- Mười tôn phái Phật
Giáo ở Trung Hoa
- HT. Thích
Thiện Hoa
I. LUẬT
TÔN
I.- DUYÊN KHỞI
LẬP TÔN
Tôn này dùng luật làm chỗ
căn cứ nên gọi là Luật tôn. Đức Phật khi còn tại thế, tùy căn cơ, tùy
hòan cảnh mà chế ra nhiều lọai giới luật để răn dạy đệ tử, hóa
độ chúng sinh. Sau khi Ngài nhập Niết bàn, các đệ tử của Ngài,như Ngài
Ưu-Ba-Li là vị tinh thông về giới luật đứng trên pháp tọa trong kỳ kết
tập kinh điển lần thứ nhất, đã tụng đọc lại những giới luận mà
Đức Phật đã chế ra. Lần kết tập này chưa biên chép thành kinh điển,
nên Ngài Ưu-Ba-Li phải đọc đi đọc lại đến 80 lần, đến nỗi mỗi
người trong hội đều thuộc lòng. Do đó, mới có tên là"Bát thập tụng
luận ". Về sau,tuần tự theo thời gian, nguyên thủy Phật giáo lần hồi
chia ra làm nhiều nhánh, hay bộ phái. Mỗi bộ phái đều theo một bộ lụât
riêng. Trong số các bộ luật này, bộ được nói đến và áp dụng nhiều
nhất là các bộ: Thập tụng, Tứ phần, Tăng kỳ, Ngũ phần.
Những bộ luật này được
truyền sang Trung Hoa và được phiên dịch ra Hán văn. Đến đời Đường,
Ngài Trí Thủ luật sư chú giải các bộ ấy, và đệ tử của Ngài là Đạo
Tuyên luật sư, nhận thấy trong các bộ ấy,bộ luật Tứ phầìn làthích
hợp căn cơ người Trung Hoa, nên đã căn cứ vào luật này để lập ra Luật
tôn.Ngài Đạo Tuyên là người ở Chung nam sơn, nên người đời gọi tôn
này là " Chung nam sơn" để phân biệt với các Luật tôn khác, như
của các Ngài Pháp Lệ bên phái Hữu tướng bộ,hay Ngài Hoài Tố ở Đông
pháp.
Trong các Tôn này, chỉ có
Luật tôn của Ngài Chung nam sơn là thịnh hành hơn hết và được truyền
bá cho đến bây giờ, vì nó trung hòa cả Đại Thưà lẫn Tiểu Thừa.
II.-TÔN CHỈ
VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LUẬT TÔN
Phàm một tổ chức, một
công viếc gì đúng đắn cũng đều phải tuân theo những quy luật nhất định.
Hơn tất cả, sự tu hành lại càng phải tuân theo những giới luật nghiêm
minh. Như chúng ta đã biết trong phần giáo lý căn bản, nghiệp là động lực
chính của vũ trụ nhân sinh.Nghiệp định đoạt tất cả đời sống chúng
ta. Nghiệp có ba loại: Nghiệp của hành động, nghiệp của lời nói và
nghiệp của ý nghĩ. Nếu những nghiệp ấy được thanh tịnh, không tạo
ra các điều ác, thì ta không thọ quả báo sinh tử luân hồi. Không có quả
báo sinh tử luân hồi thì tất nhiên là được giải thoát. Muốn các nghiệp
được thanh tịnh thì ta phải giữ gìn giới luật, chính là một phương
pháp tu hành trong nhiều phương pháp mà Phật đã chia ra. Phương pháp này rất
thiết thực và rất hiệu nghiệm đối với Phật tủ chung ta:
-Giữ giớ không sát nhơn hại
vật, hiện người không làm người hung dữ, khỏi bị tù tội, về sau khỏi
bị đọa trong ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ,súc sinh, và khỏi bị
người giết haị, đó là tu.
-Giữ giới khong trộm cướp
thì hiện thời làm người lương thiện khỏi bị giam cầm siềng xích, đời
sau không mắc quả báo,bị người giựt của cướp nhà, đó là tu.
-Giữ giới không tà dâm, hiện
thời thành người tốt, gia đình mình và người không bị rầy rà, đánh
đập, khổ sở vì ghen tương, đó là tu.
-Giữ giới không nói dối,
không nói láo xược, thèo lẽo, thêm bớt, đâm thọc, không nói hung ác và
thô tục, thì không bị người khinh khi, lại được sự kính trọng, đó
là tu.
-Giữ giới kghông cờ bạc,
hút xách, rượu chè, thì khỏi mất tiền, thiếu nợ, khỏi say sưa, làm
điều tội lo0õi và khỏi bị người khinh bỉ, trí tuệ tăng trưởng, đo
là tu.
Nói một cách tổng quát, giữ
một giới là ngăn ngừa được một điều tội lỗi,và thêm được một
điều lành; giữ nhiều giớ là ngăn ngừa được nhiều điều tội lỗi và
thêm được nhiều điều lành. Bởi thế, nên giữ giới luật làphương pháp
tu không xa thực tế và rất cần thiết cho các Phật tử cầu đạo giải
thoát.
Nhờ giữ "giới luật"
không làm các việc tội lỗi, nên tâm được "định"; do tâm định
nên phát ra"trí huệ sáng suốt". Nhờ có trí huệ sáng suốt nên
phá trừ được vô minh si ám, và được minh tâm kiến tâm thành Phật.
Người tu tại gia có giữ
giới, mới thành Phật tử chơn chính. Người xuất gia thọ Sa-di,có giữ
giới mới phải là chơn tu. Thầy Tỳ-kheo có giữ giới mới phải là Tỳ-kheo
thanh tịnh. Bồ Tát có giữ giới mới phải là chơn Bồ Tát. Bởi thế
nên trong ba món vô-lậu học (giới,định,huệ ), "giới" đứng đầu
tất cả.
Tôn này sỡ dĩ lập ra là
nhằm vào lợi ích thiết thực và chín chắn của giới luật, như đã
trình bày ở trên.
III.- CÁC LOẠI
GIỚI LUẬT
Giới luật có nhiều lọai
từng bậc,tùy theo căn cơ, tùy theo giới tu sĩ, tùy theo sự phát nguyện của
kẻ tu hành mà áp dụng. Nhưng nói một cách tổng quát thì giới luật có
thể phân chia làm hai lọai lớn là: Giới lụât của Đại Thưà và giới
luật của Tiểu Thừa.
-Những giới luật nào có
tánh cách tiêu cực, tự lợi, chỉ có mục đích chính là tránh tội lỗi
cho riêng mình là thuộc về giới Tiểu Thừa. Tất nhiên trong khi giữ giới
cho riêng mình, thì người khác cũng được lợi như giữ giới không trộm
cướp, thì mình được lợi là kềm giữ lòng tham,mà người khác cũng
đượclợi là khỏi phải bịcái khổ vì tiếc của đã mất. Mặc dù thế,
giới không trộm cướp cũng chỉ liệt vào giới Tiểu-thừa, vì trong khigiữ
giới, mục đích chính, trực tiếp là giữ cho mình; còn cái lợi cho người
chỉ ảnh hưởng gián tiếp của giới ấy. Những giới như: Ngũ giới (5
giới do Phật chế cho người tại-gia), Bát-quan-trai giới (8 giới Phật chế
cho người tại gia-tập sống như người xuất gia), Sang-di giớivà
Sang-di-nhiều giới (10 giới Phật chế cho người mới xuất gia), Thức-xoa
(6 điều nữ học giới), Tỳ-kheo giới (250 giới), và Tỳ-kheo0nhiều giới
(348 giới) là những giới thuộc về phái Tiểu-thừa.
Những giới luật nào có
tánh cách tích cực, nhám vào mục đích lợi tha hơn tự lợi tì thuộc về
Đại-thừa giớ. Những giới thuộc về Đại-thừa giới như 10 giới trong
48 giới khinh của Bồ Tát, Tam-tụ tịnh giới (gồm có: Nhiếp-luật-nghi giới
là giới không làm việc ác, Nhiếp-Thiện-Pháp giới là giới làm việc
lành, Nhiêu-ích hữu-tình giới là giới làm ích lợi cho chúng sanh, như làm
các việc có tánh cách từ thiện xã hội v.v..).
Nếu đứng về phương diện
hành trì mà phân loại, giới-luật có thể chia làm hai phần lớn: một phần
thuộc về chỉ trì, nghĩa là ngăn đứt ác nghiệp, một phần thuộc về
tác trì, tức hành động theo thiện-nghiệp.
1.-Về chỉ trì: có
hai bộ giới bổn:
a.-Tỳ-kheo giới bổn,
gồm có 250 giới, chia làm 8 loại là: 1.- Ba-la-di (4 giới), 2.-Tăng-tàng (13
giới), 3.-Bất-định (2 giới), 4.- Xã-đọa (30 giới), 5.- Đơn-đọa (90 giới),
6.- Đề-xà-nhiều (4 giới), 7.- Chúng-học (100 giới), 8.- Diệt-tránh (7 giới).
Hai trăm năm mươi giới này có thể chia làm tám loại (ngũ thiên), sáu loại
(lục tụ) hay bảy loại (thất tụ).
b.-Tỳ-kheo-nhiều giới bổn
(giới của Tỳ-kheo-nhiều gồm có 348 giới, chia làm 7 loại là:
1.-Ba-la-di (8 giới), 2.- Tăng-tàn
(17 giới), 3.-Xả-đọa (30 giới), 4.-Đơn-đọa (178 giới), 5.-Đề-xà-nhiều
(8 giới ), 6.-Chúng-học (100 giới), 7.-Diệt-tránh (7 giới). Ba trăm mươi bốn
tám giới này, có thể chia là bảy loại như trên, nhưng củng có thể làm
tùy nghi chia làm năm loại, sáu loại ,bảy loại như bên tăng (1).
Giới Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-nhiều
trên này gọi là Cụ-túc giới, nghĩa là những giới đem lại cho người
thọ vô lượng giới-hạnh, phước đức. Nhưng 250 hay 348 giới, chưa phải
là nhiều. Đó chỉ là giới tóm thâu những giới-luật chính, làm giềng-mối
cho sự trì phạm mà thôi. Nếu kể cho hết giới-luật thì về "lượng"
sánh đồng hư-không, về "cảnh" lại nan khắp cả pháp-giới. Nếu
kể về bậc trung, thì bên tăng có đến 3.000 oai nghi, 80.000 tế-hạnh; bên
Ni có đến 80.000 oai-nghi và 120.000 tế-hạnh.
Vì sao Phật lập ra nhiều
giới-luật như thế?
- Vì mỗi một giới là ngăn
ngừa tội lỗi, mà con người chúng ta là phàm phu, từ tâm niệm cho đến
hành vi, có không biết bao nhiêu điều tội lỗi, nên phải có vô số giới
luật để ngăn ngừa.
2.- Về tác trì, gồm
có 20 kiền-độ.
Kiền độ nghĩa là phẩm loại,
điều luật (Khanda).
20 Kiền độ là:
Thọ giới Kiền độ
Thuyết giới Kiền độ
An cư Kiền độ
Tứ tự Kiền độ...
Sự chia ra chủ trì và tác
trì là cốt lõi dễ phân biệt trong khi giữ giới, chứ thật ra nói một
cách rốt ráo thì trong ‘’chỉ’’ có ‘’tác’’, trong ‘’tác’’
có ‘’chỉ’’, không thể nói một cách dứt khoát được.
*** Chúng tôi chỉ giới thiệu những
danh từ của các giới luật tăng, ni chứ không nói rõ hơn, vì theo luật
Phật, người thọ giới ở cấp bực nào thì chỉ biết giới luật của cấp
ấy mà thôi.
IV.-CÁC DANH TỪ
VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH
Như chúng ta đã thấy ở
trên, giới-luật của Phật chế ra rất nhiều; do đó, danh từ chuyên môn
và cách thức giữ giới cũng rất phức tạp. Vậy muốn giữ giới được
kết quả, trước tiên phải biết những điều sau đây:
1.-Sao gọi là ‘’danh, chủng,
tánh, tướng’’?
a.-Danh là tên (danh từ)
nghĩa là tên chỉ mỗi giới, như giới bất sát sinh, giới bất thâu đạo.v.v...
b.- Chủng là chủng loại,
hay nhóm; như chúng ta đã thấy ở phần chia các giới của Tăng, Ni:
Ba-la-di, Tăng tàng.v.v..
c.-Tánh là tâm tánh,
là tánh chất ở bên trong; như người giữ giới, trong tâm niệm không nghĩ
tưởng đến việc sát, đạo, dâm, vọng.v.v.. hoặc thấy người phạm giới
cũng không sanh tâm vui mừng hay liên tưởng đến. Giữ gìn tâm tánh ở
bên trong được thanh tịnh như vậy, gọi là ‘’giới tánh’’.
d.- Tướng là hình tướng
ở bên ngoài; như bên trong đã không nghĩ đến sát sanh, trộm cướp (tánh
giới) .v.v.. mà bên ngoài cũng không làm những điều ác ấy, gọi là
‘’giới tướng’’.
Tóm lại, mỗi khi phạm một
điều tội lỗi, người giữ giới phải biết tội ấy là gì (danh), sát
hay đạo .v.v..? thuộc về loại nào (chủng), Ba-la-di hay Tăng tàng.v.v..? thuộc
về nội tâm (tánh) hay ngoài thân (tướng)? Và cuối cùng hành giả phải
biết tôi ấy, theo luật phải trị phạt thế nào mới được thanh tịnh?
2.- Sao gọi là ‘’ khai,
giá, trì, phạm ’’?
a.- Khai là mở, cho làm.
b.- Giá là cấm, không
cho làm.
Như khi Phật còn tái thế, Ngài cấm các vị Tỳ Kheo leo lên cây, đó là
‘’Giá" . nhưng về sau cóvị Tỳ Kheo đi vào rừng, bị ác thú rượt,
Ngài không dám leo lên cây để tránh, vì sợ phạm giới, và cuối cùng bị
ác thú hại. Từ đó, Phật dạy: ‘’nếu có duyên sự thì được leo cây’’,
như thế gọi là ‘’Khai’’.
Một thí dụ thứ 2: người Phật tử phải giữ giới không uống rượu.
Đó là ‘’Giá’’. Nhưng khi bị bịnh nặng, nếu cần rượu để hòa với
thuốc, uống mới lành bệnh, thì tạm được dùng. Đó là ‘’Khai’’.
Nhưng trước khi uống, phải bạch với chư tăng.
c.- Trì là giữ gìn;
như khi đã thọ giới rồi mà giữ gìn cho được thanh tịnh thì gọi là
‘’Trì’’.
d.- Phạm là vi phạm;
như đã thọ giới rồi mà không giữ gìn giới thì gọi là ‘’Phạm’’.
Tóm lại, trong khi tu hành giữ giới-luật, hành giả luôn luôn quan sát mỗi
hành vi hàng ngày của mình xét xem một cách sáng suốt, thế nào là ‘’Trì’’,
thế nào là ‘’Phạm’’; trong trường hợp nào, và giới nào được
‘’Khai’’; Trong trường hợp nào, và giới nào không được ‘’Khai’’.v.v..
nói một cách tổng quát khi đã thọ giới rồi thì phải ‘’Trì’’. Nếu
không ‘’Trì’’ mà ‘’Phạm’’. Tuy thế nếu vì lòng từ bi, vì lợi
ích chung, hay vì trí huệ thúc đẩy, thì có thể ‘’Khai’’ mà không phạm
tội. Nhưng nếu vì tâm nhiểm ô, vì phiền nảo thúc đẩy mà ‘’Khai’’
là ‘’Phạm’’.
3.-Sao gọi là ‘’chỉ
trì, tác phạm và tác trì chỉ phạm’’?
a.- Chỉ trì là nói về
phương diện các điều ác, quyết giữ gìn không gây tội lỗi.
b.- Tác phạm là nói về
phương diện các điều ác, đáng lẽ phải giữ gìn, mà lại không giữ
được, cho nên phải phạm tội lỗi.
c.- Tác trì là nói về
phương diện các điều thiện, cần phải làm, nếu đình chỉ không làm,
là phạm giới.
d.- Chỉ phạm là nói
về phương diện các điều thiện, nếu đình chỉ không làm, là phạm giới.
Thí dụ: về tội ăn trộm,
nếu không làm là chỉ trì, nếu làm tác phạm. Trái lại, về hạnh bố
thí, nếu làm là tác trì, nếu không làm là chỉ phạm.
4.- Sao gọi là ‘’ tánh
tội và giá tội, hay tánh giới và giá giới’’?.
a). Tánh tội là tội sẳn
có trong bảng tấn chúng sanh, như sát, đạo, dâm, vọng. Bốn tánh này có
sẳn trong tâm tánh chúnh sanh từ vô thỉ đến nay, hể có chúng sanh lá có
chúng nó. Mỗi người, không cần ai dạy bảo, không cần học tập, mà ai
cũng đều biết sát, đạo, dâm, vọng. Vì thế cho nên gọi là tánh tội.
b). Giá tội là tội
không sẵn có trong bản tấn nhưng do hoàn cảnh, do tập nhiễm mà phát
sinh; như tội uống rượu chẳng hạn. Nói một cách tổng quát, ngoài bốn
tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng, còn bao nhiêu tội khác là giá tội cả.
c). Tánh giới là để
ngăn ngừa bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng. Giới này rất quan trọng,
nhưng củng rất khó giữ. Giữ được bốn giới này thì sư tu hành tất sẽ
kết quả và con đường giải thoát chắc chắn sẽ chờ đón hành giả.
d). Giá giới là giới
để ngăn ngừa tội lỗi do hoàn cảnh là huân tập mà phát sinh. Những giới
này ít quan trọng hơn tánh giới nói trên. Nhưng muốn giữ được tánh giới
một cách ít khó khăn, phải cần giữ giá giới. Như người muốn đốn cây
lớn, trước tien phải chặt ngành ngọn; như người dùng binh giỏi, trước
khi muốn chiếm một đô thị lớn, phải ngăn chặn các con đường đi vào
đo thị ấy.
V.-KẾT LUẬN
Như chúng ta đã rỏ, mục
đích của gióa pháp mà Đứ룠Phật chỉ bày cho chúng ta là để được minh tâm, kiến
tánh, và thành Phật. Tất cả các tôn phái, mặc dù có chủ trương và đặc
điểm khác nhau, nhưng mục dích cuối cùng đều là một: Giác-ngộ và
thành Phật.
Luật tôn củng không đi ra
ngoài mục đích trên, mặc dù phương pháp có khác phần nhiều các tôn
khác thì phải hiểu rồi mới tu; Luật tôn trái lại chủ trương; hãy tu
đi rồi sẽ hiểu, hảy giữ gìn giới luật phải nghiêm chỉnh, thì tâm sẽ
định tĩnh, thanh tịnh; tâm đa thanh tịnh thì trí huệ sẽ sáng suốt,
chân tâm sẽ hiện bày, Phật tánh sẽ phát lộ.
Thật là một chủ trương rất
thiết thực, mà kết quả lại chắc-chắn ! những kẻ học rộng biết nhiều
mà không giữ giới củng chẳng khác gì trước gió, có thể sáng lắm, nhưng
không biết sẽ tắt khi nào. Trái lại kẽ học ít biết hẹp mà giữ giới
một cách chân thần, thì củng như ngọn đèn có ống khói, khi mới thắp
thì lu, nhưng không tắt thì càng cháy lâu cáng sáng tỏ.
Vì những lí lẽ trình bày
ở trên, Luật tôn đều phải thích hợp với mọi căn cơ, nhất là với
những căn cơ chậm lụt. Ơí đời chúng ta thường thấy phần nhiều những
người có căn trí lanh lẹ, hiểu nhanh biết lẹ, nhưng vì hay ỷ sức mình
, không chịu đặt mình vào khuôn phép kỷ luật, nên cuối cùng, chẳng thu
hoạch được kết quả gì tốt đẹp cả. Trái lại, những kẻ có căn trí
tầm thường, nhiều khi chậm lụt nữa , nhưng lại dễ thành công trên
đường đời củng như trên đường đạo, vì họ biết thủ phận chịu
khó khép mình vào kỷ luật, không tự mãn, tự cao. Những đệ tử của Phật,
có ai có một địa vị xã hội hà tiện (đi gánh phân ) và một căn trí
thấp thỏi như Ngài Ưu-Ba-Li !Thế mà Ngài Ưu-Ba-Li lại trở thành một đệ
tử của Phật, đã thành một bậc hiền thánh, chỉ vì đã nghiêm trì giới
luật! Ch úng ta đây, địa vị xã hội và căn trí chắc chắn không kém
Ưu-Ba-Li, lẻ nào chúng ta không thu hoạch được thành quả tốt đệp như
Ngài , nếu chúng ta củng tập nghiêm trì giới-luật như Ngài .