ticchadaa vì người ta mặc (Pa.ticchaadenti) chúng.
Bấy giờ để cho thấy sự vinh quang
của nàng lúc bấy giờ còn lớn hơn sự vinh quang của vua (Nanda); nữ
(Petii) bèn nói rằng, "Còn nhiều hơn thế nữa, thưa Ngài, là những y
phục và những đồ trải giường của con v.v..."
17. HƠN THẾ NỮA (Tato): Còn nhiều hơn
những y phục của vua Nanda là những y phục của con. NHỮNG TÂM VẢI VÀ NHỮNG
TẤM KHĂN TRẢI GIƯỜNG (Vatthaani'cchaadanaani): những áo choàng và những chiếc
y lót. BẰNG LỤA VÀ LEN: Koseyyaka.mbaliyaani = ko seyyaani c'eva Kambalaani ca (Phối
hợp cách). VẢI LANH VÀ VẢI SỢI (Khomakappaa sikaani ca): Những y phục làm bằng
vải lanh và vải sợi.
18. NHIỀU (vipulaa): Nhiều và to lớn về
bề dài và bề rộng. ÐẮT GIÁ (Mahaggahaa): Có giá trị rất to lớn vì đắt
giá. THÒNG XUỐNG TỪ BẦU TRỜI (aakaase'vala.mbare): Nằm thòng xuống trong bầu
trời. BẤT CỨ CÁI GÌ CON THÍCH (ya.m ya.m hi manaso piya.m): Và con chỉ lấy bất
cứ cái nào mà con thích để mặc nó và đắp quanh người của con - Ðây
là cách nên được hiểu.
19. HÃY XEM LOẠI KẾT QUẢ CÓ ÐƯỢC
TỪ MỘT BÁT NƯỚC (thaalakassa ca paaniiya.m Vipaaka.m Passa Yaadisa.m): Hãy xem loại
và tánh chất vĩ đại về kết quả của điều này, chỉ một bát nước
được cho ra và được tuỳ hỉ. Ðể chỉ rõ điều này, nàng nói rằng,
"Sâu, có bốn góc" v.v... Ở đây SÂU (Ga.mbhiiraa): Khó dò. CÓ BỐN
GÓC (Caturassaa): có hình chữ nhật. NHỮNG HỒ SEN Pokkhara~n~no= pokkharaniyo
(Hình thức văn phạm chuyển đổi). KHÉO HIỆN RA. (Sunimmitaa): khéo hiện ra
theo đúng với nghiệp của nàng.
20. CÓ NƯỚC TRONG: setodakaa
=seta-Udakaa, (Phối hợp cách); và được trãi bằng cát trắng. VỚI NHỮNG
BỜ HỒ XINH ÐẸP (Supatitthaa): Với những chỗ tắm xinh đẹp. MÁT (siitaa):
với nước mát. THƠM NGÁT (Appa.tigandhiyaa): Với hương thơm làm mê mẫn,
không có mùi hôi khó chịu. MẶT NƯỚC ÐẦY NHỮNG NHỊ SEN
(vaariki~njakkhapuuritaa): nước được phủ bằng những nhụy sen lăn tăng và
những nhị của hoa súng xanh v.v..
21. CON: Saaha.m= Sà aha.m (Phối hợp
cách). Vui chơi (Namati): thấy vui thích. CHƠI (Ki.laami): làm thoả mãn các căn
của con. KHOÁI CẢM (Modaami): Vui thích với sự vinh quang về ái lạc của
con. CHẲNG CÓ GÌ ÐỂ SỢ TỪ BẤT CỨ HƯƠNG NÀO (akutobhayaa): Con sống thoải
mái và thỏa thích mà chẳng có sợ hãi từ bất cứ hướng nào. BẠCH
NGÀI, CON ÐẾN ÐỂ ÐẢNH LỄ NGÀI (bhante vanditum aagataa): Bạch Ngài, con đã
đến để đảnh lễ Ngài, vì Ngài là phương tiện để con đạt đến sự
vinh quang thần tiên này.
Cái mà không được phân tích ở đây
về ý nghĩa của nó thì đã được nêu ra ở chỗ khác. Khi điều này được
nói bởi nữ Petii ?y, Ðại đức Saariputta bèn kể lại đầy đủ chi tiết
của câu chuyện đến mọi người - là những dân cư của hai ngôi làng
itthakaavatii và diigharaajii mà đã đến yết kiến trưởng lão - đã khiến
cho họ xúc động và diệt trừ tà kiến Samsaaramocaka của họ, và rồi an
trú họ thành những thiện tín. Vấn đề này được các vị Tỳ kheo biết
đến và họ nêu lên vấn đề ấy với Ðức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy
vấn đề ấy làm nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết Pháp đến
hội chúng đã hội họp ở đó. Thời Pháp đem lại lợi ích cho nhiều Người
ở đó.
-ooOoo-
II.2 XÁ LỢI PHẬT MẪU
QUỶ SỰ
(SAARIPUTTATHERAMAATU PETAVATTHUVA.N.NAN)
"Người trần truồng và có hình
tướng ghê tởm".
Pháp thoại này được Bậc Ðạo sư
thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở Trúc Lâm viên, liên quan đến một
Nữ Ngạ quỉ mà đã từng làm Mẹ của Trưởng lão Saariiputta trong bốn kiếp
về trước.
Một hôm Ðại Ðức Saariiputta, Ðại
Ðức Moggallaana, Ðại Ðức Anurudha và Ðại Ðức Kappina đang trú ngụ ở
một khu rừng nọ không cách xa thành Vương Xá. Lúc bấy giờ, tại Ba-la-nại
có một vị Bà-la-môn có của cải lớn, đầy những kho chứa vàng và bạc.
Ông ta là người hay bố thí đồ ăn, thức uống, y phục, và giường nằm
và những thứ khác đến các vị Sa môn, Bà-la-môn, những người nghèo khổ,
người lang thang, người đi đường xa và người ăn xin, như một cái giếng
cho nước vậy. Vị ấy bố thí đến các vị A-la-hán theo đúng nhu cầu của
các ngài, cung cấp mọi vật thí cần được cho ra như nước để rửa chân,
những loại dầu xức để thoa chân v.v... Cũng như chăm sóc các vị Sa môn
hết mức bằng đồ ăn và thức uống v.v... cho bữa phạn thực của các
Ngài. Khi đi đến những vùng khác, ông ta thường nói với vợ rằng
"Này hiên thê, hãy tiếp tục chăm lo hình thức bố thí vật thực này
như tôi đã sắp xếp nó, đừng để cho nó suy giảm." "Tốt lắm",
bà ta đồng ý, nhưng khi ông ta đã đi khỏi rồi thì bà ta chấm dứt hình
thức bố thí mà ông ta đã sắp xếp cho các vị Tỳ kheo. Bà ta thường chỉ
cho những người đi đường xa, đến để xin chỗ trú ngụ, một cái láng
cũ kỹ đã bị bỏ đi ở sau hè nhà, khi nói rằng, "Các ngươi có thể
ở đây". Ðối với những người khách lữ hành đi đến đó để xin
vật thực và thức uống v.v.. thì bà ta lại nói rằng, "Hãy ăn phẩn,
uống nước đái, uống máu; Hãy ăn óc não của mẹ các ngươi!" và
nguyền rủa họ bằng tên của bất cứ cái gì nhơ nhuốc và bất tịnh.
Ðến đúng thời kì, bà ta chết và bị
kéo đi bởi nghiệp lực của bà ta, bà ta tái sanh trong cõi Ngạ quỉ, chịu
sự thống khổ tương ứng với ác hạnh về lời nói của bà ta. Khi nhớ
đến mối liên quan của chúng trong kiếp trước và muốn đi đến yết kiến
Ðại Ðức Saariiputta, nữ ngạ quỷ đi đến tinh xá của vị ấy, nhưng vị
chư Thiên bảo vệ của tinh xá ấy không chịu cho nàng vào tịnh xá. Tương
truyền rằng nàng đã từng làm mẹ của Trưởng lão trong kiếp quá khứ
cách bốn kiếp về trước. Do đó, nàng bèn nói rằng, "trong kiếp quá
khứ của tôi, tôi là mẹ của Trưởng lão Cao quí Saariputta ; xin hãy cho
phép tôi đi qua cổng để thăm Trưởng lão." khi nghe qua lời này, những
vị chư Thiên bèn cho phép nàng. Khi nàng đã đi vào, đứng ở cuối của
con đường kinh hành và hiện ra trước mặt Trưởng lão. Trưởng lão
trông thấy nàng, tâm của vị ấy vị rung động bởi lòng bi mẫn và hỏi
nàng bằng câu kệ này:
1. "Người trần truồng và có
hình tướng ghê tởm, gầy ốm với những đường gân lộ ra. Ngươi là
con người gầy ốm, với những xương sườn lồi ra. Bây giờ ngươi là
ai, ngươi là ai mà đứng ở đây?
Khi được hỏi bởi Trưởng lão,
nàng bèn nói năm câu kệ này để đáp lại:
2. "Tôi chính là mẹ của Ngài
trong những kiếp quá khứ khác, nhưng bây giờ tôi đã sanh trong cõi Ngạ
quỷ, bị đói và khát.
3. Những thứ quăng bỏ, những đồ
khạt nhổ, nước dãi, nước mũi, đờm, mỡ của những xác người đang bị
đốt cháy và máu của những người đàn bà đẻ,
4. Và máu từ những vết thương và từ
những cái mũi và đầu bị cắt: Do bị đói, tôi đã ăn cái gì dính theo
những đàn ông và đàn bà.
5. Tôi ăn mủ máu của gia súc và của
loài người, lại không có vật che thân và nhà cửa, phải nằm trên cái
giường than.
6. Này con thân, hãy cho giùm mẹ một
vật thí, và khi con đã cho rồi, hãy hồi hướng nó đến cho mẹ- chắc vậy,
khi ấy mẹ sẽ được tự do, không còn ăn máu và mủ nữa.
Chú giải:
2. Tôi chính là mẹ của
Ngài (Ahan te sakiyaa maataa): Tôi chính là mẹ của Ngài, là kẻ đã sanh ra
Ngài. TRONG NHỮNG KIẾP QUÁ KHỨ(Pubbe a~n~naasu jaatisu): dầu là mẹ của
Ngài nhưng không phải trong kiếp này, mà trong những kiếp quá khứ, trong
kiếp trước cách đây bốn kiếp. Ðây là cách nên được hiểu, NHƯNG BÂY
GIỜ TÔI ÐÃ SANH TRONG CÕI NGẠ QUỶ (Uppannà pettivisaya.m): Nhưng bây giờ
tôi đã đi đến cõi Ngạ quỷ do sự tái sanh . CHỊU ÐÓI VÀ KHÁT
(Khuppipaasaasamappitaa):bị hành hạ. bởi cơn đói và khát, nghĩa là bị dày
vò bởi ước muốn được ăn và uống không nguôi.
3. ÐỒ ÐƯỢC NÉM RA (Ka.nika.m
cha.d.dita.m): đồ được nhổ ra, nôn ra, có nghĩa là đồ ói mửa. ÐỒ KHẠT
NHỔ (Khipita.m): Những đồ nhơ uế, đi ra từ cái miệng, bằng sự khạt
nhổ. NƯỚC MIẾNG (Khela.m): Nước dãi, NƯỚC MŨI (Siíghaa.nika.m): Những đồ
nhơ uế rời khỏi mũi sau khi chảy xuống từ não. ÐỜM: Silesuma.m = Semha.m
(thể văn phạm chuyển đổi). MỠ CỦA NHỮNG KẺ BỊ ÐỐT CHÁY:(Vasa~n ca
deyhamaanaana.m): Mỡ và dầu của những xác chết đang bị đốt cháy ở
trên giàn hoả. VÀ MÁU CỦA ÐÀN BÀ ÐẺ (Vijitaana~n ca lohita.m).:Máu của những
người đàn bà đã sanh đẻ, những chất nhơ của cái bào thai được bao
gồm bởi chữ "Và"
6. TỪ NHỮNG VẾT THƯƠNG (Vanitaana.m):
từ những vết thương mà đã sanh lên. CÁI ÐÓ (Ya.m): Máu - Ðây là chữ
mà có liên quan đến. TỪ NHỮNG CÁI MŨI VÀ CÁI ÐẦU BỊ CẮT (Ghaana
siisacchinna.m): Tôi ăn máu từ những cái mũi và cái đầu bị cắt; Vì tôi
cũng ăn máu từ những cánh tay và chân bị cắt v.v..., máu từ những cái
nầy cũng được xem là được bao gồm bởi những câu nói "từ những
vết thương". BỊ GIÀY VÒ BỞI CƠN ÐÓI (Khudarapataa): bị chế ngự bởi
ước muốn được ăn. CÁI GÌ DÍNH THEO NHỮNG NGƯỜI ÐÀN ÔNG VÀ NHỮNG NGƯỜI
ÐÀN BÀ (Itthipurisanissita.m): Ðiều này định rõ rằng nàng ăn cái gì dính
theo những thân xác của người đàn ông và của những đàn bà và những
vật khác như da, thịt, gân, mủ vv....
5. CỦA SÚC VẬT (Pasuuna.m): của những
con dê (Bò, trâu v.v...) KHÔNG CÓ CHỖ CHE THÂN (alenaa): Không có chỗ nương
náu. KHÔNG CÓ NHÀ CỬA (Anagaaraa): Không có chỗ trú ngụ. NẰM TRÊN CHIẾC
GIƯỜNG ÐEN (nìlama~ncaparaayanaa) nằm trên chiếc giường chứa những vật
nhơ bẩn mà đã bị bỏ đi ở bãi tha ma. Hay, nói cách khác, "đen"
(Nìla): chỉ về bãi tha ma có nhiều tro và than cháy đỏ, nghĩa là nằm
trên những cái này tựa như là chiếc giường.
6. HÃY HỒI HƯỚNG ÐẾN CHO MẸ
(anvaadisaahi me): Hãy cho vật thí rồi hồi hướng nó, bằng cách như vậy,
sẽ đem lại lợi ích cho mẹ. CHẮC VẬY, KHI ẤY MẸ SẼ ÐƯỢC THOÁT KHỎI
SỰ ĂN MÁU VÀ MỦ (App'eva mama mu~njeyya.m pubbalohitabho janaa): Chắc mẹ sẽ
được thoát khỏi kiếp sống sanh làm Ngạ quỉ này, không còn ăn máu và
mủ nhờ sự hồi hướng của con.
Khi đã nghe qua điều này, vào ngày
hôm sau, Ðại đức Saariputta bàn bạt với ba vị Trưởng lão, là Trưởng
lão Mahaamoggallaana v.v... Và khi đang đi chung với họ đến thành Vương xá
để khất thực, bèn đi đến chỗ ngụ của vua Bimbisaara . Khi đức vua trông
thấy Trưởng lão, vua đảnh lễ Trưởng lão và hỏi Trưởng lão về lý
do của chuyến viếng thăm: "Bạch Ðại Ðức, Ngài đến đây có mục
đích gì?" Ðại đức Mahaamoggallaana báo tin cho đức vua biết về biến
cố ấy. Ðức vua nói rằng, "Trẫm cho phép Ngài", và rồi tiễn
đưa các vị Trưởng lão ra về. Ðức vua bảo vị quan của mình lo mọi
chuyện và truyền lệnh rằng, "Hãy xây dựng bốn cái cốc gần thành
phố, trong một khu rừng, có bóng mát và có nước". Vị ấy chia nhóm
thợ trong nội thành ra ba nhóm theo đúng với nghề nghiệp chuyên môn của
họ, sai che mái trên Phước xá, rồi tự thân đi đến đó và làm điều gì
cần phải làm. Khi những ẩn xá đã hoàn thành, vị ấy sai sửa soạn tất
cả những vật thí cúng dường và tất cả những vật dụng thích hợp như
vậy, những thức uống và y phục v.v... Cũng sai chuẩn bị sẳn để mời
chư Tăng có Ðức Phật dẫn đầu và rồi trao tất cả phần việc này cho
Ðại Ðức Saariputta. Rồi Ðại Ðức Saariputta bố thí những thứ này
nhân danh Ngạ quỉ ấy, đến chư Tăng từ bốn phương có đức Phật dẫn
đầu. Nữ Ngạ quỉ ấy bày tỏ tuỳ hỉ của nàng đến vị ấy và được
sanh trong cõi Devaloka (Cõi chư Thiên), có đầy đủ tất cả những gì mà
nàng muốn. Vào ngày sau, nàng đi đến Trưởng lão Maahmoggallaana, đảnh lễ
Ngài và rồi đứng yên trong khi Trưởng lão hỏi nàng. Nàng bèn kể cho Trưởng
lão nghe đầy đủ chi tiếc về cách mà nàng đã sanh làm một Nữ Ngạ quỷ
và làm một vị Nữ thần. Vì lý do này có lời nói rằng:
7. "Khi vị ấy đã nghe qua những
lời mà mẹ của vị ấy đã phải nói, Upatissa, đầy lòng thương xót,
bèn hỏi ý kiến Moggallaana, Anuruddha vaa Kappinà.
8. Vị ấy dựng lên bốn phước xá,
rồi cho những phước xá ấy cùng vật thực và thức uống đến Tứ
phương Tăng, rồi hồi hướng phước thí ấy đến cho mẹ của Ngài.
9. Ngay khi vị ấy hồi hướng phước
thí này thì kết quả hiện ra: vật thực, thức uống và y phục, là quả
của Phước thí này.
10. Nhân đó, nàng trở nên thanh tịnh,
mặc những y phục tươi sáng và sạch sẽ, mặc những thứ còn mịn hơn vải
lụa Kaasi, và được trang sức bằng nhiều loại y phục và những vật
trang sức, Nàng đi đến Kolita ."
Chú giải:
8. VỊ ẤY CHO TỨ PHƯƠNG
TĂNG: Sa"nghe caatuddise adaa= Caatuddisassa Sa"nghassa adaasi (Thể văn phạm
chuyển đổi), nghĩa là vị ấy trao đến cho họ.
Phần còn lại có ý nghĩa đúng như
đã được giải rõ rồi.
Rồi Ðại Ðức Moggallaana hỏi Pèti
đó rằng:
11. "Ngươi là người đang đứng
với sắc đẹp tuyệt trần, này Devataa, sáng rực lên khắp các hướng
như Dược Vương Tinh.
12. Sắc đẹp của ngươi như vậy là
do cái gì? Do cái gì mà điều này được thành tựu bởi ngươi ở đây?
Và có sanh lên bất cứ dục lạc nào mà ngươi ưa thích?
13. Ta hỏi ngươi, này devì có oai lực
lớn, ngươi đã làm việc phước nào khi ngươi còn làm người? do cái gì
khiến oai lực của ngươi chiếu sáng như vậy và sắc đẹp của ngươi chói
lọi trong các hướng?
Rồi nàng trả lời, khi nói rằng,
"Con là mẹ của Saariputta v.v...
Phần còn lại có ý nghĩa đã được
giải rõ rồi.
Rồi Ðại Ðức Moggalaana nêu vấn đề
ấy với Ðức Thế Tôn Ðức Thế Tôn lấy vấn đề ấy làm nguyên nhân cần
thiết đã sanh lên và thuyết pháp đến hội chúng đã hội họp ở đó.
Thời pháp ấy đem lại lợi ích cho những người ấy.
-ooOoo-