- CHÚ GIẢI NGẠ QUỶ
SỰ
- Dịch từ Pali sang Anh Ngữ: PETER
MASEFIELD
[3.a]
CHƯƠNG III: TIỂU PHẨM
(CUU.LAVAGGA)
-ooOoo-
III.I BẤT ÐÁNG QUỈ SỰ
(ABHIJJAAMANA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Mà không làm rẽ nước". Pháp
thoại này được thuyết giảng trong khi Bậc Ðạo sư đang trú ngụ ở
Ve.luvana, liên quan đến một Ngạ quỉ nọ mà đã từng làm một người thợ
săn.
Tương truyền rằng: ở bên kia sông Hằng,
về phía tây của thành Ba la nại, khi bạn đi tới ngôi làng Vaasabha thì tại
đó có một người thợ săn nọ ở trong ngôi làng tên là Culda.tthila . Anh
ta thường giết Nai trong rừng, ăn phần thịt ngon nhất mà anh ta đã nướng
trên lửa than, rồi bỏ phần còn lại trong một cái giỏ lá và mang khối
thịt này trên một cái sào, rồi trở về làng. Khi những đứa trẻ nhỏ
trông thấy anh ta ở cổng làng thì chúng chạy đến anh ta với hai bàn tay
xoè ra mà nói rằng, "hãy cho con thịt! hãy cho con thịt!". Mỗi lần
như thế anh ta cho chúng một ít thịt. Rồi một hôm nọ, anh ta không kiếm
được thịt. Anh ta bèn trang sức vào người bằng những bông hoa uddaala,
và cũng mang nhiều bông hoa trong tay anh ta đi đến ngôi làng.
Khi những đứa trẻ nhỏ trông thấy
anh ta ở cổng làng, chúng chạy đến anh ta với những bàn tay xoè ra mà
nói rằng. "Hãy cho con thịt, hãy cho con thịt!" Anh ta cho mỗi đứa
trong bọn chúng một nhánh hoa. Ðến đúng lúc, anh ta chết và sanh vào cõi
ngạ qủi, bị trần truồng, xấu xí và trông khủng khiếp vì không biết
đến đố ăn hay thức uống, ngay cả trong những giấc mơ của anh ta cũng
không, và với những bó hoa uddaala được buộc vào đầu, anh ta đi bộ
ngược dòng sông Hằng mà không làm rẽ nước, khi nghĩ rằng, "Ta sẽ
kiếm một cái gì đó trước mặt những quyến thuộc của ta ở
Cunda.t.tthila ". Lúc bấy giờ, vị quan đại thần của vua Bimbisaara, tên
là Koliya, đang trở về sau khi dẹp yên cuộc dấy loạn ở vùng biên giới;
sau khi đã truyền lịnh cho đoàn Tượng binh và mã binh v.v... đi trên đường
bộ, chính trị ấy đi bằng thuyền xuôi dòng sông Hằng; khi vị ấy trông
thấy con Ngạ quỉ ấy đang đi đến trong trạng thái ấy, bèn nói lên câu
kệ này để dò hỏi:
1. "Ngươi đang đi ở đây mà
không làm rẽ nước của sông Hằng; Người trần truồng, tuy nhiên nửa phần
trước của ngươi thì không giống một Peta, có trang sức, mang những
tràng hoa. Này Peta, ngươi đang đi đâu, và chỗ ngụ của ngươi sẽ ở
nơi đâu?"
Chú giải:
1. Ở đây, MÀ KHÔNG LÀM
RẼ NƯỚC (abhijjamaane), làm cho liền lạc với nhau mà không làm rẽ ra ở
chỗ để bàn chân xuống. NƯỚC CỦA SÔNG HẰNG (Vaarimhi ga"ngaaya): nước
của con sông Hằng. Ở ÐÂY (Idha): Tại chỗ này, TUY NHIÊN PHẦN TRƯỚC CỦA
NGƯƠI THÌ KHÔNG GIỐNG NHƯ PETA . (pubbaddhapeto'va): nửa phần trước của
người thì không giống như con Ngạ quỉ - Nó giống như của một chư thiên
không thuộc cõi Ngạ quỉ, tại sao? CÓ TRANG SỨC, MANG NHỮNG TRÀNG HOA
(maalaadhaarii ala"nkato): (Ðỉnh đầu) của ngươi có trang sức, được
trang sức bằng những tràng hoa. CHỖ NGỤ CỦA NGƯƠI SẼ NẰM NƠI ÐÂU?
(Kattha vaaso bhavissati): ở ngôi làng nào hay nơi nào sẽ là chỗ ngụ của
ngươi, nghĩa là hãy nói cho ta biết rõ điều này.
Bấy giờ, để cho thấy điều được
nói ra vào lúc bấy giờ bởi Ngạ quỉ và bởi Koliya, những người kiết
tập Tam Tạng đã nói lên những câu kệ này:
2.... "Tôi đang đi đến
Cunda.t.tthila ", Ngạ quỉ nói, "ở chính giữa của ngôi làng
Vaasabha, trong vùng lân cận của Ba la nại".
3. Và khi trông thấy nó, vị quan đại
thần, là vị Koliya nổi tiếng, bèn cho Peta một bữa cơm lúa mạch, vật
thực cùng một bộ y phục màu vàng.
4. Khi chiếc thuyền của vị ấy dừng
lại, vị ấy bèn bảo người cho những thứ ấy đến người thợ cạo;
khi chúng đã được cho đến người thợ cạo ngay tức thì chúng ta được
trông thấy ở trên thân của ngạ qủi.
5. Nhân đó, nó được mặc vào những
y phục tốt, được trang sức, và mang những tràng hoa; khi đã tin chắc rằng
vật thí có lợi ích cho Ngạ quỉ ấy, do vậy người nên cho ra nhiều lần
vì lòng thương tưởng đến những Ngạ quỉ".
Chú giải:
2. Ở đây, đến
Cunda.t.thila (Cunda.t.thila.m): đến ngôi làng có tên ấy. Ở CHÍNH GIỮA CỦA
NGÔI LÀNG VAASABHA . TRONG VÙNG LÂN CẬN CỦA BA LA NẠI (antare vaasabha gaa.ma.m
baaraanasiyaa santike): nằm nửa đường giữa ngôi làng Vaasabha và Ba la Nại.
3. VỊ KOLIYA NỔI TIẾNG (Koliya iti
vissuto): bằng cái tên Koliya nổi tiếng. BỮA ĂN BẰNG LÚA MẠCH VÀ VẬT THỰC:
Sattu bhatta~nca= Sattu~n c'eva bhatta~n ca (phối hợp cách). CHO.... VÀ MỘT CẶP
MÀU VÀNG(Piitaka~nca yuga.m adaa): và một cặp áo quần vàng, có màu sắc
vàng kim. Trong trường hợp ấy nó nên được hỏi là, " Vị ấy đã
cho cái này vào lúc nào?"
4. KHI CHIẾC THUYỀN CỦA VỊ ẤY DỪNG
LẠI, VỊ ẤY SAI CHO CHÚNG ÐẾN MƯỜI THỢ CẠO (Naavaaya ti.t.thamaanaaya
kappakassa adaapayi): Vị ấy cho dừng lại chiếc thuyền đang di chuyển của
vị ấy và tại đó vị ấy đã trang điểm cho người hầu lo việc tắm rữa,
là một Thiện Nam; Khi bộ áo quần đã được cho ra - đây là cách nên
được hiểu. NGAY TỨC THÌ .Thaane = .thaanaso (thể văn phạm hoán chuyển),
Ngay chính lúc ấy. CHÚNG ÐƯỢC TRÔNG THẤY THUỘC VỀ NGẠ QUỈ ẤY
(petaassa dissa.tha): chúng được nhận biết là ở trên thân của Ngạ quỉ.
Chiếc khố ở dưới và chiếc áo khoác hiện ra cho nó. Vì lý do này mà vị
ấy nói rằng:
5. NHÂN ÐÓ, NÓ ÐƯỢC MẶC VÀO NHỮNG
Y PHỤC TỐT ÐẸP, ÐƯỢC TRANG SỨC, MANG NHỮNG TRÀNG HOA (Tato
suva.t.thavasanomaalaadhaarii ala~nkato): Ðược mặc vào những y phục tốt đẹp
và được trang sức xinh đẹp bằng những tràng hoa mà vị ấy mang. ÐỨNG
TRONG ĐỊAVỊ CHO THẤY VẬT THÍ CÓ LỢI ÍCH CHO NGẠ QUỈ ẤY (.thaane
.thitassa petassa dakkhi.naa upakappatha): tuy nhiên vật thí ấy ở trong vị trí
của người xứng đáng thọ lãnh những vật thí, bởi vì nó đem lại lợi
ích cho Ngạ quỉ ấy, bởi vì nó sanh đến cho Ngạ quỉ dùng. DO ÐÓ, NGƯỜI
NÊN CHO RA VỚI LÒNG BI MẪN DÀNH CHO NHỮNG NGẠ QUỈ THƯỜNG XUYÊN (Tasmaa
dajjetha petaana.m anuka.mpakaa punappuna.m): Nghĩa là người nên cho những vật
thí do lòng bị mẫn đối với những Ngạ quỉ, nhân danh những Ngạ quỉ,
cho nhiều lần lập đi lập lại.
Bấy giờ vị quan đại thần Koliya,
khi cảm thấy thương hại cho Ngạ quỉ ấy, đã tạo ra hình thức bố thí
ấy và rồi đi xuống dòng sông và đến Ba la nại vào lúc mặt mọc. Ðức
Thế Tôn, khi đã đi xuyên qua hư không để tiếp độ cho họ, đang đứng
ở trên bờ sông Hằng. Vị quan đại thần Koliya xuống thuyền và, rất
vui sướng, thỉnh mời đức Thế Tôn khi nói rằng: "Bạch Ðức Thế
Tôn cầu xin đức Thế Tôn vì lòng bi mẫn mà nhận lời mời của con để
thọ thực ngày hôm nay. Ðức Thế Tôn im lặng nhận lời. Ngay tức thì vị
ấy dựng lên ở một chỗ đất khả ái một nhà mát bằng những cành
cây, có trang hoàng ở bên trên và có nhiều màu sắc,và rồi dâng đến đức
Thế Tôn chỗ ngồi mà vị ấy đã sửa soạn ở trong đó. Ðức Thế Tôn
ngồi vào chỗ ngồi đã được soạn sẵn. Rồi vị quan đại thần đi đến
đức Thế Tôn, cúng dường ngài những vật thơm và những bông hoa v.v...,
đảnh lễ ngài và ngồi xuống ở một bên, kể lại với đức Thế Tôn
những điều mà vị ấy đã nói và câu đáp lại của Ngạ quỉ như đã
được nêu ra ở trên. Ðức Thế Tôn chú nguyện rằng, "chúng Tỳ kheo
hãy đến đây!" Ngay khi ngài chú nguyện câu này thì chúng Tỳ kheo, bị
thúc dục bởi oai lực của Ðức Phật, đến vây quanh vị Pháp vương,
như một đàn thiên Nga vàng vây quanh thiên Nga chúa Dhata ratha là chúa của
những thiên Nga vàng. Ngay tức thì dân chúng kéo đến vì nghĩ rằng,
"sắp có một thời thuyết pháp lớn". Khi trông thấy cảnh này, vị
quan đại thần, với lòng tịnh tín trong tâm, làm thoả mãn chúng Tỳ kheo,
có đức Phật dẫn đầu, bằng thức uống và những đồ ăn gồm cả loại
cứng và loại mềm. Khi Ngài đã thọ thực xong thì đức Phật, vì lòng bi
mẫn đối với dân chúng, bèn tập trung vào ý nghĩ "Hãy để những ai
trú ngụ trong vùng gần Ba la nại đến hội họp ở đậy". Và tất cả
các hạng người ấy, do sức mạnh về năng lực thần thông của Ngài đã
kéo đến đó.
Rồi ngài khiến cho số lượng đông
đảo những Ngạ quỉ hiện ra, và dân chúng nhận biết chúng bằng chính mắt
của họ. Một số trong bọn chúng thì mang những tấm vải rách rưới và
bị xé thành những mảnh rất nhỏ; một số thì có cái gọi là xấu hổ,
được che phủ chỉ bằng tóc của chính chúng mà thôi; trong khi một số
khác thì trần truồng như ngày chúng sanh ra, bị đói và khát, với da và
những tấm thân của chúng teo tóp đến nỗi chỉ còn xương, đi vất vưởng
chỗ này chỗ kia. Rồi đức Thế Tôn thị hiện những năng lực thần thông
của Ngài để tất cả Ngạ quỉ hội họp trong cùng một chỗ, và công bố
với dân chúng những ác nghiệp mà chúng tạo nên:
Những vị kiết tập Tam Tạng nói
lên câu kệ này để giải thích vấn đề:
6. "Những Ngạ quỉ, một số mặc
những giẻ rách, số khác che người bằng tóc của chúng, khi đi khắp để
kiếm thực phẩm, ra đi các hướng.
7. Một số chạy đi cách xa nhưng đã
quay lại vì không kiểm được gì, đói, một lả, bước đi lảo đảo và
chìm xuống trong đất.
8. Và một số mà ngã qụy xuống ở
đó, khi chìm xuống trong đất, bị hành hạ tựa như bởi ngọn lửa vì đã
không làm việc phước nào trong quá khứ, chúng nói rằng:
9. "Trong quá khứ, chúng ta là những
người vợ và những người mẹ trong những gia đình tốt, nhưng lại có
tánh ác; dầu những vật thí ở trong tầm tay, nhưng chúng ta đã không làm
chỗ nương tựa cho chính chúng ta.
10. Dầu có nhiều đồ ăn và thức uống,
nhiều đến nỗi nó bị quăng đi, tuy nhiên chúng ta chẳng cho gì đến những
người mà đã chứng đạt Pháp cao tột, đến những bậc đã xuất gia.
11. Chỉ muốn làm điều gì mà không
nên làm, lười biếng, muốn những cái ngọt ngào và tham ăn, chúng ta là
những người cho những miếng, những cục và mắng nhiếc những người thọ
lãnh.
12. Những căn nhà, những người hầu
ấy và những vật trang sức ấy của chúng ta - bây giờ những thứ này
được thọ hưởng bởi những người khác, trong khi số phận của chúng
ta là đau khổ".
13. Họ sẽ là những người làm
thúng mà bị coi khinh và những người làm xe quỉ quyệt, họ sẽ là những
chiên đà la chịu khó khăn lớn, và thỉnh thoảng làm những người hầu tắm.
14. Bất cứ gia đình nào thấp kém
và chịu khó khăn lớn - chỉ riêng trong số những người này họ sẽ sanh
vào, đây là số phận của những người bỏn sẻn.
15. Trong khi những người bố thí,
không bỏn sẻn, trong quá khứ đã làm những việc thiện, sẽ làm sung mãn
thiên giới và làm sáng rực Nandana.
16. Khi họ đã vui chơi trong cung điện
Vejayanta và làm hài lòng tất cả những ước muốn của họ, họ sẽ sanh
lên có địa vị cao trong những gia đình giàu có khi họ mạng chung ở cõi
ấy.
17. Trong căn nhà có tháp nhọn và
trong các cung điện, trên chiếc giường được trải bằng lông cừu dài,
với những chi thể của họ được quạt bởi những người cầm chiếc quạt
bằng lông của con chim công, họ sanh đến một gia đình như vậy, biết rõ
tất cả những tiện nghi của họ.
18. Ðược trang điểm, họ sống trong
vòng tay của nhiều người, mang những tràng hoa; những vú nuôi hầu hạ họ
vào buổi sáng và buổi chiều, cố gắng làm cho họ thư thái.
19. Nandana thanh bình và hấp dẫn này
là khu vườn lớn của cõi Ba mươi ba, chỉ dành riêng cho những người đã
làm những việc phước, không phải dành cho những người mà chưa làm những
việc phước.
20. Ðối với những người mà chưa làm
những việc phước thì không có hạnh phúc trong đời này và đời sau;
trong khi đó, đối với những người mà đã làm những việc phước thí
thì có hạnh phúc ngay tại đây và cả mai sau nữa.
21. Nhiều việc thiện nên làm đối với
những người muốn thân cận với họ, vì những người làm những việc
phước sẽ được của cải và sự vui sướng trong cõi chư thiên.
Chú giải:
6. MẶC VÀO NHỮNG MẢNH VẢI RÁCH
(Saahundavaasino): Mặc vào những miếng giẻ rách và sờn. MỘT SỐ: (Eke =
ekacce) (thể văn phạm hoán chuyển). CHE PHỦ BẰNG TÓC CỦA HỌ
(Kesanivaasino): che lên cái gọilà xấu hổ chỉ bằng tóc của họ. ÐI TÌM
KIẾM VẬT THỰC (Bhattaaya gacchanti): Bất cứ chỗ nào mà chúng đi đến, chúng
đều bỏ đi để tìm kiếm vật thực khi nghĩ rằng, "Có lẽ khi chúng
đã đi khỏi đây thời chúng ta có thể kiếm ở chỗ này hay chỗ kia một
ít vật thực mà đã được quăng đi hay mửa ra, hay những vật bất tịnh
dính theo lúc sanh con v.v.... TẢN ÐI KHẮP CÁC HƯỚNG (pakkamanti diso disa.m):
tản đi từ hướng này đến hướng khác, đến một chỗ tại khoảng giữa
của vô số do tuần.
7. CÁCH XA (Duure): Ðến một chỗ ở
cách xa. MỘT SỐ (Eke): Một số Ngạ quỉ. CHẠY (Padhaavitvaa): Chạy để tìm
kiếm vật thực. NHƯNG LẠI QUAY LẠI VÌ KHÔNG TÌM ÐƯỢC CÁI GÌ (Aladdhaa
ca nivattare): Nhưng quay lại mà không kiếm được hoặc là đồ ăn hay thức
uống. MỆT LẢ (Pamucchitaa): Chúng ở trong tình trạng mệt lả do bởi khổ
đói và khổ khát v.v.... LẢO ÐẢO (Bhantaa): Quay cuồng lảo đảo. CHÌM XUỐNG
ÐẤT (Bhuumiya.m patisumbhitaa): Chúng đứng lên trong trạng thái mệt lả ấy
và té xuống đất bị héo khô như cục đất sét bị quăng bỏ.
8. Ở ÐÓ (Tattha): Chỗ mà chúng đã
đi. CHÌM XUỐNG ÐẤT (Bhaamiya.m pa.tisumbhitaa): chúng té xuống đất tựa
như đang rơi xuống một vực sâu vì không thể đứng được do bởi nổi
khổ đói v.v... Nói cách khác ý nghĩa là chúng thất vọng, do vì chúng
không kiếm được đồ ăn v.v.... Ở đó, tại chỗ mà chúng đã đi đ?n, và
chúng té (pa.tisumbhitaa) xuống đất tựa như có một người đối nghịch nào
đó (patimukha.m) đã đá chúng ngã xuống (Sumbhitaa), đánh ngã chúng, DO ÐÃ
KHÔNG LÀM NHỮNG VIỆC THIỆN NÀO TRONG QUÁ KHỨ(pubbe akatalyaanaa): Do không
làm những việc thiện nào trong kiếp quá khứ. BỊ HÀNH HẠ TỰA NHƯ BỊ
THIÊU ÐỐT BỞI NGỌN LỬA (Aggidaddhaa vaa aatape): Tựa như bị thiêu đốt
ngọn lửa ở một chỗ nào đó, bị hành hạ bởi mặt trời của mùa hạ,
nghĩa là chúng chịu đau khổ lớn vì bị thiêu đốt bởi ngọn lửa đói
và khát.
9. TRONG QUÁ KHỨ (pubbe): trong đời sống
quá khứ. CÓ TÁNH ÁC (paapadhammaa): có tánh ti tiện hèn hạ do ganh tỵ và bần
tiện. NHỮNG VỢ NHÀ (Gharanii): Nữ gia chủ. NHỮNG NGƯỜI MẸ CỦA GIA
ÐÌNH TỐT (Kulamaataro): Những người mẹ của những đứa con trong gia đình
tốt, hay những người mẹ của những người thuộc gia đình tốt. CHỖ NƯƠNG
TỰA (diipa.m): chỗ chống đỡ, nghĩa là những việc phước. Chúng được
gọi là chỗ nâng đỡ vì là chỗ nâng đỡ cho chúng sanh trong những cõi hạnh
phúc. CHÚNG TA ÐÃ KHÔNG LÀM (Naakamha= na karimha)(thể văn phạm hoán chuyển).
10. NHIỀU (Pahuuta.m): nhiều. Ðồ ăn và
thức uống: annapaanam pi = anna~n ca paana~n ca (phối hợp cách), rất nhiều đến
nỗi nó bị quăng đi (api ssu avakiriyati) ssu (không được dịch) chỉ là một
tiểu từ không biến đổi. Rất nhiều đến nỗi nó bị quăng đi (Api
avikariiyati): dư thừa đến nỗi phải quăng đi: nghĩa là nó bị bỏ đi. ÐẾN
NHỮNG NGƯỜI MÀ ÐÃ ÐẠT ÐẾN ÐỈNH CAO NHẤT (Sammaggate): đến những
người mà đã bước lên một cách chân chánh, ÐẾN NHỮNG NGƯỜI MÀ ÐÃ
ÐI XUẤT GIA: Pabbajite = pabba jitaaya . Ðây là vị trí cách trong tặng cách;
Hay nói cách khác, nếu là vị trí cách thực sự thì ý nghĩa sẽ là
"Dầu những người mà đã đạt đến đỉnh cao, những người mà đã
xuất gia, ở trong tầm tay, có sẵn. TUY NHIÊN CHÚNG TA CHẲNG CHO CÁI GÌ (Na
ki~nci adamhase): Bị chế ngự bởi lòng ân hận hối tiếc nên chúng nói rằng
chúng đã không cho cái gì ngay một vật thí nào.
11. MUỐN LÀM ÐIỀU KHÔNG NÊN LÀM
(Akammakaamaa): Muốn làm điều gì không nên làm là muốn làm những điều
ác mà không nên làm bởi những người có giới đ?c, nghĩa là không có sự
cố gắng chân chánh đối với các thiện pháp. THAM ĂN (Mahagghasaa): ăn nhiều.
Cả hai câu nói đều chỉ cho thấy rằng dầu chúng có được vật thực
thù thắng và ngọt ngào, chúng cũng chẳng cho gì đến những người cần
đến và riêng mình chúng thọ hưởng nó. CHÚNG TA LÀ NHỮNG NGƯỜI CHO NHỮNG
MIẾNG VÀ NHỮNG CỤC (aalopapi.n.dadaataaro): chúng ta là những người mà cho
ra những cục cơm không lớn hơn một miếng. NHỮNG NGƯỜI THỌ LÃNH
(patiggahe): Những người thọ lãnh nó. MẮNG NHIẾC (parivaasimhase) Chúng ta
nói để cho thấy lòng sân hận, nghĩa là chúng ta gièm pha và nhạo báng.
12. NHỮNG CĂN NHÀ ẤY (Te gharaa): Nơi
mà trước kia chúng ta làm chủ khi nghĩ rằng, "Căn nhà này là của
chúng ta", những căn nhà ấy tiếp tục đứng y như cũ, nhưng bây giờ
chúng không có lợi ích cho chúng ta chút nào nữa - Ðây là ý nghĩa. VÀ NHỮNG
NGƯỜI HẦU ẤY VÀ NHỮNG VẬT TRANG SỨC ẤY CỦA TA (taa ca daasiyo
taan'evabha ranaani no) điều như thế sẽ được áp dụng ở đây. Ở đây
chúng ta: No = a.mhaaka.m (thể văn phạm hoán chuyển); NHỮNG THỨ NÀY (Te): Những
căn nhà này v.v... BÂY GIỜ ÐƯỢC HƯỞNG BỞI NHỮNG NGƯỜI KHÁC (a~n~ne
paricaarenti) nghĩa là đang được thọ hưởng v.v... TRONG KHI SỐ PHẬN CỦA
CHÚNG TA LÀ ÐAU KHỔ (maya.m dukkhassa - bhaagino): chúng nói bằng tự chê
trách mình, khi nói rằng, "Trước kia chúng ta hoàn toàn quen thói đeo
đuổi theo những trò chơi, vì không biết rằng những của cải ấy phải
bị bỏ lại khi đi tiếp qua một cuộc sống mới và chúng ta sẽ làm điều
mà sẽ đi theo chúng ta ở trong kiếp sau; Và bây giờ số phận của chúng
ta là nỗi khổ v.v... Bây giờ bởi vì chúng sanh, dầu tái sanh trong nhân loại
Sau khi mạng chung ở cõi Ngạ quỉ, theo qui luật thì, thuộc dòng thấp kém
và sống một cuộc đời rất khổ nhọc do bởi dư báo nghiệp cũ ấy. Hai
câu kệ bắt đầu bằng: "chúng sẽ là những người làm thúng giỏ"
được nói như vậy để chứng minh vấn đề ấy.
13. Ở đây, NHỮNG NGƯỜI ÐAN GIỎ
MÀ (Venii vaa): Những người đan giỏ do sự sanh, nghĩa là chúng sẽ làm những
người đan tre, những người làm trúc sậy. Chữ mà (vaa) có ý nghĩa về
liên hệ đại danh từ. BỊ XEM THƯỜNG (Ava~n~naa): Ðáng bị xem thường, ý
nghĩa là đê tiện, một cách đọc là Ðáng khinh (Va.m bhanaa), nghĩa là những
người mà bị ép uổng bởi những người khác. NHỮNG NGƯỜI LÀM XE
(ratthakaarii): Những người làm yên cương và áo giáp. QUỈ QUYỆT
(Dubbhikaa): quỉ quyệt đối với bạn bè của chúng, là những người đi
ép uổng bạn bè của chúng CHIÊN ÐÀ LÀ (Ca.n.daalii): sanh làm những người
Chiên Ðà la: CHỊU VẤT VÃ LỚN (Kapa.naa) nghèo khổ, là những người đạt
đến trạng thái cực kì bi thương. NHỮNG NGƯỜI HẦU TẮM (Nahaamilii):
sanh làm những người thợ cạo; Chúng sẽ làm như vậy nhiều lần lập
đi lập lại trong tất cả các chỗ. Ðây là cách nên được hiểu; nghĩa
là chúng sẽ sanh vào trong những gia đình thấp hèn trong những kiếp liên
tục.
14. CHỈ RIÊNG TRONG NHỮNG NGƯỜI NÀY
CHÚNG SẼ SANH VÀO (Tesu tesveva jaayanti): Bất cứ gia đình nào khác, như là
những người thợ săn và những người hốt rác v.v... Mà chịu sự vất vả
lớn, và bị khinh rẻ thậm tệ, là những số phận thống khổ vô cùng,
chính trong những gia đình thấp hèn này, chúng, là những kẻ mà đã sanh
trong cõi Ngạ quỉ do bởi bợn nhơ của lòng bỏn sẻn, phải sanh vào khi
chung mạng chung ở đó. Vì lý do này mà vị ấy nói rằng, "Ðây là số
phận của những kẻ bỏn sẻn,", số phận của những người mà đã
không làm những việc phước sau khi đã được cho thấy như vậy, bảy câu
kệ bắt đầu bằng, "Trong khi những người bố thí không có lòng bỏn
sẻn, là những người trong quá khứ đã làm những việc thiện". Ðược
nói đến để cho thấy số phận của những người mà đã làm những việc
phước.
15. Ở đây, SẼ LÀM SUNG MÃN THIÊN GIỚI
(Saggan te paripuurenti): những người bố thí ấy là những người mà trong
quá khứ, trong kiếp sống quá khứ của họ, đã làm những việc thiện,
thoả thích trong những việc phước như bố thí v.v... Sẽ làm đầy, sẽ làm
sung mãn thiên giới, cõi Devaloka, có sự thù thắng về sắc đẹp của họ,
và có sự thù thắng về tuỳ tùng của họ. VÀ LÀM SÁNG RỰC Nandana
(Obhaasenti ca Nandana.m) tuy nhiên họ không hoàn toàn làm đầy hết thảy nó
vì có cây như ý v.v... Cũng chiếu sáng bằng hào quang riêng của chúng; nhưng
chúng sáng chói hơn và lấn áp hào quang này bởi sự rực rỡ về y phục
và những vật trang sức của chúng và do bởi hào quang từ chính thân của
chúng, và làm sáng chói khu rừng Nandana .
16. LÀM HÀI LÒNG NHỮNG MONG ƯỚC CỦA
CHÚNG (kaamakaamino): tự chúng thọ hưởng đ?n thoả thích trong các dục lạc
theo sự chọn lựa của riêng chúng. TRONG NHỮNG GIA ÐÌNH CÓ ĐỊAVỊ CAO
(Uccaakukesu): trong những gia đình có địa vị cao như sát đế lỵ v.v... GIÀU
CÓ (Sabhoge su): có của cải lớn. KHI CHÚNG MẠNG CHUNG TỪ ÐÓ (tato cutaa):
Khi chúng mạng chung từ cõi ấy, từ cõi chư thiên ấy.
17. TRONG MỘT NGÔI NHÀ CÓ THÁP NHỌN
VÀ TRONG CUNG ÐIỆN (Kuu.taagaare ca paasaade): cả trong ngôi nhà có tháp nhọn
và trong cung điện nữa. VỚI CÁC CHỖ TRÊN THÂN CỦA CHÚNG ÐƯỢC QUẠT
(Viijita"ngaa): Với những tấm thân của chúng được quạt. BỞI NHỮNG
NGƯỜI CẦM QUẠT BẰNG LÔNG ÐUÔI CỦA CON CHIM CÔNG. (Marohatthehi): Bởi những
người cầm những chiếc quạt được trang sức bằng lông đuôi của con
chim công. KHI BIẾT TẤT CẢ NHỮNG TIỆN NGHI CỦA ÐỜI SỐNG (Yasassino): có
những đoàn tuỳ tùng, chúng vui chơi thoả thích - đây là ý nghĩa.
18. CHÚNG ÐI TỪ VÒNG TAY NÀY ÐẾN
VÒNG TAY KHÁC (A"nkato a"nka.m gacchanti): Ngay trong thời thơ ấu của
chúng được bồng ẫm từ vòng tay này đến vòng tay khác của những quyến
thuộc và những vú nuôi của chúng, không phải bò lết trên mặt đất -
đây là ý nghĩa. HẦU HẠ CHÚNG (upatitthanti); Chăm sóc chúng. CỐ GẮNG
CHÌU THEO NHỮNG TIỆN NGHI CỦA CHÚNG (Sukhesino): muốn cho chúng được thanh
nhàn; họ hầu hạ chúng; che chở cho chúng tránh khỏi những điều bất tiện
nhỏ nhặt nhất, khi tự hỏi, "có phải quá lạnh không? có phải quá
nóng không? - Ðây là ý nghĩa.
19. KHÔNG PHẢI DÀNH CHO NHỮNG NGƯỜI
MÀ CHƯA LÀM NHỮNG VIỆC PHƯỚC (Nay ida.m akatapu~n~naana.m): Không có những
điều gây ra sự sầu muộn, khu rừng Nandana này, thảnh thơi, hấp dẫn và
khả ái, là một công viên lớn của cõi Ba mươi ba, của những vị chư
thiên trong cõi Ba mươi ba, thường xuyên dành cho những người mà đã làm
những việc phước, không phải dành cho những người mà chưa làm những
việc phước, nghĩa là nó không thể có được bởi chúng.
20. Ở ÐÂY (idha): Ðiều này được nói
đến liên quan đến sự kiện rằng, đặc biệt trong cõi người mới có
thể làm những việc phước, hay nói cách khác, ở đây (idha) trong chính đời
sống này, SAU NÀY (Parattha): trong kiếp sống kế tiếp.
21. CỦA CHÚNG (Tesa.m): với những vị
chư thiên đã được nêu ra ở trên. CỦA NHỮNG NGƯỜI THÍCH KẾT HỢP
(Sahayakaamaana.m): Bởi những người muốn sống chung với họ. ÐƯỢC CUNG CẤP
BỞI NHỮNG CỦA CẢI (Bhoga sama"ngimo): có những của cải, nghĩa là
chúng vui thích với năm dục lạc chư thiên của chúng, là của cải của
chúng.
Phần còn lại tự nó đã rõ ràng.
Khi những Ngạ quỉ ấy đã cho biết
chung chung như vậy về số phận của những nghiệp được làm bởi chúng
và số phận của những việc phước, đức Thế Tôn bèn thuyết pháp một
cách chi tiết, thích hợp với những căn tánh của những người đã hội
họp ở đó, dẫn đầu là vị quan đại thần Koliya, có tâm đã được làm
xúc động nhờ thời pháp ấy. Vào lúc kết thúc của thời pháp này, tuệ
quán sanh lên trong Tám mươi bốn ngàn chúng sanh.
-ooOoo-
III.2 QUỈ SỰ VỀ
SAANUVAASI
(SAANUVAASI PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Vị Trưởng lão của thành phố
Ku.n.di ". Pháp thoại này được thuyết giảng khi Bậc Ðạo sư đang ngụ
ở Ve.luvana, liên quan đến những quyến thuộc quá vãng của Trưởng lão
đáng kính Saanuvaasi
Tương truyền rằng đã lâu trong quá
khứ, tại Ba la nại, đứa con trai của vua Kitava đang trở về sau khi vui
chơi ở một chỗ vui chơi nọ trong vườn ngự uyển, khi ấy vị ấy trông
thấy vị Phật Ðộc Giác Sunetta đang rời khỏi thành phố sau khi đã khất
thực trở về. Say sưa với ngã mạn về uy quyền và bị ô nhiễm trong
tâm, vị ấy suy nghĩ, "làm sao mà tên đầu trọc ấy dám đi qua mà
không chào ta!" Hoàng tử xuống khỏi lưng voi và, khi vị ấy nói với
Ngài rằng, "Ta tự hỏi không biết ngươi có kiếm vật thực gì
không?" Vị ấy giựt cái bát khỏi tay của ngài, ném nó xuống đất và
làm vỡ nó. Rồi trêu chọc Ngài khi Ngài đứng như thế nhìn với lòng
thanh tịnh, mắt nhìn xuống, thanh thoát, an nhàn và tràn ngập lòng bi mẫn,
không bị nhiễu loạn vì đã đạt đến pháp chứng như thực trong tất c?
mọi tình huống. Hắn bỏ đi và nói lời hiểm độc do tánh độc ác được
đặt không đúng chỗ của hắn, "cái gì ngươi không biết rằng ta là
con trai của vua Kitava chăng? Ngươi có thể làm gì đến ta mà chỉ đứng
nhìn như thế?" Nhưng ngay khi hắn đang bỏ đi thì một sức nóng mãnh
liệt phát lên trong người của hắn giống như sức nóng của ngọn lửa
địa ngục. Với thân bị hành hạ dữ dội, bị những cảm thọ đau đớn
cùng cực, hắn chết và sanh trong Ðại Ðịa ngục Aviiji . Ở đó, hắn bị
luộc trong tám mươi bốn ngàn năm khi hắn đứng quay quanh trong nhiều cách,
khi thì xoay bên phải, khi thì xoay về bên trái, khi thì ngẩn mặt lên và
cúi mặt xuống. Rồi khi hắn mạng chung ở cõi đó, hắn lại chịu khổ
đói và khát v.v... trong thời gian vô hạn định ở cõi Ngạ quỉ. Khi hắn
mạng chung từ cõi ấy, hắn lại tái sanh trong ngôi làng của những người
chài lưới gần thành phố Ku.n.di trong suốt thời gian của đức Phật này.
Có sanh đến cho hắn khả năng nhớ lại những kiếp quá khứ. Khi nhớ lại
bằng phương tiện này về nỗi thống khổ mà trước kia hắn đã chịu
trong quá khứ thì hắn thường không đi, do sợ những ác nghiệp là bắt
cá chung với những quyến thuộc của hắn, cho dù hắn đã trưởng thành.
Khi họ đang đi thì hắn lại trốn vì không muốn giết cá. Trong khi hắn
đi thì hắn làm hư những cái lưới hoặc nắm lấy những con cá còn sống
và thả chúng xuống nước. Những quyến thuộc của hắn, không tán thành
những hành động của hắn, đã tống cổ hắn ra khỏi nhà của họ. Tuy
nhiên, một người anh của hắn lại đem lòng thương hại hắn. Bấy giờ
vào thời ấy, Ðại Ðức aananda đang ngụ ở trên núi Saanuvaasin gần
thành phố Ku.n.di và đứa con trai của người chài lưới ấy mà đã bị
phủ nhận bởi những quyến thuộc của anh ta, đang đi rảo quanh ở chỗ này
chỗ nọ, rồi đến tại chỗ ấy và đi đến Trưởng lão vào lúc Ngài
đang thọ thực. Khi Trưởng lão hỏi anh ta, thì Ngài nhận ra rằng anh ta cần
vật thực, bèn cho anh ta một bữa ăn và, khi bữa ăn đã xong, Trưởng lão
biết ra toàn thể vấn đề. Khi Trưởng lão biết rằng, chỉ cần một thời
Pháp mà anh ta đã có lòng tịnh tín trong tâm, bèn hỏi rằng, "anh có
muốn xuất gia không, này anh bạn?" Anh ta bèn đáp lại rằng,
"Vâng, thưa Ngài, con muốn xuất gia". Khi Trưởng lão đã cho anh ta
xuất gia thì Ngài đi với anh ta đến trước mặt Bậc Ðạo sư. Rồi Bậc
Ðạo sư nói với Trưởng lão rằng: "Này Ànanda, ngươi có lòng thương
tưởng đối với vị sadi này". Bởi vì vị sadi chưa làm việc thiện
nào nên vị ấy sẽ nhận được ít ỏi vật thực; bởi vậy, Bậc Ðạo
sư, để giúp đỡ anh ta, bèn khuyên anh ta hãy châm đầy những hũ nước
để chư Tăng dùng. Khi trông thấy điều này thì thiện tín bèn cung cấp
thường xuyên cho anh ta nhiều vật thực. Ðến đúng lúc anh ta thọ Ðại
giới và chứng đắc đạo quả A la hán và sau khi trở thành một vị Trưởng
lão, trú ngụ ở trên núi Saanuvaasim cùng với mười hai vị Tỳ kheo. Dầu
có đến năm trăm quyến thuộc của anh ta, do không tích lũy những thiện
nghiệp và chỉ tích lũy những ác nghiệp như lòng bỏn sẻn v.v..., họ đã
chết và tái sanh trong cõi Ngạ quỉ. Tuy nhiên, mẹ và cha của anh ta lại
không chịu đi đến trưởng lão, bởi vì họ lúng túng khi nghĩ rằng,
"Ðây là người mà trước kia chúng ta đã quăng ra khỏi nhà của
chúng ta", bèn sai người anh đi - là người mà đã có lòng thương tưởng
saanuvaasin . Người kia hiện ra cho thấy khi Trưởng lão đi vào làng khất
thực; khi quì bằng đầu gối phải ở trên đất và chấp tay đảnh lễ,
Ngạ quỉ nói những câu kệ bắt đầu bằng, "Bạch Ngài, cha mẹ của
Ngài". Tuy nhiên năm câu kệ bắt đầu bằng "vị Trưởng lão của
thành phố Ku.n.di v.v..." được lồng vào bởi những vị kiết tập Tam
tạng, với mục đích cho thấy văn cảnh của chúng:
1. "Vị Trưởng lão của thành phố
Ku.n.di, là người sống ở trên núi Saanuvasin tên là Po.t.thapaada là một vị
Sa môn, các căn đã được tu tập.
2. Mẹ, cha và anh của vị ấy đã đi
đến kiếp sống đau khổ trong cõi Yama (Diêm vương). Khi đã làm những ác
nghiệp, họ đi từ đây đến cõi Ngạ quỉ.
3. Rơi vào kiếp sống đau khổ, bị
kim chích vào mình, mệt mỏi, trần truồng và gầy ốm, kinh sợ, ở trong
tình trạng khiếp đảm lớn và có bàn tay dính đầy máu, chúng thường không
để lộ chính mình.
4. Người anh của vị ấy, sửng sờ,
trần truồng và một mình ở trong một con hẻm, cong xuống đất ở cả bốn
chỗ, lộ hình ra ở trước mặt của Trưởng lão.
5. Nhưng Trưởng lão không quan tâm và
đi qua trong im lặng; bởi vậy, nó báo cho Trưởng lão biết rằng,
"Tôi là anh của Ngài, đã sanh làm một Ngạ quỉ.
6. Thưa Ngài, mẹ và cha của Ngài đã
đi vào kiếp sống đau khổ của yama . Khi đã làm những ác nghiệp, họ đã
đi khỏi đây và đến cõi của những Ngạ quỉ.
7. Khi đã đi đến kiếp sống đau khổ,
bị kim chích mệt mỏi, trần truồng và gầy ốm, kinh sợ, bị kinh hãi lớn
và có bàn tay dính máu, họ không chịu hiện ra.
8. Ngài có lòng thương xót, hãy thương
xót. Khi Ngài đã bố thí, hãy hồi hướng cho chúng tôi; vì chính do những
vật thí đã được cho ra bởi Ngài mà những bàn dính máu được nuôi sống".
Chú giải:
1. Ở đây VỊ TRƯỞNG LÃO
CỦA THÀNH PHỐ Ku.n.di (Ku.n.dinagariyo thero): Vì Trưởng lão đã sanh ra và lớn
lên trong thành phố có cùng tên âý. Một cách đọc khác là Ku.n.dikanaagaro
thero, nhưng nó có nghĩa tương tự. LÀ NGƯỜI TRÚ NGỤ Ở TRÊN NÚI
SAANUVAASI.N (SAANUVASINIVASINO): là người ngụ ở núi mang tên ấy. TÊN LÀ
PO.T.THAPAADA (PO.T.THAPAADO TI NAMENA): Ðược biết đến bởi cái tên
Po.t.thapaada . MỘT VỊ SA MÔN (Sama.no): đã làm vắng lặng tất cả điều
ác. VỚI CÁC CĂN ÐÃ ÐƯỢC PHÁT TRIỂN (Bhaavitindriyo). với các căn như Tín
căn v.v... đã được tu tập qua sự trao đổi bằng thánh đạo, nghĩa là một
vị A la hán.
2. CỦA VỊ ẤY (Tassa): của Trưởng lão
Saanuvaasi.n ấy. ÐÃ ÐI ÐẾN KIẾP SỐNG ÐAU KHỔ (Duggataa): đã đi đến một
trạng thái đau khổ.
3. BỊ KIM CHÍCH (suucik'a.t.taa): bị
đau đớn, bị hành hạ bởi những tấm thân thối tha, xấu xí. Một cách
đọc khác là đã đi đến cây kim" (Sucigataa): Chúng bị giáng xuống, bị
bức bách bởi cơn đói và cơn khát khiến có cái tên là "Cây kim"
(Suucikaa), mang ý nghĩa rằng chúng bị đâm chích. Một số người khác đọc
là "có cuống họng như cây kim" (suucika.n.thaa), nghĩa là miệng của
chúng mở ra như những cái lỗ xâu kim. MỆT MỎI (Kilantaa): Mệt mỏi về
thân và tâm. TRẦN TRUỒNG (Naggino): không mặc quần áo, hình tướng trần
truồng. GẦY ỐM (Kisaa): với những tấm thân gầy ốm, bởi vì chúng mang
những tấm thân chỉ còn da và xương mà thôi. BỊ KHIẾP ÐẢM (uttasantaa)
do bởi nỗi sợ hãi bị chê trách, khi nghĩ rằng, "Vị Sa môn này là
con trai của chúng ta". TRONG NỖI SỢ HÃI LỚN (Mahaataasaa): chúng đầy sợ
hãi bởi vì những nghiệp được làm bởi chúng trong quá khứ. CHẲNG DÁM
ÐỂ LỘ RA (Na dassenti) chúng không dám để lộ chính mình, không dám đi và
đối diện với vị ấy. CÓ BÀN TAY MÁU (Kuruurino): có hành động tàn bạo.
4. ANH CỦA VỊ ẤY (Tassabhaataa) Anh của
Trưởng lão Saanuvaasi.n . SỮNG SỜ: Vitaritvaa = Viti.n.no (thể văn phạm hoán
chuyển), nghĩa là đầy nỗi sợ hãi và run rẩy vì nỗi sợ bị chê
trách. Một cách đọc hoán chuyển là vội vã (vituritvaa): trong sự vội
vã, nghĩa là đang vội vã. TRÊN MỘT CON HẺM (Ekapathe): Trên một con đường
nhỏ vắng. MỘT MÌNH (Ekako): một mình, không có ai đi chung. CONG XUỐNG Ở
BỐN CHỖ (catuku.n.diko bhaavitvaana): vị ấy di chuyển thân mình quanh quẩn bằng
tứ chi được cong xuống. - tựa và đi ngang ở trên hai bàn tay và hai đầu
gối, nghĩa là khi đã trở thành như thế, nó hành động theo cách này để
cho cái đáng xấu hổ được che phủ từ đằng trước. HIỆN HÌNH CHO TRƯỞNG
LÃO TRÔNG THẤY (Therassa dassayii'tuma.m): làm cho chính hắn có thể trông thấy
được, để cho người hắn được trông thấy, đối với Trưởng lão.
5. CHẲNG QUAN TÂM (Amanasikatvaa): không
chú ý (amanasikaritvaa, thể văn phạm hoán chuyển), không chú ý, xem kẻ kia
như thế nào. Bởi vậy nó (So ca): Bởi vậy con Ngạ quỉ ấy. TÔI LÀ ANH CỦA
NGÀI, ÐÃ SANH LÀM MỘT NGẠ QUỈ (bhaataa petaagato aha.m) Hắn báo tin cho Trưởng
lão biết rằng, "tôi là anh của Ngài, trong kiếp quá khứ. Bây giờ
tôi đến đây là một Ngạ quỉ rồi." Ðây là cách nên được hiểu.
Ba câu kệ bắt đầu bằng "mẹ và cha của Ngài" Ðược nói đến
để cho thấy cách mà hắn báo cho Trưởng lão biết về điều này.
6. Ở đây MẸ VÀ CHA CỦA NGÀI: Maataa
pitaa ca te = tava maataa pitaa ca (thể văn phạm hoán chuyển).
8. XIN HÃY NHỦ LÒNG BI MẪN
(Anukampasssu): Xin hãy giúp đỡ chúng con, xin hãy ân cần đến. HỒI HƯỚNG
PHƯỚC ẤY CHO (anvaadisaahi): Chuyển phước ấy. Ðến chúng tôi: No =
a.mhaaka.m (thể văn phạm hoán chuyển). ÐƯỢC CHO BỞI NGÀI: Tava dinnena=
tayaa dinnena (thể văn phạm hoán chuyển).
Rồi những vị kiết tập Tam Tạng đọc
những câu kệ này để cho thấy cách hành động được thực hiện bởi
Trưởng lão, khi vị ấy nghe qua điều này:
9. "Khi Trưởng lão và mười hai vị
Tỳ kheo đã đi khất thực, họ hội họp ở cùng một chỗ với mục đích
san sẽ bữa ăn.
10. Trưởng lão nói với tất cả họ
rằng, "Hãy cho đến tôi cái đã được thọ lãnh; tôi sẽ đổi nó
thành bữa ăn cho chư Tăng vì lòng bi mẫn đối với quyến thuộc của tôi."
11. Họ trao nó cho Trưởng lão và Trưởng
lão mời chư Tăng. Khi đã cho ra, Trưởng lão bèn hồi hướng phước thí
ấy đến cho mẹ, cha và anh của Ngài khi nói rằng, "xin cho phước thí
nầy dành cho những quyến thuộc của tôi, xin những quyến thuộc của tôi
được hạnh phúc".
12. Ngay khi vị ấy hồi hướng phước
thí này thì vật thực hiện ra, sạch sẽ, hảo hạng, được khéo sửa soạn,
và được thêm gia vị bằng nhiều loại hương vị, nhân đó người anh của
vị ấy hiện ra, đẹp trai, mạnh khoẻ và an vui, khi nói rằng, "vật
thực này có nhiều, thưa ngài, nhưng xem ra chúng tôi vẫn còn trần truồng.
Thưa Ngài, xin hãy tự mình cố gắng bằng cách nào đó để chúng tôi có
thể có được những y phục".
14. Trưởng lão lượm về tất cả những
miếng vải từ những đống rác. Khi vị ấy đã biến những miếng vải
thành một chiếc y, vị ấy cho nó đến chư Tăng từ bốn phương.
15. Khi đã cho rồi, Trưởng lão bèn hồi
hướng nó cho mẹ, cha anh của Trưởng lão, khi nói rằng, "Xin cho phước
thí này thấu đến những quyến thuộc của tôi. Xin cho những quyến thuộc
của tôi được hạnh phúc."
16. Ngay khi vị ấy hồi hướng những
phước thí này thì những y phục hiện ra, nhân đó người anh của vị ấy,
ăn mặc những y phục xinh đẹp, hiện ra trước mặt Trưởng lão. Khi nói
rằng:
17. "Nhiều y phục như ở trong toàn
cõi của Vua Nanda - Còn nhiều hơn thế nữa thưa Ngài, là những y phục và
những đồ trải của chúng tôi.
18. Bằng vải lụa và vải len, vải
lanh và vải chỉ. Chúng có nhiều và đắt giá, chúng còn thòng xuống từ
trên trời.
19. Và chúng tôi chỉ mặc vào cái
chúng tôi ưa thích. Xin hãy tự cố gắng, thưa Ngài, bằng cách nào đó để
chúng tôi có thể có được nhà ở.
20. Khi Trưởng lão đã dựng lên một
thảo am, vị ấy dâng nó đến tứ phương Tăng. Khi đã cho rồi, Trưởng lão
hồi hướng phước ấy cho mẹ, cha và anh của Ngài khi nói rằng: "Xin
cho những phước thí này thấuu đến những quyến thuộc của tôi. Xin cho
những quyến thuộc của tôi được hạnh phúc!"
21. "Ngay khi vị ấy hồi hướng
phước thí này thì những căn nhà hiện ra - những nhà ở có tháp nhọn
được chia ra thành những ngăn đều nhau.
22. Cái giống như những căn nhà của
chúng tôi ở đây thì không được tìm thấy trong nhân loại; những căn nhà
như của chúng tôi ở đây giống như những căn nhà được tìm thấy trong
cõi chư thiên.
23. Chói lọi, chúng chiếu sáng khắp
bốn hướng. Xin hãy tự mình cố gắng, thưa Ngài, bằng cách nào đó để
chúng tôi có thể có được nước".
24. Khi Trưởng lão đã chăm đầy một
lu nước, Ngài cho nó đến Tứ phương Tăng. Khi đã cho rồi, Trưởng lão
bèn hồi hướng nó đến mẹ, cha và anh của Ngài khi nói rằng "Xin cho
phước thí này thấu đến quyến thuộc của tôi! Xin cho những quyến thuộc
của tôi được hạnh phúc!"
25. Ngay khi vị ấy hồi hướng phước
thí này, thì nước hiện ra - những hồ sen khéo hiện bày sâu và có bốn
góc, khéo hiện bày
26. Với nước trong vắc và những bờ
hồ xinh đẹp, mát và thơm ngát, được che phủ bằng hoa sen và hoa súng, nước
có đầy những phấn sen.
27. Khi họ đã tắm và uống nước
trong đó, họ lại hiện ra trước mặt của Trưởng lão, khi nói rằng,
"Nước này có nhiều, thưa Ngài, nhưng những bàn chân của chúng tôi bị
nứt nẻ đau đớn.
28. Khi dạo đi đây đó, chúng tôi đi
khập khiểng trên sỏi và trên cỏ Kusa có gai nhọn. Xin hãy tự mình cố gắng,
thưa Ngài, bằng cách nào đó để chúng tôi có thể có đủ phương tiện
đi lại".
29. Khi Trưởng lão đã có được một
đôi giày, vị ấy bèn dâng nó đến Tứ phương Tăng. Khi đã cho rồi, Trưởng
lão bèn hồi hướng phước thí này đến cha mẹ và anh của vị ấy khi
nói rằng, "Xin cho phước thí này đến những quyến thuộc của tôi!
Xin cho những quyến thuộc của tôi được hạnh phúc!"
30. Ngay khi vị ấy hồi hướng phước
thí này thì những Ngạ quỉ đi đến bằng xe kéo, khi nói rằng, "Thưa
Ngài, Ngài đã thể hiện lòng bi mẫn bằng vật thực và y phục này,
31. Nhà này và vật thí về nước uống
- cả những cái này và vật thí về xe này. Thưa Ngài, chúng tôi đã đến
để đảnh lễ bậc hiền trí có lòng bi mẫn đối với Thế gian".
Chú giải:
9. Ở đây KHI TRƯỞNG LÃO
ÐÃ KHẤT THỰC RỒI (Thero caritvaa pi.n.daaya): Trưởng lão đã đi khất thực.
VÀ MƯỜI HAI VỊ TỲ KHƯU KHÁC (Bhikkhuu A~n~ne, ca dvaadasa): và mười hai vị
Tỳ kheo khác mà đang sống chung với Trưởng lão, hội họp lại trong cùng
một chỗ. Nếu Có người hỏi rằng, "Với mục đích gì?" Với mục
đích ăn chung. (Bhattavissaggakaara.naa): Với mục đích độ thực, để ăn vật
thực.
10. ÐẾN HỌ (te): Ðến những vị Tỳ
kheo ấy. KHI ÐÃ ÐƯỢC THỌ LÃNH (Yathaa laddha.m): bất cứ cái gì thọ
lãnh được. HÃY CHO: dadaadha = dedha (thể văn phạm hoán chuyển).
11. HỌ TRAO ÐẾN (Niiyaatayi.msu): Họ
cho. THỈNH MỜI CHƯ TĂNG (Sa.ngha.m nimantayi): Mời mười hai vị Tỳ kheo để
cho vật thực ấy bằng lối phân biệt nó là dành cho Chư Tăng. HỒI HƯỚNG
(anvaadisi): chỉ định; chỉ đến người mà vị ấy hồi hướng phước thí
ấy trong trường hợp ấy, Ðến me, cha và anh của vị ấy khi nói rằng,
"Xin cho cái này thấu đến những quyến thuộc của tôi! Xin cho những
quyến thuộc của tôi được hạnh phúc" Ðược nói đến.
12. NGAY KHI VỊ ẤY ÐÃ HỒI HƯỚNG CÁI
NÀY: Samanantaraanuddi.t.the= Uddi.t.tha samanantara.m eva (phối hợp cách): VẬT THỰC
HIỆN RA (Bhojana.m uppajjhatha) Vật thực hiện ra dành cho những Ngạ quỉ ấy.
Thuộc loại nào? Chúng nói, "Sạch sẽ" v.v... ÐƯỢC GIA THÊM NHIỀU
HƯƠNG VỊ (Ane Karasaya~njana.m): Ðược sửa soạn bằng những món cà ri có
nhiều loại hương vị; hay nói cách khác, có nhiều hương vị và có nhiều
món cà ri. NHÂN ÐÓ (tato): sau khi thọ lãnh được vật thực. ANH CỦA VỊ
ẤY HIỆN RÕ RA (Uddassayii bhaataa): Ngạ quỉ mà đã từng làm anh của vị
ấy hiện ra trước mặt Trưởng lão. ÐẸP TRAI, MẠNH KHOẺ VÀ AN VUI
(Va.n.navaabalavaa sukhii): Nhờ nhận được vật thực ấy bằng cách ấy,
ngay tức thì nó trở nên có sắc đẹp, có sức mạnh và hạnh phúc.
13. NHIỀU VẬT THỰC, THƯA NGÀI
(Pahuuta.m bhojana.m bhante): Do oai lực về vật thí của Ngài, thưa Ngài, nhiều
vật thực được thọ lãnh bởi chúng tôi. NHƯNG HÃY XEM CHÚNG TÔI VẪN
CÒN TRẦN TRUỒNG (passa naggaamhase ): Tuy nhiên, hãy quan sát rằng chúng tôi vẫn
còn trần truồng. DO ÐÓ THƯA NGÀI, XIN NGÀI HÃY TỰ MÌNH CỐ GẮNG HÀNH ÐỘNG
BẰNG CÁCH NÀO ÐÓ ÐỂ CHÚNG TÔI CÓ THỂ ÐÓ ÐƯỢC NHỮNG Y PHỤC.
(Yaathaa vattha.m labhaamhase): Hãy tự mình cố gắng hành động như thế nào
để chúng tôi có thể có được những y phục, nghĩa là xin hãy nhiệt
tâm theo cách này.
14. TỪ ÐỐNG RÁC (Sa.nkaarakuu.tato): từ
đống rác này và đống rác nọ. LƯỢM (Uccinitvaana): Ði tìm lượm. NHỮNG
MIẾNG GIẺ (Nantake): Những mảnh giẻ bị quăng bỏ mà đã bị rách ở
các viền; Chúng được gọi là những mảnh giẻ bởi vì chúng bao gồm những
miếng nhỏ. Bấy giờ, Trưởng lão làm một chiếc y bằng những thứ này
và cho nó đến chư Tăng. Vì lý do này mà người ta nói rằng, "Khi vị
ấy đã biến những miếng giẻ thành một chiếc y, vị ấy cho đến tứ
phương Tăng". Ở ÐÂY VỊ ẤY CHO NÓ ÐẾN TỨ PHƯƠNG TĂNG (sa"nghe
catuddise adaa); vị ấy cho nó đến hàng chư tăng từ bốn hướng đến.
Ðây là vị trí cách trong ý nghĩa của tặng cách.
17. CHÚNG LÀ NHỮNG Y PHỤC
(Pa.ticchadaa) Bởi vì trong trường hợp này Ngạ quỉ đã mặc vào người
(pa.ticcchaadayati) những y phục ấy.
21. NHỮNG CHỖ NGỤ LÀ NHÀ CÓ NÓC NHỌN
(Ku.taagaarani vesana): Những chỗ ngụ là những căn nhà có tháp nhọn và những
căn nhà mà khác với những căn nhà này được biết đến là những chỗ
ngụ. Ðiều này được nêu ra với sự méo mó về giống tánh. ÐƯỢC CHIA
RA (vibhattaa): chia thành những hình thể có tính chất đều đặn, hình chữ
nhật, dài, đường vòng v.v... THÀNH NHỮNG PHẦN BẰNG NHAU (Bhaagaso mitaa):
Thành những phần đã được đo sẵn.
22. Của chúng tôi: No = A.mhaaka.m (thể
văn phạm hoán chuyển. + Ở ÐÂY (idha): trong cõi của Ngạ quỉ này. TRONG SỐ
NHỮNG VỊ CHƯ THIÊN (apidibbesu): Api (Không được dịch) chỉ là một tiểu
từ không biến đổi. Trong những lãnh thổ của những vị chư Thiên, nghĩa
là trong những cõi chư Thiên.
24. CÁI LU NƯỚC (Karaka.m) Một cái lu
bình thường. ÐỔ ÐẦY (puuretvaa): Ðổ đầy nước.
26. NƯỚC ÐẦY NHỮNG PHẤN SEN
(Vaariki~njakkhapuuritaa) Ðầy trên mặt nước ấy được phủ đầy khắp bằng
những sợi tơ nhụy của những hoa sen và những bông hoa súng v.v....
27. Bị Nứt Nẻ (phalanti): chúng loét
ra, nghĩa là những mé của những gót chân của chúng bị nứt ra.
28. ÐI LANG THANG ÐÂY ÐÓ
(aahi.n.damaanaa): đi lang thang đây đó. CHÚNG TÔI ÐI KHẬP KHIỂNG
(Kha~njaama): chúng tôi đi trong dáng điệu cà nhót ở chỗ này chỗ kia.
TRÊN SỎI VÀ TRÊN CỎ KUSA CÓ GAI NHỌN (Sakkhare kusalanthake): trên những mảnh
đất đầy những viên sỏi và cỏ Kusa có gai nhọn, nghĩa là giẫm lên sỏi
và cỏ kusa có gai nhọn. MỘT CHIẾC XE (yaana.m): bất cứ loại phương tiện
chuyên chở nào như xe kéo hay kiệu võng v.v...
29. Một chiếc giày (Sipaa.tika.m): Một
chiếc giày một đế.
30. ÐI ÐẾN BẰNG XE KÉO (Rathena - m -
aagamu"m = Rathena aagacchi.msu (thể văn phạm hoán chuyển); Những chữ đọc
nối tiếp cho xuôi tai bởi chữ ma.
31. CẢ HAI (ubhaya.m): Bởi cả hai vật
thí - Bởi vật thí bằng bốn món vật dụng gồm vật thực v.v... Và bởi
cùng vật thí này gồm xe thuyền. Vật thí gồm những loại thuốc chữa bệnh
cũng bao gồm trong vật thí về nước ở đây. Phần còn lại hoàn toàn tự
rõ ràng rồi vì nó đã được nêu ra ở trên rồi.
Trưởng lão nêu lên vấn đề ấy với
đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy vấn đề làm nguyên nhân cần thiết đã
sanh lên khi nói rằng, "cũng giống như những Ngạ quỉ ở đây, cũng vậy
trong kiếp sống ngay trước của ngươi, ngươi cũng đã làm một Ngạ quỉ
chịu nhiều thống khổ", và khi được thỉnh cầu bởi Trưởng lão,
Ngài bèn kể lại quỉ sự sợi chỉ và thuyết giảng chánh pháp cho hội
chúng đã hội họp ở đó. Khi đã nghe qua thời pháp này, dân chúng, đầy
xúc động, trở nên có những xu hướng về những việc phước như bố thí
v.v...
-ooOoo-