- Mười tôn phái Phật
Giáo ở Trung Hoa
- HT. Thích
Thiện Hoa
6.
PHÁP HOA TÔN ( THIÊN THAI TÔN)
I.-DUYÊN KHỞI LẬP
TÔN
Thiên thai tôn được khởi xướng
từ Bắc tế. Do Ngài Huệ văn Thiền sư dựa vào bộ tríd độ luận mà lập
ra pháp ‘’Mhứt tâm quan quán’’. Pháp quán này được truyền cho Ngài
Nam Nhạc Huệ Tự Thiền sư. Ngài Huệ Tự lại truyền cho Ngài Trí Giả
ở núi Thiên Thai. Ngài Trí Giả là một bậc đại sư , y theo kinh pháp hoa,
bổ yúc thêm cho pháp ‘’Mhứt tâm quan quán’’ được hoàn bị và lâop
thành một tôn pháp có uy thế ở núi Thiên Thai. Dooó mới có tên là Thiên
Thai tôn (hoặc gọi Pháp hoa tôn). vị đại đệ tử của Ngài Trí Giả là
Ngài Chương An Đại sư ghi chép lại những lời của Thầy, làm ra nhiều bộ
luận có giá trị, để làm cơ sở cho Thiên Thai tôn, như bộ Pháp hao huyền
nghĩa, Pháp hoa văn cú, Ma ha chỉ quán. từ Ngài Chương An, giáo nghĩa củ tôn
này được hoằng truyền mãi cho các vị Đại đệ tử, thứ tự như sau:
Ngài Trí Oai, Ngài Huệ Oai, Ngài Huyền Minh Và Ngài Trạm Nhiên.
Đến đời Ngài Trạm Nhiên, cũng gọi
là kinh Khê tôn giả, giáo-lý và tôn chỉ của Thiên Thai tôn lại được rộng
truyền và thêm nhiều thanh thế, vì Ngài Trạm Nhiên là một vị cao tăng,
học rộng, biết nhiều, bổ túc thêm các bộ luận căn bản của tôn được
hoàn bị, tù Ngài Trạm Nhiên về sau, đời nào cũng có những vị đệ tử
có tài đứ rộng truyền giáo nghĩa của tôn này.
Kinh sách của Thiên Thai tôn rất
nhiều, trong số này có thể lựa ra ba bộ sách lớn làm căn bản cho tôn
này là: Pháp hoa huyền nghĩa, Pháp hoa văn cú, Ma hoa chỉ quán. ngoài ra có
thể thêm năm bộ nhỏ, tuy không quan trọng bằng ba bộ trên, nhưng củng rất
cần thiết cho người tu học là: Quán âm huyền nghĩa, Quán âm nghĩa sớ,
Kim quang kim huyền nghĩa, Kim cang minh văn cú và Quán kinh sớ.
II.- TÔN CHỈ VÀ
GIÁO LÝ CĂN BẢN
Cũng như các tôn phái khác trong Phật
Giáo, Thiên thai tôn không đi ra ngoài giáo-lý căn bản của đức Phật. Đó
là: ‘’Chư pháp duy nhứt tâm’’. Cái công lớn nhất của Thiên thai
tôn là làm sáng tỏ giáo-lý trên bằng một phương-pháp diễn dịch rất
là minh bạch tinh vi.
Sao gọi là ‘’Chư pháp duy nhứt
tâm’’?. Theo Thiên thai tôn thì ngoại tâm không có các pháp , ngoài các
pháp không có tâm. Tâm tức là nhất thiết pháp, nhất thiết pháp ấy là
tâm. Hai cái không phải là khác, nhưng cũng không phải là một. Tâm bao
trùm tất cả. Tâm tức là chúng sanh, tâm cũng tức là Bồ tát, Phật. sinh
tử cũng ở nơi tâm ấy.
Nhưng làm sao để nhận chân được
những phương diện của tâm, mà mới nghe qua hình như là trái ngược, mâu
thuẩn với nhau.
Muốn thấy được toàn diện của
tâm, người quan sát phải đứng nhiều khía cạnh, nhiều quan điểm khác
nhau mà nhìn:
-nếu chúng ta đứng về phương diện
truyệt đối mà xét sự vật (hay nói theo danh từ nhà Phật, đứng về
phương diện chơn đế), thì thấy sự vật trong vũ trụ, không có một sự
vật gì nó đứng vững một mình và tồn tại, mọi vật không có thể tự
riêng biệt, mọi vật đều do nhân duyên mà thành. Cái ‘’có’’ của sự
vật là một cái có tạm bợ giả dối, ‘’có ‘’ mà cũng như ‘’không
‘’. Đứng về phương diện tuyệt đối mà xét thì không có một pháp
nào là tuyệt đối cả. Cho nên gọi là ‘’không’’.
Nhưng nếu đứng về phương diện
tương đối mà xét (hay nói theo danh từ nhà Phật, đứng về phương diện
tục đế), thì không thể bảo mọi pháp là hoàn toàn ‘’không ‘’ được.
Trước mắt chúng tánh, đành rành có đủ mọi vật, và mỗi vật có một
giới hạn, một đời sống riêng biệt, sao lại bảo là hoàn toàn ‘’không
‘’? Cho nên đứng về phương diện đối đãi, thì mọi vật không thiếu
một vật gì.
Đứng về phương diện tuyệt đối,
thì vạn pháp là ‘’không ‘’?; Đứng về phương diện tương đối thì
vạn pháp là ‘’có’’. ‘’ Không’’ và ‘’có ‘’ đấy là hai
phương diện của tâm. Lấy phương diện này mà bỏ phương diện kia, hay
trái lại lấy phương diện kia mà bỏ phương diện này, đều là thiên chấp,
thiếu sót. Một giáo lý hoàn toàn là phải chấp nhận cả hai phương diện
ấy. Đó là trung đạo. Phải là trung đạo, mới có thể tuyên bố: ‘’Tâm
là nhứt thiết pháp, nhứt thiết pháp là tâm; tâm là sanh tử luân hồi,
mà cũng là Niết bàn tịch tịnh’’.
Như thế tâm có đầy đủ các
tánh: thiên và ác, tịnh và bất tịnh, Phật và chúng sanh. Trong cỏi sanh
diệt vô thường, vẫn có cái lý bất sanh bất diệt; trong cỏi ta ba, vẫn
có cảnh giưói củ Phật. đó là ý nghĩa của câu ‘’ pháp môn tánh cụ’’
nghĩa là bản tánh bao giờ cũng có đủ các pháp, như lành và dữ, tịnh
và bất tịnh...Do có đủ các pháp, nên hành động như thế nào thì kết
quả như thế ấy. Muốn thành Phật, còn muốn làm chúng sanh thì tạo nhơn
chúng sanh. Chúng sanh muốn thành Phật chỉ nhứt trừ ác nghiệp và chuyển
lại tu thiện nghiệp
Và cũng vì có đủ các pháp, nên
trong mỗi pháp giới là sáu loại phàm phu (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh,
Tu la, Nhơn, Thiên) và bốn thánh bậc (Thanh văn, Duyên giác, ồ tát và Phật).
Do chủ trương: ‘’pháp môn tánh
cụ’’, và mỗi pháp giới đều có đủ mười pháp giới, nên quan niệm
tu hành của Thiên thai tôn cũng lạc quan hơn các tôn phái khác. Ơí trong
pháp giới nào cũng dù tối tăm, khổ sở bao nhiêu cũng có thể tu hành và
thành tựu được. Như thế không cần từ bỏ một cảnh giới này, cầu
sanh vào một cảnh giới khác mới có thể tu hàng và thành Phật.
III.- PHƯƠNG PHÁP TU
HÀNH
Phần chủ trương của Thiên thai
tôn như đã trình bày ở trên, có phần lạc quan và dễ dàng: trong cảnh
giới hiện tại có đủ cảnh giới phàm và thánh muốn thành Phật, Bồ
tát thì cứ gieo nhơn (tu hành) thành Phật, Bồ tát. Đó là nói về lý thuyết.
Nhưng trong thực hành không phải dễ dang như thế.
Trước tiên, chúng ta phải nhận định
hoàn cảnh thực tế của chúng sanh là một hoàn cảnh bị che phủ rất nhiều
mê lầm, hay nói theo thuật ngư nhà Phật thì là ‘’chướng’’ hay
‘’hoặc’’. Dứt trừ được những ’chướng’’ hay ‘’hoặc’’
ấy là công việc chính của người tu hành. Nhưng muốn dứt trừ những tên
giặc nguy hiểm ấy, trước tiên phải tìm hiểu tướng trạng, hành tung,
phạm vi họat động của chúng ta như thế nào đã. Những chướng ngại, mê
lầm hay những hoặc nói trên nhiều vô số, nhưng có thể phân chia làm ba
loại, từ cạn đến sâu, từ hẹp đến rộng. Đó là kiến tư hoặc, trần
sang hoặc và vô minh hoặc.
3.- Vô minh hoặc: Chử vô minh
nghĩa chung là mê lầm. Mê lầm cũng có niều bậc cạn và sâu, hẹp và rộng,
thô thiển và vi tế. Hàng Tiểu-thừa cũng dùng chữ vô minh, mà hàng Đại-thừa
cũng dùng chữ vô minh. Nhưng vô minh theo quan niệm của Tiểu-thừa là sự
mê lầm che lấp không cho chúng sanh thấy được cái cội gốc của đau khổ,
phiền não, nguyên nhân của sanh tử luân hồi. Còn theo nghĩa của Đại-thừa
và đặc biệt của Thiên thai tôn là sự mê lầm che lấp chơn lý thật tướng
của Trung đạo. Vô minh hoặc ở đây có một nghĩa bao quát rộng rãi như
thế, nên cũng gọi là giới ngoại đạo hoặc; và chỉ có hàng Bồ tát mới
dứt trừ được , nên cũng gọi là biệt hoặc.
Đối vị với ba hoặc này, Thiên
thai tôn lập ra ba pháp quán là: Không quán, Giả quán và Trung quán.
Ba Pháp Quán: Ba pháp này nguyên
Ngài Tuệ Văn rút từ những phẩm kệ trong bộ Trung luận của Ngài Long Thọ
Bồ tát mà lập ra. Phẩm kệ ấy như sau:
- Nhân duyên sở sanh pháp
- Ngã thuyết thức thị không
- Diệc danh vi gỉa danh
- Diệc thị trung đạo nghĩa.
(các pháp do danh duyên sanh, nên
tánh bảo là không, mà cũng là giả danh, đó cũng là nghiã lý của Trung đạo).
Đối với Thiên thai tôn thì ba
pháp quản này là phần nòng cốt trong sự tu hành. Nếu không thực hành ba
pháp quán này thì không làm sao thành tựu được . ba pháp quán này, như trên
đã nói; Không quán, Giả quán và Trung quán.
1.- Không quán: Không quán là
đứng về phương diện chơn đế mà quan sát sự vật. Theo chơn đế thì
các pháp là không, nhưng chúng sanh vì mê lầm không rõ, chấp là có thật.
Do đó mà có kiến thức hoặc, và cứ mãi quay cuồng trong sanh tử luân hồi
của tam giới. nay phải dùng Không quán mà phá trừ sự mê lầmchấp trước
trên, cắt đứt tất cả tình chấp (trừ kiến và tư hoặc) mới thoát khỏi
sanh tử luân hồi.
2.- Giả quán: Giả quán là đứng
về phương diện tục đế mà quan sát sự vật. Các Phật tuy không và
không sở đắc nhưng đứng về thế tục mà nhìn, thì thấy bản tánh vốn
đủ các pháp , muôn hình vạn trạng, không thiếu một pháp nào. Giả quán
này có thể dứt trừ được trần sang hoặc, vì hành giả biết rằng hoặc
tuy nhiều như cát bụi, nhưng đều là giả cả, nên không lo sợ trước số
nhiều ấy, và cứ tâm phát nguyện độ sanh khắp tất cả.
3.- Trung quán: Trung quán là đứng
về phương diện trung đế để quan sát các pháp. Trung đế hay đệ nhất
nghĩa đế là sự thật đúng đắn nhất, không gì hơn, sự thật trung chánh,
tóm thâu bao gồm tất cả sự thật khác. Khi đứng về chơn đế hay tục
đế mà quan sát sự vật thì không phải là không đạt đến sự thật;
nhưng sự vật ấy mới chỉ được vén lên ở một khía cạnh nay hay một
khía cạnh khác mà thôi. Và những sự thật ấy, nếu không có trung quán,
thì trở thành mâu thuẩn, đối chọi nhau. Nhờ Trung quán mà nhìn cùng một
lần cả hai khía cạnh Có và Không, mới nhận chân được rỏ ràng các
pháp không phải chơn mà cũng không phải tục, tức chơn, tức tục, dung thông
cả hai, không có chướng ngại. Pháp quán này sẽ trừ được vô minh hoặc
một cách rốt ráo, cùng tột.
Ba pháp quán này có tể thực hành
bằng nhiều lối:
Hoặc quán theo thứ lớp, hết
Không đến Giả đến Trung. Lỗi quán này gọi là quán ba đế về lối cách
lịch, thứ đệ, hay về biệt tướng, hay biệt giáo.
Hoặc quán theo lối thông tướng.
Theo lói sau nay thì quán một đế mà ba đế đều đủ, ba tức là một.
Thí dụ: quán pháp Không thời hết thãy đều Không; Giã, Trung cũng đều
Không; quán pháp Giã, thời hết thảy đều Giả; Không , Trung cũng đều Giã;
quán pháp Trung, thời hết thảy đều Trung; Không; Giả cũng đều Trung.
Hoặc quán theo lối Viên dung; nghĩa
là đầy đủ, Dung nghĩa là dung hòa. Theo pháp qúan này, thì dùng một tâm
mà đồng thời tu ba pháp quán, nghĩa là trong một tâm niệm mà ba pháp
quán đều đủ và không ngăn ngại nhau. Quán như thế gọi là ‘’nhất
tâm tam quán’’, một pháp quán của viên giáo. Nhất tâm tam giáo là pháp
quán vi diệu nhất. nhờ pháp quán này mà hành giả trực nhận được
trong một lúc nhiều khía cạnhcu tâm ( mà cũng tức là vạn pháp ), rõ
ràng như khi chúng ta soi vào gương, mà vừa nhận thấy được ánh sáng của
gương (dụ cho không), những bóng phản chiếu trong gương (dụ cho trung). Ba
thứ: ánh sáng, bóng phản chiếu và thể tánh của gương đều đầy đủ,
đều thể hiện cùng một lúc mà vẫn viên dung, không trở ngại nhau. Cái
lý ba đế viên dung là đức tánh sẵn có trong mười pháp giới, không một
sự vật, một pháp gì, là không viên dung cả ba đế, cho nên thông thường
gọi là: ‘’ Một cảnh ba đê ꦣ146;’.
Hành giả khi quán thuần thục, sẽ
đi đến kết luận sau đây:
Chân như, Tâm và Vật, quan hệ mật
thiết như tánh ướt, nước và sóng. Chân như dụ cho tánh ướt, Tâm dụ
cho nước , Vật dụ cho sóng. Ngoài tánh ướt không có nước; ngoài nước
không có sóng. Ngoài chân như không có tâm, ngoài tâm không có vật. Chân
như, Tâm và Vật không rời nhau, mà cũng không phải là một, mà cũng không
khác.
IV.- QUẢ VỊ TU CHỨNG
Như trên đã nói, do sự khám phá của
‘’Nhất tâm tam quán’’, Thiên thai tôn có một quan niệm lạc quan về
sụ tu chứng. Thật vây, khi đã nhận rõ chân-như nằm ngay trong sụ vật,
phàm, thánh không hai, uế độ tức tịnh độ, thì hành giả không cần phải
cầu sanh ở một cảnh giới thanh tịnh nào khác mới tu hành được, cũng
không cần phải tu hành lâu đời, lâu kiếp mới thành Phật được. Ngay
trong hiện tiền, nếu hiểu rõ được nghĩa lý của Trung đạo và khởi
công tu luyện thì cũng là Phật rồi. Â깠là
ý nghĩa của Thiên thai tôn đã đề xướng trong chủ trương ‘’Lục tức
Phật’’.
1.- ’Lục tức Phật, gồm có:
Lý tức Phật, danh dự tức Phật, quán hạnh tức Phật, Tương trợ tức
Phật, Phần chứng tức Phật, Cứu kính tức Phật.
a) Lý tức Phật: Lý tức là
nghĩa lý. Hiễu rõ được nghĩa lý của Đức-Phật đã dạy trong câu
‘’ Chúng sanh vốn đủ Phật tánh , cùng các đức Như Lai không hai không
khác’’; hay trong câu: ‘’Hết thảy chúng sanh đều là Phật’’; hiểu
rõ được lý ấy tức là Phật.
b) Danh tự tức Phật: Danh tự
ở đây tức là những kinh điển, hay những lời thuyết pháp mà mình đã
học hay đã nghe được, và đã hiểu được thông suốt rằng: ‘’Hết
thảy các pháp đều là Phật pháp ‘’. Danh tự tức Phật nghĩa là lãnh
hội được lý tánh của vũ trụ, vạn hữu qua kinh điển, văn tự tức là
Phật.
c) Quán hạnh tức Phật: Quán
hạnh là quán tưởng. Hạnh là tu hành, hành động; nói một cach tổng
quát: quán hạnh tức Phật nghĩa là thực hành đúng theo lời Phật dạy tức
là Phật.
d) Tương trợ tức Phật: Chử
tương trợ ở đây có nghĩa là trong lúc mình tu hành, tuy chưa có thể thực
chứng được lý tánh , nhưng tâm mình đã được yên lặng, nơi lý đã mường
tượng như tuồng đã chứng được, nên gọi là tương trơ 촦#7913;c Phật. đến đây tức là Phật thập tín, thuộc
về nội phàm (phàm phu trong nọi giáo).
e) Phần chứng tức Phật:
Theo Thiên thai tôn, thì vô minh như là tấm màn dày đặc, gồm có 41 lớp;
mỗi khi nhờ công phu tu hành, phá được một lớp, tức là chứng được
một phần Trung đạo. Đó là ý nghĩa của phần chứng tức Phật. đến
nay tức là đã lên đến các bậc Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng,
Thập địa và Đẵng giác.
f) Cứu cánh tức Phật: Cứu
cánh tức là đạt đến bực cuối cùng, chứng được chổ mầu nhiệm cực
điểm, nghĩa là đến bực Diệu giác, Chủng trí đều viên mãn. Đến đây
tức là đến bực Diệu giác hay Phật.
chúng ta nên nhớ rằng ‘’Lục tứ
Phật’’ này có phân biệt Lý và Sự khác nhau. Về lý thì mới bắt đầu
bước lên bực thứ nhất và vị đã đến từng bực thứ sáu, đều bình
đẳng như nhau, không hơn không kém, vì thể tánh vẫn là một và mọi
chúng sanh đều là Phật. cái Lý này đem lại cho hành giả và sự phấn khởi,
trên đường tu hành, không sanh lòng chán nãn, không buồn trách mình chậm
thành đạo quả mà thối tâm.
Nhưng về sự thì vị thứ cao thấp
đều có trật tự, kẻ mới tu hành và vị đã chứng quả Phật, không thể
như nhau và ngang nhau được. Người tu hành hiểu rõ như thế mới không
sanh lòng tăng- thượng-mạn, tự xưng là Phật là Thánh trên bước đường
tu hành của mình.
Về Sự thì chỉ những vị đã đạt
đến bực thứ sáu, tức là bực Cứu-cánh, mới đúng danh nghĩa là Phật,
vì chỉ có Phật mới có đủ ba Trí, ba Đức.
2.- Ba trí: Ba trí tức là Nhất-thiết
-trí, Đạo-chủng-trí và Nhất-thiết-chủng-trí.
Nhất-thiết-trí: Trí này rõ biết
hết thảy các pháp đều không sanh; biết rỏ danh, tướn các pháp của nội
tâm và ngoại cảnh, biết rõ không có ngã và ngã-sở. Trí này các bậc tu
theo Tiểu-thừa, sau khi đã chướng quả đều có được. Còn theo Thiên
Thai tôn thì do tu Không quán mà có được.
Đạo-chủng-trí: Trí này rỏ biết
nhất thiết pháp đều là Có nhưng có một cách giả dối, do nhân duyên
hòa hợp mà thành. Cái trí ở trên (nhất thiết trí) chỉ thông suốt được
các pháp không sanh. Chứ không phân biệt được các pháp do duyên khởi.
Vì không rỏ được nguyên nhân sanh-khởi, các pháp như thế, nên không thể
dùng đạo pháp của các Đức-Phật để phát khởi các giống lành cho hết
thảy chúng sanh, và không dám phát nguyện rộng lớn cứu độ chúng sanh. Vậy
phải có Đạo-chủng-trí này mới phá tan được trần-sa-hoặc, có tâm dũng-mãnh
để cứu độ chúng sanh. Trí này chỉ có các bậc Bồ Tát mới có được,
và do Giả-quán mà thành.
Nhất-thiết-chủng-trí: Trí này rõ
biết được hết thảy pháp đều là trung đạo, biết được đạo pháp của
các Đức-Phật và hết thảy nhơn-chủng (chủng-tử khi tạo nhơn) của các
loại chúng sanh, phá tan được vô-minh hoặc, thông-suốt thật-tướng của
các pháp. Trí này tức là trí của Phật, do thành tựu Trung-quán mà có.
Chứng được ba trí trên này là nhờ
tu ba pháp quán: không, giả, trung. Vì ba pháp quán này có cách-lịch,
viên-dung khác nhau, nên khi chứng được ba trí cũng có thứ lớp và không
thứ lớp khác nhau. Ba trí có thứ lớp, nghĩa là thành-tựu tuần-tự từ
Nhất-thiết-trí, đến Đạo-chủng trí, cuối cùng đến Nhất-thiết-chủng
trí.
Ba trí không thứ lớp tức là ba
trí đồng thời thành-tựu, do tu pháp ‘’Nhất tâm viên quán’’.
Đoạn văn sau đây, trong bộ
Ma-Ha-Chỉ quán có thể tóm tắt một cách đầy đủ ý nghĩa của ba trí
nói trên:
‘’ Trí-huệ Phật soi rõ lý
Không, như chổ nhận thấy của bực Tiểu-thừa, gọi là Nhất-thiết trí.
Trí huệ Phật soirõ lý Giả, nhưng sự nhận thấy của các bực Bồ Tát,
gọi là Đạo-chủng trí. Trí-huệ soi rõ cả lý Không, Giả, Trung, thông suốt
thật tướng các pháp, gọi là Nhất-thiết-chủng trí ....Ba trí do một
tâm đồng thời tu ba pháp quán mà thành, biết rõ ba cảnh bất-tư-nghị,
trí ấy do tu quản mà đặng, nên gọi là trí. Trí ấy cũng tức là Phật-trí.
3.- Ba đức: Kết quả tu chứng
của Thiên-thai tôn, không phải chỉ có được ba Trí mà còn được ba Đức
nữa. Chữ ‘’Đức’’ ở đây không phải hiểu theo nghĩa thông-thường
ở trên thế-gian, mà là Đức của cảnh-giới Niết-bàn, nghãi là có đầy
đủ thường, lạc, ngã, tịnh. Ba đức ấy là:
a). Đức Pháp-thân: Pháp tức
là khuôn phép đúng với chơn-tướng của vũ-trụ. Các Đức-Phật nhờ
nương theo khuông phép ấy mà tu hành thành Phật, thể chứng được
chơn-tướng vũ-trụ, cho nên gọi là pháp-thân.
b). Đức Bát-nhã: Tức là
cái sáng-suốt về thỉ-giác của Phật, rõ biết các Pháp không sanh không
diệt, vắng-lặng siêu-hình, một mực bình-đẳng, không thêm không bớt.
c).Đức Giải-thoát: Giải là
không bị ràng buộc; Thoát và không vượt ra ngoài, là tự tại vô ngại.
Ơí đây muốn nói các Đức-Phật đã lìa bỏ các phiền-não nghiệp-chướng
ràng buộc, chứng được cảnh-giới đại tự-tại, Giải-thoát vậy.
V.- KẾT LUẬN
Bốn phần trình bày trên này về Thiên-thai tôn
(duyên khởi lập tôn, tôn-chỉ và giáo-lý căn-bản, phương pháp tu hành,
và quả vị tu chứng) tuy không nói lên được một cách tỉ-mỉ về mọi
khía cạnh của tôn, nhưng thiết tưởng cũng đem lại cho quý vị độc giả
một ý-niệm tổng-quát về Thiên-thai tôn, một tôn đăbiệt thành-lập
ở Trung Hoa và đã lan tràn ảnh-hưởng sang các nước Mông-Cổ, Nhật-Bản,
Cao-Ly, Việt-Nam.
Điểm đặc-sắc của tôn này chính là ở pháp
"nhất tâm tam quán". Nhờ ba pháp quán này mà hành-giả nhận chân
được một cách rõ ràng ba khía cạnh của vũ-trụ vạn-hữu: Vât, Tâm,
và Chân-như. Ba thứ ấy dụ cho sóng, nước và tánh ướt, mà nước cũng
là tánh ướt. Nếu góp cả ba phương-diện mà xét, thì ba phương-diện có
thể quy về một; nếu đứng về một phương-diện mà xét, thì vẫn có thể
thấy cả ba. Đó là ý-nghĩa sâu sắc của Thiên-thai tôn mà cũng tức là
lý-nghĩa chung của Viên-giáo.
Mong rằng quý độc-giả sẽ nghiền-ngẫm
cho thấu đáo, để nhận rõ được cái lẽ ‘’tam tức nhứt, nhức tức
tam’’ ấy. Và như thế tức cũng đi dần vào pháp ‘’nhứt tâm tam
quán’’ rồi đó.