- Mười tôn phái Phật
Giáo ở Trung Hoa
- HT. Thích
Thiện Hoa
10.- THÀNH-THẬT TÔN
I.- DUYÊN
KHỞI LẬP TÔN
T
ôn này thuộc về Tiểu Thừa,
y cứ vào ý nghĩa của bộ thành thật luận, do đó gọi là Thành thật
tôn.
Bộ Thành thật luận do ngài
Ha-lê-bạt-ma ( Harivarman, Tàu dịch là Cưu-ma-la-đà (Kumaraladha) thuộc phái
Tiểu Thừa Tát-bà-đa làm ra, vào khoảng 900 năm, sau khi đức Phật Thích
Ca nhập niết bàn. Như chúng ta đã biết qua trong phần lịch sử truyền
giáo ở Aᮠđộ, sau khi đức Phật nhập niết bàn, phái Tiểu Thừa chia ra
thàngh nhiều nhóm, giải thích kinh điển của Phật không giống nhau. Nhận
thấy nguy cơ có thể làm cho Phật giáo suy đồi vì sự không đồng quan
điểm`về giáo lý của các tôn phái ấy, ngài Ha-lê-bạt-ma đã đem hết tâm
lực và trí tuệuyên bác của mình, rút ra lý tinh tủytong các bộ kinh luậncủa
Tiểu Thừa, làm ra bộ thành thật luận. Sở dĩ ngài dùng hai chữ
"Thành thật"để đặt tên cho bộ luậncủa mình là hàn ý muốn
nói rằng: những lý nghĩa trong bộ luận của minhlaf chân thật, đúng đắn
hoàn toàn với giáo lý căn bản trong ba tạng kinh điển của Phật . mà thật
như thế, bộ Thành thật luận là bộ luận có thể tiêu biểu một cách
trung thựcgiáo lý của Tiểu Thừa.
Và củng vì giá trị chân chính ầy màbộ Thành
thật luận được truyền sang Trung Hoa và được Ngài Cưu-ma-laThập trong
đời giao tần dịch ra văn Tàu, gồm có tất cả 16 cuốn, chia ra làm 202 phẩm.
Nhưng mặc dù được người đời hâm mộ, bộ luận này phải đợi đến
đời Nam Bắc triều mới thành lập một tôn riêng tức là" Thành thật
tôn".
II.-TÔN CHỈ
VÀ GIÁP LÝ CĂN BẢN
Tôn này chủ trương "nhân
không , Pháp không ".
Như chúng ta đã biết, theo
Câu-xá-tôn thì nhơn không nhưng pháp lại có. Thành thật tôn, đi xa hơn,
cho rằng nhơn không thật, mà pháp củng không thật.
Để giải thích chủ trương
"hai không" này, Thành thật lập ra hai môn là: Thế giwói môn và Đệ
nhất nghĩa môn.
1.- Thế giới môn: Môn nghĩa
đen là cửa; Thế giới môn tức là cửa của Thế giới; nói một cách
thông thường như ngày nay thường nói, "thế giới môn" tức là đứng
về "phương diện thế tục, phương diện tương đối" mà quan sát
suy luận.
Xát về phương diện tương đối,
thì nhơn cũng có mà pháp cũng có. Thật vây, theo sự nhận xét thông thường,
thì ta có một cái thân; ta đi, đứng, nằm, ngồi; ta có một cái tâm để
suy xét, phân biệt, nhớ chuyện quá khứ, tính chuyện tương lai? Thế mà bảo
mà không có ngã thì thật là vô lý. Lại trong kinh cũng thường nói: ta thường
tự ngăn ngừa và tụ giữ lấy ta, làm lành tự mình được hưởng điều
lành, làm dữ, tự mình chịu hưởng quả dữ. Vậy nếu bảo rằng không
có người, không có ta, thì thật là trái với nhận xét và lý luận thông
thường.
Xét về các pháp cũng vậy, bảo rằng
không thì cũng là vô lý. Nếu không có sắc pháp thì làm sao có thân ta,
có cảnh giới chung quanh ta? Ừ, thì thân ta, do ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng,
hành, thức, giả hợp mà thành. Những thứ này cũng là pháp cả. Thí dụ
nếu ta chia chẻ cái sắc pháp ra thành nhỏ mãi, thì cuối cùng, dù nhỏ đến
không thể chia chẻ được nữa, cũng vẫn là sắc, chứ sắc không thể
chia ra mà thành "không" được . Ngược lại, nếu đã là không ,
thì không thể đem cái "không" ấy nhân lên mãi mà thành
"có" được. Cũng như trong toán học, dù có nhân bao nhiêu lần với
con số không ( dero), thì không cũng vẫn là không .
2.- Đệ nhất nghĩa môn: Đệ
nhất nghĩa môn, hay chơn đế, là nói về phương diện tuyệt đối. Đứng
về phương diện này mà xét, thì Ngã và Pháp điều là giả có, chứ
không thật có. Khi năm uẩn hòa hợp thì tạm gọi là ta; khi năm uẩn tan
ra thì cái ấyy không còn nữa. Vã lại cái ta ấy, trong lúc còn sanh tiền,
thì mõi phút, mỗi giây cũng đều có thay đổi, biến chuyển chứ không
thuần nhất là bất biến.
Các pháp cũng vậy, tương đối mà
nói thì có, nhưng tuyệt đối mà xét thì cũng không thật có. Các pháp cũng
do nhân duyên hòa hiệp mà tạm gọi là có, chứ không thể có một cách
tuyệt đối, nghĩa là không thuần nhất và bất biến. Vì thế cho nên Phật
dạy: "các pháp đều là như huyễn như hóa". Kinh Bát nhã cũng nói:
"sắc chẵng khác gì không , không chẵng khác gì săc, sắc tức không ,
không tức sắc"...Tóm lại, đứng về đệ nhất nghĩa môn mà xét,
các pháp rốt ráo là chơn-không . Chơn-không là thế nào? Chơn-không có nghĩa
là: chơn pháp của các pháp trong vũ trụ vốn là chơn thật, nhưng không phải
là có các hình tướng như các hình tướng giả dối mà người đời thường
thấy ở chung quanh. Cái "có" và cái "không " ở trong đời,
đối với chân đế, hay đệ nhất nghĩa đế, đều giả dối, không thật.
Nên biết cái "không " hiểu
theo nghĩa chơn đế, khác với "không" hiểu theo nghĩa tục đế. Cái
"không" của Chơn đế thì gọi là Chơn không; còn cái không của Tục
đế là cái "không" đối đãi với cái "có" mà thành, đó
là không giới. Chơn không thường vắng lặng tịch diệt ra ngoài cái đối
đãi của "có"và "không" phàm tục. Còn không giới chẳng
qua là cái sắc đối với nhãn căn đó thôi. Chơn không không phải là sắc;
không giới mới là sắc. Chơn không, không thấy được. Choan không không
đối tượng; không giới thuộc về đối tượng. Chơn không là vô lậu.
Không giới là hữu lậu. Chơn không là vô vi, Không giới là hữu vi.
3.- Tương quan giữa Thế giới môn(Tục
đế) và Đệ nhất nghĩa môn(Chơn đế): Theo để nhất nghĩa môn
thì chơn lý của vũ trụ vốn Chơn không tịch diệt,vắng lặng; theo thế
giới môn thì có ta và người, có sắc và không, nghĩa là có ngã và pháp.
Vậy thì giữa Thế giới môn và Đệ nhất môn có tương quan gì với nhau
không? Làm sao mà Chơn không tịch tịnh lại pháp sanh ra ngã và pháp, nghĩa
là từ chổ Chơn không lại phát sanh ra chúng sanh và sơn hà đại địa?
Thành thật tôn cắt nghĩa: đó là
vô minh. Các pháp trong vũ trụ, thể tánh vốn vắng lặng, tịch diệt, nhưng
vì do tâm vọng tưởng phân biệt mà có rối loạn, lăng xăng. Nói một
cách rõ ràng hơn, bản tánh của vũ trụ vốn là không có ngã, không có
pháp nhưng vì "hai món chướng"mà thấy có ngã và pháp. Hai món chướng
ầy là:
a) Phiền não chướng, tức là các nghiệp
chướng về Kiế鮍 hoặc Tư hoặc. Chướng này
vì chấp cái ta mà thiệt có, nên mới sanh các phiền não, rối loạn thâm
tâm,chướng ngại đạo Niết bàn tịch tịnh. Chướng này, trong Câu xá luận,
thì gọi là "tánh nhiễm ô vô tri".
b) Sở tri chướng: cũng gọi
là trí chướng. Căn bản của chướng này, là chấp các pháp thật có,
làm che lấp cái tánh vô điên đảo đối với các cảnh mình hay biết,
làm chướng ngại đạo Bồ đề. Chướng này trong câu xá luận gọi là
"bất nhiễm ô vô tri" ( không nhiễm ô nhưng vẫn thuộc về si mê
không biết, vì làm cho mình không chứng rõ được chơn lý).
4.- 84 pháp: Như chúng ta đã
thấy trong Câu xá tôn, những hiện tượng của nhơn sanh và vũ trụ, được
phân thành 75 pháp. Theo Thành thật tôn, thì nhân sanh, vũ trụ lại được
chia thành 84 pháp. Còn Pháp tướng tôn lại chia thành 100 pháp. Như thế, chúng
ta nên hiểu rằng sự phân chia ra ít hay nhiều pháp chỉ là một vấn đề
tương đối, chứ không có nghĩa nhất định. Sự phân loại các pháp này,
chỉ có một mục đích là để nghiên cứu cho rõ ràng nhân sanh, vũ trụ mà
thôi. 84 pháp mà Thành tật tôn đã phân loại là:
14 Sắc pháp: 5 Căn, 5 Trần, 4 Đại.
50 Tâm pháp: 1 Tâm vương, 49 Tâm sở
(so với Câu xá tôn, thì coa ba Tâm sở là Hân ( tánh hớn hở), Yểm (tánh
nhàm chán) và Thùy miên và Câu xá tôn ghép thành một Tâm sở, con Thành thật
tôn thì chia làm hai là Thùy và Niêm).
17 Phi sắc phi- tâm pháp (tức là Bất
tương ưng hành pháp). Về loại này, Thành thật tôn hơn bên Câu xá tôn ba
pháp: Thành thật tôn hợp ""Mạng căn " và "Đồng phận"
lại là một, nhưng lại thêm: Lão, Tử, Phàm phu và Vô tác (tức là Vô biểu
sắc bên Câu xá tôn).
3 Vô-vi pháp( như bên Câu xá tôn)
Trạch diệt vô-vi, Phi trạch diệt vô-vi và Hư không vô-vi.
III.- PHƯƠNG
PHÁP TU HÀNH
Phương pháp tu hành của Thành thật
tôn cũng gần giống như của Câu xá tôn; nhưng vì Câu xá tôn chủ trương
"nhơn không pháp hữu"; còn Thành thật tôn thì chủ trương
"nhơn không pháp không ", nen về phưpưng pháp tu hành của Thành thật
tôn,đặc biệt có hai pháp quán là: Ngã không quán và Pháp không quán.
1.- Ngã không quán và Pháp không
quán
a) Ngã không quán: như quán trong
cái bình không có nước, thì gọi là Không. Quán thân ta do năm uẩn hòa hợp
giả tạm mà có, chứ không có một cái ta chân thật. Pháp quán này mục
đích là nhận rõ lý ngã (nhơn) không, nên gọi là " Ngã không
quán".
b) Pháp không quán: như sau khi
quán cái bình không có nước, lại quán thêm một tầng nữa để thấy rằng,
thể chất của bình cũng không chân thật. A鰠dụng pháp quán này trong thân người, hành giả đi đến
kết luận rằng: không những cái ta là không thật, do ngũ uẩn tạo thành;
mà chính các pháp tạo ra ngũ uẩn cũng không chơn thật. AṠlà pháp quán về
pháp không.
2.- Ba tâm và diệt đế
Phương pháp này cũng gần giống
như hai pháp quán trên, nhưng đi xa hơn một tầng, nghĩa là không chấp có,
nhưng cũng không chấp không. Ba tâm là:
a) Giả danh tâm, tức là cái
tâm chấp những giả danh, như chấp người ta là có thật. Đối với sự
chấp trước này, hành giả dùng trí huệ mà quan sát, biết nó đều là nhơn
duyên hòa hợp mà sanh, tức chứng được lý nhơn không.
b) Pháp tâm, là cái tâm chấp
pháp thể năm uẩn là thực có. Đối với sự chấp trước này, hành giả
dùng trí Chơn không mà trừ bỏ, thấy được pháp không.
c) Không tâm là cái tâm chấp
cái "không " là thật có, nghĩa là đã quán biết được nhơn ngã,
Pháp ngã đều không, mà lại chấp cái "không " là thật. Như thế,
chấp "có" đã là sai, mà chấp "không" lại càng sai hơn. Vậy
phải quán Ngã, Pháp đều không, mà cái không ấy cũng không có tướng nắm
bắt, nhận thấy được, như không giới. Rốt lại chỉ còn cái"Chơn
không " là chơn lý tuyệt đối, ngoài ra "có" và
"không" của phàm tục. Đến đây tức là Diệt đế.
IV.- QUẢ
VỊ TU CHỨNG
Về quả vị tu chứng, tôn này cũng
giống như Câu xá tôn, có 27 từng bực, tức là 27 vị Hiền Thánh.
a) Dự lưu hướng: Dự lưu
hướng, nghĩa hướng tới dòng thánh; nói một cách nôm na, hành giả đang
đi dần đến để nhập vào dòng thánh, như chiếc thuyền dang đi trên
dòng sông con, để vào con sông cái. Dự lưu hướng gồm có 3 bực sau đây:
1.- Tùy tín hành: Tùy tính nghĩa
là nghe theo lời dạy của các bậc đã chứng quả, rồi tin và tu tập
theo.
2.- Tùy pháp hành: Vị này
không còn đợi có những lời dạy bảo của các bực thánh hiền, nhưng chỉ
thuận theo chánh pháp mà tự tu hành.
3.- Vô tướng hành: Là bậc
kiến đạo, thấy được chơn lý của lý diệu đế, trí vô lậu đã phát
sanh.
b) Dự lưu quả: Tức là quả
tu đà hoàn. Bực này đã dứt hết những kiến hoặc trong ba cõi, dự vào
dòng thánh đạo.
c.) Nhứt lai hướng: Bực này
đã dứt được năm phẩm tư hoặc ở cõi Dục giới, đang hướng đến quả
Nhứt lai.
d.) Nhứt lai quả: Bực này đã
dứt được phẩm tư hoặc thứ sáu ở cõi Dục giới, nhưng còn phải trở
lại một cõi lần cuối cùng (nhứt lai) ở cõi Dục giới.
đ) Bất hoàn hướng: Bực này
đã dứt được hai phẩm tư hoặc thứ bảy và thứ tám ở cõi Dục giới,
và đang tu hành để hướng đến quả Bất hoàng, là quả thoát ra vòng Dục
giới và không còn trở về Dục giới nữa.
e) Bất hoàn quả: Bực này đã
hoàn toàn dứt được 9 phẩm tư ở cõi Dục giới, cho nên không trở về
cõi Dục giới nữa. Quả này gồm có 11 bực như sau:
1.- Trung ban: Bực này, sau khi
ở cõi Dục giới vừa cheết, sắp sanh lên cõi Sắc giới, cái thân trung
ấm tuy còn ở vào khoảng trung gian mà đã dứt trừ các mê lầm phiền
não của cõi Sắc giới, nên vào ngay Niết bàn.
2.- Sanh ban: Bực này sau khi
lên cõi Sắc giới, chẳng bao lâu thì vào Niết bàn; ấy là do sự siêng năng
về đường tu đạo mà mau tới vậy.
3.- Hứu hành ban: Bực này sau
khi sanh về cõi Sắc giới, tu hành tinh tánh mãi không nghỉ, mà vào được
Niết bàn.
4.- Vô hành ban: Bực này trái
lại, sau khi sanh vào cõi Sắc giới, vì trễ nãi đường tu hành, nên thành
quả dù chậm đến, nhưng cuối cùng cũng vào Niết bàn.
5.- Lạc huệ ban: Bực này sau
khi sanh vào cõi Sắc giới, lại lần được sanh vào Sắc cứu kính là cõi
cao nhất ở cõi Sắc giới mới vào Niết bàn. Cõi trời Sắc giới có định,
có huệ, bực này làm huệ làm vui nên gọi là "Lạc huệ".
6.- Lạc định bàn: Bực này
không chịu vào Niết bàn nơi cõi Sắc giới, mà còn muốn chuyển sanh lên
cõi Hữu đảnh là cõi cao của Vô sắc giới, mà vào Niết bàn. Trong cõi
Vô sắc giới này, chỉ có định mà không có huệ, hành giả lấy định làm
vui, cho nên gọi là Lạc định.
7.- Chuyển thể: Bực này sau
khi ở cõi Dục giới, chứng được quả Dự lựu và Nhất lai, đáng lẽ
sanh về cõi Sắc giới hay Vô sắc giới, nhưng hành giả lại chuyển sanh
vào cõi Dục giới mà tu hành, chứng được quả Bất hoàn rồi vào thẳng
ngay Niết bàn.
8.- Hiện ban: Bực này không
sanh vào cõi Sắc giới, Vô sắc giới, cũng không cần chuyển sanh, chỉ tu
tập trong một thời kỳ, chứng luôn ba quả, rồi đi thẳng từ cõi Dục
giới vào Niết bàn.
9.- Tín giới: Bực này, vì căn
cơ hơi chậm lụt, nên chỉ tin theo lời dạy bảo của kẻ khác mà tu
hành, chứng được quả Bất hoàn.
10.- Kiến đắc: Bực này,
trái lại với bực Tín giới ở trên, chứng được quả Bất hoàn là nhờ
có căn cơ lanh lợi, tự nương theo trí huệ của mình mà thôi.
11.- Thân chứng: Bực này là
bực lợi căn tột độ, chứng được Diệt tận định.
Mười một bực Bất hoàn quả kể
trên này, không phải có thứ bậc tuần tự mà hành giả phải vượt qua.
Đây chỉ là 11 trường hợp khác nhau trong quả Bất hoàn, do căn cơ lanh lẹ,
hay chậm lụt, do sở nguyện hay hoàn cảnh, tâm tính khác nhau mà ra. Nhưng
dù sao, thì cũng là ở trong quả Bất hoàn cả, không có cao và thấp hơn và
kém, và đều gọi là A la hán hướng, nghĩa là đang hướng đến quả
A la hán.
Nếu kể từ bậc đầu tiên là:
Dự lưu hướng cho đến bậc Bất hoàn quả, gồm cả thảy 18 bậc, thì gọi
là bậc Hữu học.
Còn chín bậc cuối cùng sau đây
là chín bậc A la hán quả, cũng gọi là bậc Vo học.
g) A la hán quả: Quả vị này
gồm có 9 bậc, cũng gọi là Vô học, nghĩa là không cần phải học hỏi
gì nữa.
1.- Thối pháp tướng: Thối
nghĩa là thối lui. Thối lui ở đây không có nghĩa là thối lui về sanh tử,
làm chúng sanh, mà thối lui về cảnh thiền định đã đặng, như các bậc
độn căn La hán.
2.- Thủ hộ tướng: Thủ hộ
là gìn giữ bảo hộ. Thủ hộ tướng tức là bậc La hán gìn giữ bảo hộ
cảnh thiền định đã được, không mất.
3.- Tử tướng: Là bực La
hán rất nhàm chán thế gian, lại sợ thối mất chỗ chứng ngộ của
mình, nên muốn vào liền cõi Niết bàn.
4.- Trú tướng: Là bực La
hán, căn cơ không thể tu tới mà cũng không đến nỗi thối lui, chỉ giữ
về bực trung mà thôi.
5.- Khả tấ鮠tướng: Khả tấn là có thể tiến thêm nữa. Đây
là bực La hán đã chứng được bực thiền định, mà còn tu tới mãi.
6.- Hoại tướng: Đây là bực
La hán,căn cơ chậm lụt, nhưng vẫn giữ được không thối lui, mặc dù gặp
phải duyên trở ngại.
7.- Huệ giải thoát: Bực La
hán này đã chứng được Diệt tận định, được chơn trí vô lậu, đã
giải thoát các phiền não, nhưng chưa ly được sự chướng ngại về cảnh
thiền định.
8.- Cầu giải thoát: Đây là
bực La hán đã giải thoát được cả huệ chướng và định chướng;
nghĩa là không còn bị trí huệ hay thiền định làm chướng ngại nữa.
9.- Bất thối tướng: đây
là bực La hán có căn cơ lanh lợi, bao nhiêu công đức trí huệ đã tu tập
đều không thối lui hay là tiêu mất được .
Tóm lại, mặc dù quả vị tu chứng
của yôn này có chia ra đến 27 bậc, nhưng đó là muốn chia chẻ một cách
rốt ráo của từng trường hợp, chứ đại khái cũng giống như quả vị
tu chứng trong Câu xá tôn. Thật vậy, nếu chúng ta đem so sánh quả vị của
hai tôn Câu xá và Thành thật, thì sẽ thấy như sau:
CÂU XÁ TÔN: THÀNH THẬT TÔN:
1.- Tu-đà-hoàn 1.- Dự-lưu-hướng
(hay Nhập-lưu) và Dự-lưu-quả.
2.- Tu-đà-hàm 2.- Nhứt-lai-hướng và
(hay Nhứt-lai). Nhứt-lai-quả
3.- A-na-hàm 3.- Bất-hoàn-hướng
(hay Bất-lai). Và Bất-hoàn-quả
4.- A-la-hán 4.- A-la-hán (Vô-sanh,
(hay Vô-sanh Vô-học) Vô-học).
V.- KẾT-LUẬN
Thành-thật tôn, cũng như Câu xá
tôn, đều thuộc các tôn phái của Tiểu-thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản
của hai tôn cũng gần giống nhau, chỉ có khác ở điểm: Câu xá tôn thì
chủ trương "nhơn không pháp hữu" , còn Thành-thật tôn thì chủ
trương "nhơn không pháp không ". Như thế, Thành thật tôn đã bước
thêm một bước lại gần Đại -thừa Phật giáo hơn. Đó là một điểm
chứng-minh rằng theo với thời gian, Tiểu-thừa và Đại -thừa càng xích lại
gần nhau hơn. Với cái đà ấy, chúng ta hy vọng rồi đây, giữa giên giới
hai phái lớn của Phật giáo sẽ được xóa hết, chỉ còn lại một danh từ,
một cái đạo chung cho cả thế giới là Đạo Phật.
Hoài bảo ấy, hiện tổng hội Phật
giáothê giới đang cố gắng thực hiệnqua nhiều quyết nghị trong các đại
hội Phật giáothê giới. Và ở Việt namhoài bảo ấy được thể hiện
trong những ngày đầu năm 1964, dưới danh hiệu Giáo hội Phật giáo Việt
nam Thống nhất. Trong giáo hội này, các giáo phái Đại Thừađều thề
nguyện chung sức chung lòng để phát huy nền Phật giáo Việt nam mỗi ngày
thêm rạng rỡ.
TỔNG KẾT
VỀ MƯỜI TÔN
Chúng ta đã có một cái nhìn tổng
quàtvê mười tôn. Chúng ta đã hiểu sơ quạư thành lập tôn chỉ và giáo
lý căn bản, sự tu hành váự chứng quả của mười tôn. Vì đay là những
bài học phổ thông, nên chúng ta không thẻ đi sâu vào chi tiết,và phạm
vi cũng như thời không cho phép chúng tôi nói nhiều hơn nữa. Nếu quý vị
đọc giả nào muốn hiểu rõ ràng hơn, hãy tìm các kinh sách nói về mười
tôn ấy.
Mặc dù vắn tắt, qua những bài học
này, chúng ta có thể nắm được những điểm chính căn bản của mỗi tôn.
Mỗi tôn, tuy có một tôn chỉ một
chủ trương riêng, nhưng tôn nào cũng thờ đức Phật Thích ca làm giáo chủ,
và dựa trên các kinh điển của ngài đã nói mà lập tôn.
Sự sai khác chẵng qua là cách giải
thích vũ trụ hữu hạn và phương pháp tu hành. Chứ còn những điểm chính
căn bản, thì mọi tôn phái công nhận giống nhau,là: có một chân như
trong suốt , linh diệu bên trong vũ rụ vjn hữu, làm nền móng cho mọi hiện
tượng ở thế gian này. Chúng sanh không công nhận được cái chân như ấy,
vì chúng sanh bị vô minh che ám; nhưng với phương pháp tu hành mà đức Phật
Thích ca đã dạy bảo, chúng ta sẽ giác ngộ và thể nhập với các chân
như ấy.
Nếu sự giải thích vũ trụ vạn hữu
có nhiều cách, và phương pháp tu hành có nhiều lối là vì xu hướng và
trìnhđộ và căn cơ của chúng sanh không đều; cũng như phương pháp chữa
bệnh, phải tùy bệnh nặng nhẹ, phải tùy người mà cho thuốc . làm sao
cho bệnh nhân lành bệnh là lương y giỏi.
Chúng ta rất không may, ở vào thời
kỳ mạt pháp , không có lương y giỏi. Nhưng sự giải thích căn bệnh và
phương pháp chữa bệnh của các bậc đại lương y là giáo lý của các
tôn phái, đang còn đó. Chúng ta hãy tụ nghiên cứu lấy căn bệnh của chúng-ta,
và hãy lựa phương thuốc nào thích hợp với bệnh của chúng ta mà uống
thì chắc chắn chúng ta sẽ lành bệnh.