- Mười tôn phái Phật
Giáo ở Trung Hoa
- HT. Thích
Thiện Hoa
7.-
HOA-NGHIÊM TÔN ( HIỀN-THỦ TÔN)
I.- DUYÊN-KHỞI LẬP
TÔN
Tôn này thuộc về Đại-thừa, căn cứ theo giáo-nghĩa
trong kimh Hoa-nghiêm là một bộ kinh cao nhất mà Đức-Phật đã nói ra, nên
gọi là Hoa-nghiêm tôn.
Người sáng lập ra tôn này là
Ngài Đỗ-thuận một vị Hòa-thượng đời Đường. Ngài đã thâu góp
ý-nghĩa mầu-nhiệm của kinh Hoa-nghiêm, làm ra ba bộ "Pháp-giới
quán".
Người kế vị Ngài Đỗ-thuận là Ngài Trí-nghiễm,
ở chùa Trí-tướng. Ngài Trí-nghiễm đã làm ra nhiều bộ luận có giá trị
để giải bày nghĩa lý của tôn này như các bộ: ‘’Sưu huyền ký’’,
‘’thập huyền môn’’, ’’Ngũ thập yếu vấn đáp’’.
Vị thừa kế Ngài Trí- nghiễm và đã có nhiều
công nghiệp lớn đối với Tôn này là Ngài Pháp tạng, cũng gọi là Hiền-Thủ
quốc sư. Ngài đã làm ra bộ ‘’Thám huyền ký’’ và nhiều chương số
khác, khiến cho Hoa nghiêm tôn rất được thạnh-hành và phát triển trong
đời Ngài. Do đó, Tôn này cũng thường gọi là Hiền thủ tôn. Sau khi
Ngài Hiền thủ qua đời được ít lâu, kinh Hoa nghiêm được dịch lại bằng
tiếng Hán văn bộ mới, Ngài Trừng quán, tức là Thanh lương quốc sư, dựa
theo ý nghĩa bộ Hoa nghiêm mới dịch này mà làm ra bộ ‘’Hoa nghiêm số
sao’’, bày giải nghĩa lý rộng rãi, sâu xa mầu nhiệm của kinh Hoa
nghiêm. Vì thế, Hoa nghiêm tôn lại càng được người đời sùng mộ, nhất
là trong giới thượng lưu trí thức nước Tàu.
II.-TÔN CHỈ VÀ GIÁO
LÝ CĂN BẢN
Trong các bộ kinh của Đức Phật, kinh Hoa-Nghiêm
là bộ kinh có ý nghĩa cao siêu, mầu nhiệm nhất. Chỉ những vị đại đệ
tử, căn cơ minh mẫn, lanh lẹ mới có thể hiểu thấu được. Do đó,
Hoa-Nghiêm tôn chỉ thích hợp với những ai đã có một căn bản Phật pháp
vững chắc và đã quen với lối suy luận trừu tượng của giáo lý nhà Phật.
Đem một giáo lý uyên thâm của Phật pháp ra trình bày trong một tập sách
phổ thông như thế này, thật khó mà nói cho rõ ràng, đầy đủ nghĩa lý
của Hoa-Nghiêm tôn. Tuy thế, để có một bộ sách gồm đầy đủ mười tôn
phái của Phật giáo Trung Hoa, và để quý độc giả có đủ tài liệu để
so sánh sự sai khác của mỗi tôn, chúng tôi không thể không nói đến
Hoa-Nghiêm tôn trong khi điểm qua tôn chỉ và giáo lý căn bản của mười tôn.
Chúng tôi sẽ cố gắng trình bày một cách giản dị, gọn gàng về giáo
lý đặc sắc của tôn này, và cũng mong mõi quý độc giả theo dõi một
cách chăm chú sự trình bày này, ngõ hầu vấn đề được sáng tỏ.
Tôn này được gọi là ‘’Viên
giáo’’, nghĩa là giáo lý Viên dung hoàn toàn đầy đủ.
Tôn của chủ trương ‘’pháp
giới duyên khởi’’ , nghĩa là vũ trụ vạn hữu trùng trùng do nhân
duyên hòa hợp mà thành. Nói một cách khác, mọi sự vật trong vũ trụ bao
la, là một vật nhỏ như hạt bụi, cho đến một vật lớn như trăng sao,
đều nương vào nhau, làm nhân làm quả, lớp lớp không cùng tột, dung
thông nhau, ảnh hưởng lẫn nhau mà có. Mỗi pháp, trong vũ trụ không thể
tồn tại riêng rẽ, biệt lập mà tự có được. Cái này có là nhờ cái
kia, cái kia có là nhờ cái này. Cái này và cái kia tương quan, tương duyên,
lớp lớp không cùng tột, cho nên gọi là ‘’vô tận duyên khởi’’ hay
‘’trùng trùng duyên khởi’’.
Vì là trùng trùng duyên nhau, nên một là hết thảy,
hết thảy là một, mọi sự vật trong vũ trụ đều dung thông nhau. Và do
đó, trong kinh Hoa-Nghiêm đã nêu lên pháp môn ‘’sự sự vô ngại pháp giới’’.
Để hiểu rõ nghĩa lý của pháp
môn này, chúng tạnh hãy đi theo pháp quy nạp gồm có 4 giai đoạn sau đây,
cũng gọi là 4 pháp giới:
1.- Sự pháp giới: Sự là
nói về các hình tướng sai biệt các pháp trong vũ trụ, trong vũ trụ, các
pháp đều có giới hạn rõ ràng như nước lạnh, nước đá, nước sôi, hới
nước, đều có tướng trạng khác nhau. Đó là đứng về sự mà quan sát
vũ trụ vạn hữu hay nói theo danh từ đạo Phật là "Sự pháp-giới
".
2.- Lý pháp-giới: Lý là nói
về các phần bên trong, vô hình của sự vật. Đây tức là lý tánh bìmh
đẳng, chổ nương tựa cho tất cả sự tướng; lý dung thông cho khắp tất
cả, nước lạnh, nước đá, hới nước, tuy tướng trạng khác nhau, nhưng
thể tánh vẩn là một (nghĩa là gồm H2+O). vũ trụ vạn hữu không
chỉ có phần sự tương mà còn phần lý tánh nữa. Đó tức là "Lý
pháp-giới".
3.- Lý sự vô ngại pháp-giới: Như
trên chúng tạnh đã thấy, mỗi pháp đều có Sự và Lý do nơi Sự mà rõ,
sự nương vào Lý mà thành. Lý và Sự dung thông, như nước tức là sóng,
sóng tức là nước. Lý, Sự trong pháp-giới cũng dung thông, vô ngại. Đó
là lý nghĩa của "Lý, Sự vô ngại pháp-giới ".
4.- Sự vô ngại pháp-giới: Trong
pháp-giới, có hằng hà sang sôsự vật, hình tướng tuy khác nhau, giới hạn
tuy bất đồng nhưng lý tánh dung thông bình đẳng, không có phân chia ngăn
cách. Nhờ lý, mà sự sự được dung thông vô ngại. Như các vật dụng bằng
điện, nào quạt điện, đèn điện, máy lạnh, ủi điện, lò xo .v.v...tuy
mỗi vật đều có hình dáng, công dụng sai, nhưng đều thông nhau qua luồng
điện chi phối lảnh nhau, ảnh hưởng qua lại. Một thí dụ khác: nhiều hồ
chứa nước, hình dáng, rộng hẹp khác nhau, nhưng ăn thông với nhau bằng
những ống nước, do đó sự đày vơi, nhớp sạch của một hồ này đều
liên quan mật thiết đến tất cả các hồ khác.
Trên đây là những thí dụ vô cùng thô hiển, cốt
để gợi lên một ý niệm về "Sự sự vô ngại Pháp-giới "
thôi, chứ không đúng hẳn. Trong hai thí dụ trên, chúng ta thấy những vật
dụng điện khí hay những hồ nước để hình cung cho Sự Sự trong pháp giới;
và lấy những luồng điện hay luồng nước để hình dung cho Lý của
pháp-giới; thí dụ như thế, người tạnh sẽ tưởng rằng Sự và Lý là
hai loại khác nhau, có thể phân tách ra được. Nhưng thật ra Lý và Sự
không thể phân tách ra được: trong Sự có Lý, trong Lý có Sự. Sự ,Lý chẳng
qua là hai phương diên của một vấn đề vô cùng tế nhị, mà lý trí của
chúng ta đã phân tách ra để tạm nghiên cứu đó thôi.
Để tóm tắt ý nghĩa của 4 pháp-giới này,
chúng tôi xin nói một cách giản dị như sau:
Pháp-giới gồm có triệu sự vật
khác nhau, như A, B, C ...(Sự pháp-giới ).
Trong mỗi sự vật đều có lý
tánh bình đẳng, mà chúng tôi hình dung là L (lý pháp-giới).
Lý tánh bình đẳng ấy dung thông với tất cả
mọi sự vật, như A=L; B=L; C =L. (Lý, Sự vô ngại pháp-giới).
Nhờ lý tánh dung thông với mọi sự
vật, mà mọi sự vật trong vũ trụ trở thành dung thông nhau, vô ngại đối
với nhau, như A =C ...(Sự sự vô ngại pháp-giới).
SÁU TƯỚNG VÀ 10 LÝ
HUYỀN DIỆU CỦA CÁC PHÁP
Trong pháp-giới, sở dỉ Sự sự
được vô ngại, dung thông là đều do các pháp có đủ ‘’sáu tướng’’
và "mười lý huyền diệu" sau đây:
SÁU TƯỚNG VIÊN DUNG
Dựa theo bộ kinh Hoa-Nghiêm, Ngài Bồ Tát Thế
Thân đã làm ra bộ "Thập địa luận" để giải thích nghĩa lý của
sáu tướng (Lục tướng). Sáu tướng này được gọi là Viên-dung, vì nó
có những đức tính viên mản, dung-thông vô-ngại. Sáu tướng của sự vật
trong vũ trụ ấy là:
1.- Tổng tướng: tổng tướng
là cái tướng bao trùm tất cả, tổng cộng tất cả các tướng sai biệt.
Như khi tạnh nói đến cái nhà, là gồm tất cả cột-kèo, tường mái, đá,
gạch ...vậy cái nhà tức là tổng tướng.
2.- Biệt tướng: biệt tướng
là nói các tướng riêng biệt; nhiều biệt tướng cộng lại thành tổng tướng.
Như các biệt tướng trong cái nhà là: cột, kèo, mái, tường, gạch ...Đã
có Tổng tức là phải có Biệt; nếu không có biệt thì cũng không thể lấy
cái gì mà gọi là tổng.
3.- Đồng tướng: Đồng tướng
là cái tướng chung cùng, dung hòa với nhau, không ngăn ngại nhau, không
trái chống nhau. Như kèo, cột, tường, mái, tuy khác nhau, nhưng không ngăn
ngại nhau mà vẩn đồng hướng chung về một cái nhà.
4.- Dị-tướng: Dị-tướng là
các tướng riêng biệt, cái này, cái kia, hình tướng không giống nhau, mặc
dù vẫn cùng nhau dung hòa để gánh vác một nhiệm vụ chung; như cột, kèo,
tường , mái trong một cái nhà, không cái nào giống cái nào, dị tướng
không phải là biệt tướng, cũng như đồng tướng không phải là tổng tướng.
Như một trăm đồng bạc là tổng tướng. Tổng
tướng này là tổng cộng của các tờ bạc: một tờ 50 đồng, hai tờ 20
đồng, một tờ 10 đồng (50+40+10=100). Những tờ giấy bạc 50, 20,10 là biệt
tướng. Những tờ giáy bạc này to, nhỏ, hình ảnh, màu sắc khác nhau, là
dị tướng. Mặc dù hình tướng khác nhau, nhưng cũng là những tờ bạc cả,
tánh chất "bạc" là đồng tướng.
5.- Thành tướng: Thành-tướng
là tướng thành tựu. Sự chung cùng đễ thành ra một cái gì, đó là
thành-tướng. Như cái nhà là sự thành tựu của các cái cột, kèo, tường,
mái ...vậy cái nhà, đứng về phương diện công dụng đễ ở, là thành tướng
của các cột, kèo, tường, mái...nếu lấy thí dụ 100 đồng, thì số tiền
này là thành tướng của những tờ 50 đồng, 20 đồng và 10 đồng. Nhờ sự
kết họp của những số tiền này mà có được số bạc 100 đễ mau được
một vật gì đó, như thế là thành tướng.
6.- Hoại tướng: Hoại tướng
là cái tướng độc lập của các pháp. Như cột, kèo, tường, mái trong
khi hợp tác với nhau, đễ thành cái nhà, thì vẫn giữ cái địa vị riêng
của nó là cột, kèo, tường, mái chứ không phải vì thành cái nhà mà
chúng nó không con là cột, kèo, tường, mái nữa. Cũng như trong khi hợp thành
số bạc 100 đồng, các tờ giấy bạc 50, 20, 10 đồng vẫn là những tờ
giấy bạc 50, 20, 10 đồng vẫw giữ cái giá trị riêng của mổi thứ.
Sáu tướng này phân ra làm ba đối, gọi là
"Tam đối lục tướng ".
-Tổng, Biệt cùng đối nhau thuộc
về Thể.
- Đồng, Dị cùng đối nhau thuộc
về Tướng.
- Thành, Hoại cùng đối nhau thuộc
về Dụng.
Nếu chúng tạnh lấy con sư tử bằng vàng làm
ví dụ thì toàn thể thanh hình của nó là tổng tướng; mỗi bộ phận riêng
lẽ như tai, mắt, mũi lưỡi là biệt tướng; chất vàng của nó là đồng
tướng; mỗi bộ phận có hình dáng riêng khác là dị tướng; mỗi bộ phận
cộng tác hòa hiệp với nhau để hìmh thành một con sư tử là Thành tướng;
nhưng mỗi bộ phận đều có phạm vi riêng biệt, tự lập của nó là Hoại
Tướng.
Khi chúng tạnh nói đến Tổng, Đồng,
Thành là nói về phương diện toàn thể, Viên-dung bình đẳng của bản thể
vũ trụ; khi chúng ta nói đến Biệt, Dị, Hoại là nói về phương diện hiện
tượng giới, trong ấy mỗi mỗi sự vật đều phơi bày riêng rẽ lẽ
khác nhau. Theo trong kinh Hoa-Nghiêm thì Tổng, Đồng, Thành, Tướng thuộc về
môn viên dung; còn Biệt, Dị, Hoại, Tướng thuộc về môn hàng bố (nghĩa
là hiễn lộ, phơi bày la liệt). Một bên là bình đẳng, một bên là sai
biệt. Nhưng bình đẳng và sai biệt là tướngtưc, tương nhập, viên dung
không. Tương tức nghĩa là cái này tức cái kia, như nước tức là sóng; tương
nhập nghĩa là ăn nhập với nhau, dung thông nhau, như mặt gương này và mặt
gương kia phản chiê鵠vào nhua không cùng mà
không cản trở gì nhau. Vì tương ức, tương nhập, nên lìa tổng tướng
thời không biệt tướng, lìa đồng tướng thì không dị tướng, lìa
thành tướng thì không hoại tướng. Tóm lại, viên dung không lìa hàng bố,
hàng bố không lìa viên dung, viên dung tức hàng bố hàng bố tức là viên
dung. Hết tháy các pháp đều đủ 6 tướng ấy, không một pháp nào là
không viên dung tự tại, tức, nhập không ngại. Vì thế cho nên gọi là 6
tướng viên dung. Đấy là ý-nghĩa huyền diệu cúa Hoa-Nghiêm nhất thừa
viên giáo.
MƯỜI LÝ HUYỀN DIỆU
CỦA CÁC PHÁP HAY MƯỜI HUYỀN MÔN
Ngoài sáu tướng nói trên, các
pháp còn có mười lý huyền diệu, hay mười đức tính huyền diệu, mà bộ
kinh Hoa-Nghiêm sớ sao và bộ Tham Huyền Ký của Ngài Hiền Thủ có giải
thích như sau:
1.- Môn ‘’ đồng thời đầy
đủ các pháp tương ứng’’ (đồng thời cụ túc tương ương)
nghĩa là trong mỗi một pháp nào đồng
thời cũng có đủ, hàm chứa tất cả các pháp khác trong vũ trụ. Như một
giọt nước có đủ khí vị của muôn ngàn,sông, biển.
2.- Môn ‘’ rộng và hẹp tụ tại
không ngại ‘’ (quảng hiệp tự tại vô ngại): Nghĩa là một vật gọi
là lớn, chưa hẳn là lớn, vật gọi là nhỏ chưa hẳn là nhỏ. Nhờ cái
lý dung thông, một vật nhỏ như đầu mải lông, có thể chứa được thái
hư mà còn rộng một vật như thái hư , có thể nằm gọn trong đầu mải
lông, mà không chật. Đây muốn nói rằng, trong pháp giới, sự sự đã vô
ngại, dung thông, thì quan niệm về sự rộng hẹp, lớn nhỏ đều là những
danh từ suông, không có biên giới nhất định giữa một vật này với một
vật khác: Một vật nhỏ như vi trần có liên quan đến vũ trụ; một vật
lớn như vũ trụ có liên quan đến một vi thành. Cho nên kinh Hoa-Nghiêm có
chép: ‘’trong một mảy trần, hết thảy cỏi nước rộng rải an tụ’’.để
giải thích ý nghĩa này, kinh thường dạy: "Sự Lyw mà được dung thông,
tự tại không ngăn ngại".
3.- Môn "một và nhiều dung
nhau không đồng" (nhất, đa tương dung bất đồng): Nghĩa là về số
lượng, một và nhiều vật có thể dung nạp lẫn nhau, mà vẫn không phá
hoại cái tướng riêng biệt (an lập) của mỗi vật. Như muôn ngàn ngọn
đèn thắp sáng trong một gian nhà, ngọn này ngọn kia lẫn hiệp với nhau,
nhưng ngọn nào vẫn có ánh sáng riêng của nó
4.- Môn "các pháp tương tức
tụ tại" (chư pháp tương tức tự tại): Nghĩa là các pháp cùng
dung, cùng tức, không ngăn ngại nhau. Như một pháp khi bỏ mình đồng với
các pháp khác, thì toàn thể đều nơi pháp kia; nếu một pháp nhiếp thâu
các pháp đồng về mình, thì hết thảy các pháp kia lại vè một nơi pháp
thâu nhiếp ấy. Cũng ví như chất vàng với sắc vàng, hai pháp ấy không rời
nhau.
5.- Môn "ẩn mật tỏ rõ đều
thành" (bí mật ẩn hiện câu thành): Nghĩa là một pháp có nhiều
phương diện, khi phương diện này hiển thì phương diện kia ẩn; khi
phương diện kia ẩn , thì phương diện này hiển; trong ẩn có hiển; hiển
ẩn đắp đổi nhau mà thành tựu. Sự ẩn hiển cũng không nhất định cái
nào sau cái nào trước, cũng không ngăn ngại, chống đối nhau. Như một
pho tượng bằng vàng, khi chú ý đến vàng thì không thấy cái đẹp của
pho tượng, khi chú ý đến pho tượng thì không thấy vàng. Tóm lại, khi
cái đẹp hiển thì vàng ẩn, khi vàng hiển thì cái đẹp ẩn.
6.- Môn "vi tế dung nhau, an lập"
(vi tế tương dung an lập): Vi tế nghĩa là nhỏ nhiệm mà rõ ràng. Môỵ
vật nhỏ nhiệm này mà bao trùm một vật nhỏ nhiệm khác, mà không cản
trở nhau, không phá hoại cá tướng của nhau. Như một hạt nước bao gồm
nhiều hạt nước, mỗi hạt nước gồn nhiều hóa chất, mỗi hóa chất gồm
nhiều nguyên tử, mỗi nguyên tử gồm nhiều điện tử, giữa những điện
tư có cái nhân: Mỗi thứ đều dung nhau và an lập trong nhau.
7.- Môn "cảnh giới tướng võng
nhơn-đà-la" (Nhơn đà la võng cãnh giới): Nhơn đà la tức là phiên
âm chử Indra là cỏi trời Đế Thích. Theo Bà la môn , thì trên cỏi trời
Nhơn đà la , có cái man lưới bằng bửu châu chói hiện đến muôn trượng,
hạt này hạy khác phản chiếu nhau, chói sáng nhau, lớp lớp không cùng tận.
Môn này cũng như vậy: trong mỗi pháp có nhiều pháp khác, trong nhiều pháp
khác lại có nhiều pháp nữa. Cứ thế nhân mãi lên cho đến vô cùng tận.
Kinh Hoa-Nghiêm có chép; "Hết thảy thếgiới đều như màn lưới Nhơn
đà la".
8.- Môn ""nhơn sự rõ
pháp, sanh trí hiểu biết" ( pháp sự hiểu pháp sanh giải): Nghĩa là
nhờ sự mà hiểu được lý; nhưng khi lý đã rõ, thì lý lại lan rộng
làm cho chụng ta hiểu rộng sâu xa qua nhiều sự khác. Đây muốn nói trí
hiểu biết lan rộng dung thông qua sự vật, như vết dầu lan trên mặt nước,
chỉ một tia lửa bừng cháy rất xa.
9.- Môn "mười đời cách
pháp dị thành" (thập thế cách pháp dị thành): Đây muốn nói thời
gian mặc dù cách biệt nhau từ quá khứ đến hiện tại qua tương lai,
nhưng chính nhờ thế mà các pháp được thành tựu một cách dễ dàng. Tại
sao chia thời gian thành mười đời mà không chia làm ba đời? Đánh lẽ chỉ
nói quá khứ, hiện tại và tướng lai là đủ. Nhưng muốn chia một cách rốt
ráo, tinh vi, trong kinh chia mười đời như sau; trong quá khứ cũng gồm có
quá khứ, hiện tại và tướng lai; trong hiện tại cũng gồm như thế và
trong tướng lai cũng vậy: ba đời mỗi đời chia nhỏ thành chín. Nhưng nếu
chia nhỏ như thế mà không có ý niệm tổng quát so sánh liên hệ với nhau
thì cũng không có được ý niệm về thời gian. Vì thế cho nên về chín
niệm ấy, còn cộng thêm một niệm tổng (tổng quát) nữa, thành ra mười.
10.- Môn "chủ và ạn nương
nhau làm đầy đủ công đức sáng suốt hoàn toàn" (chủ, bạn,
viên minh cụ đức): Như chúng ta đã thấy ở các phần trên: các pháp nương
nhau mà thành. Nếu ta lấy một pháp làm chủ, thì các pháp khác là bạn.
Chủ và bạn nương nhau làm đầy đủ công đức, lớp lớp không cùng tận,
như mặt trăng sáng trên không, chung quanh đoanh vây những vì sao nhấp
nháy, rồi trên mặt đất bao nhiêu sông ngòi, ao hồ lại phản chiếu ánh
sáng trăng sao ở trên không, làm cho cảnh vật ở khắp nơi rạng rỡ.
Tóm lại, mười lý huyền diệu này cộng với
sáu tướng nói trên của các pháp là nguyên nhân giải thích vì sao "sự
sự được vô ngại" trong pháp giới, và cách nghĩa một cach đầy đủ
giáo lý "trùng trùng duyên khởi" mà Hoa-Nghiêm tôn chủ trương.
III.- PHƯƠNG PHÁP TU
HÀNH
Giáo lý căn bản của Hoa-Nghiêm
tôn đã sâu xa mầu nhiệm, thì phương pháp tu hành tất nhiên củng phải
cao siêu, mầu nhiệm mới đưa hành-giả đến chổ cứu cánh tu hành. Tựu
trung, trong các phương pháp tu hành ấy, ba pháp quán về pháp giớ sau đâyđược
xem là các pháp môn trọng yếu và có hiệu quả rốt ráo nhất:
1.-Chơn không quán:"Chơn"
có nghĩa là chơn thật, không hư vọng; "không "
nghĩa là không bị sắc tướng chi
phối, ngăn ngại.
Pháp quá này dựa trên"lý pháp
giới" mà lập ra. Mục đích của pháp quán này là dứt vọng tình, rõ
chơn tánh , khiến cho hành-giả thấy sắc mà không bị sắc ngăn ngại và
nhận được rằng toàn thể là chơn không; thấy không , mà nhận được rằng
đó không pphải là không hẳn ( đoạn không ) mà toàn là chơn tánh. Tóm lại,
pháp quán này nhìn thấuqua được sự đói đãigiã dối của cái không và
cái có, để nhận rõ được cái "lý của vũ trụ (lý pháp giới) là
chơn không " (đã giãi ở trên)
2.-Lý sự vô ngại quán: Pháp
quán này y theo " lý sự vô ngại pháp giới" mà lập ra."
Lý" là thể tánh thanh tịnh sáng suốt; " Sự" là hình tướng
phận hạn của các pháp. Lý, Sự vô ngại, như trong phần giáo lý căn bản
đã có nói ở trước, nghĩa là Lý và Sự không phải hai loại chống nhau,
ngăn cách nhau, mà trái lại, dung thông nhau. Lý, Sự thấu suốt, viên dung
không ngại nên gọi là " Lý, Sự vô ngại quán".
Theo pháp quán này, hành giả quan sát cái sắc tướng
của một mảy trần mà khám phá ra được cái lý của vũ trụ. Tức là
qua cái tướng hư giả của sự vật mà thấy được cái tánh sáng suốt của
nhứt chơn.
3. Châu biến hàm dung quán:
Pháp quán này dựa trên cái lý " Sự sự vô ngại pháp giới" mà lập
ra. " Châu biến" mà lan ra, biến hóa cùng khắp tất cả; " Hàm
dung" là bao gồm, thâu nhiếp hết, dung thông tất cả. " Châu biến
hàm dung quán" là pháp quán nhằm mục đích nhận chân được rằng: cái
pháp một và nhiều không ngại nhau, lớn và nhỏ trùng nhau, dung nhiếp lẫn
nhau, lớp lớp không cùng tột, ẩn hiện tự tại, đồng thời tương tức
tương nhập, thâu nhiếp, dung thông nhau cho đến vô cùng vô tận, trùm chứa
cả vũ trụ bao la.
Theo pháp quán này, hành giả quan sát cái Lý nơi
một Sự, rồi do một Sự ấy mà mỗi mỗi Sự khác cũng đều thấy rõ.
Hành giả lại quán mọi Sự tức nơi Lý, rồi theo Lý ấy mà mỗi mỗi Sự
đều dung thông.
IV. QUẢ VỊ TU CHỨNG
Theo Hoa Nghiêm tôn, giải-thoát vẫn không phá hoại
thế-gian tướng; nói một cách khác, không phải phủ nhận tế gian tướng
mà có thể tìm thấy giải thoát ở một nơi nào khác. Ngay trong thế gian
này, nếu hành giả phân biệt được chân vọng, khử trừ điên đảo, khiến
cho tâm thanh tịnh để cùng thật tại nhất trí: Đó là giải thoát.
Quan niệm về giải thoát của Hoa-Nghiêm tôn này
không khác với Thiên Thai tôn, nghĩa là đều chủ trương một cách lạc
quan rằng chúng sanh và Phật không sai cách: không nhận chân được lý
trùng trùng duyên khởi, sự sự vô ngại pháp giới, là chúng sanh; giác ngộ
được chân lý trên là Phật.
V.- KẾT LUẬN
Hoa-Nghiêm tôn vì y theo bộ kinh cao nhất của Phật
mà thành lập, nên được liệt vào hạng viên giáo, nghĩa là giáo lý hoàn
toàn viên mãn. Và cũng vì là viên giáo cho nên phải cần một căn trí
thông lợi mới tu theo được.
Vậy hành giả, trước khi muốn lựa con đường
này để tiến bước cần phải cân nhắc cho kỹ lưỡng, nhất là cần phải
tìm nghiên cứu thêm cho thấu đáo. Nếu thấy nó khó hiểu quá cao đối với
căn cơ của mình, thì tốt hơn, nên tìm một con đường khác, bởi vì con
đường nào, cuối cùng cũng đưa đến giải thoát cả.
Nhưng nếu quý vị nào nhận thấy căn cơ của mình
có thể theo kịp giáo lý huyền diệu của tôn này,thì đó cũng là một diễm
phúc lớn. Trí tuệ quý vị sẽ nếm được hương vị thanh cao nhất của
đạo nhiệm mầu, và sự tu hành của quý vị cũng mau đến đích, vì quý
vị đã trèo theo con đường thẳng đứng để lên đỉnh núi "giải
thoát". Bao giờ con đường thẳng đứng cũng khó trèo, nhưng mau đến
đích hơn những con đường vòng quanh cọ. Trong vấn đề tu hành cũng vậy.