- Mười tôn phái Phật
Giáo ở Trung Hoa
- HT. Thích
Thiện Hoa
5.- MẬT
TÔN
1.-DUYÊN KHỞI LẬP TÔN
Tôn này thuộc về Đại-thừa, thờ
Đức Đại Nhựt Như Lai (Tì Lô Giá Na) làm giáo chủ. Ngài Kim Cang Bồ Tát
đích thân chịu làm lễ quán đảnh, kế thừa pháp mầu nhiệm của Đức
Đại Nhựt Như Lai, vì thế cho nên tôn này gọi là Mật Tôn hay Chơn ngôn
tôn (lời dạy chơn thật mầu nhiệm, bí mật).
Ngài Kim Cang Bồ tát truyền cho
Ngài Long Thọ; Ngài Long Thọ truyền cho Ngài Long Trí; Ngài Long Trí truyền
cho Ngài Thiện Vô U﹠Tam tạng và Ngài Kim
Cang Trí Tam tạng.
Vào đầu đời Đường, hai Ngài
Vô U﹠và Kim Cang sang Trung Hoa, rộng truyền
bí pháp Mật tôn.
Ngài Vô U﹠truyền cho Ngài Nhất Hạnh Thiền sư. Ngài Nhất Hạnh
Thiền sư sớ thích kinh Đại Nhật làm cho giáo nghĩa của Mật tôn được
rõ rệt ở Trung Hoa. Còn Ngài Kim Cang Trí thì truyền giáo pháp cho Ngài Bất
Không Tam tạng. Ngài sau này truyền cho Ngài Huệ Quả Hòa thượng, Ngài Huệ
Quả truyền cho Ngài Không Hải là một Đại sư người Nhật. Ngài Không Hải
về sau trở thành vị tổ Mật tôn ở Nhật.
Mật tôn có nhiều phái: a) Mật
tôn ở Trung Hoa; b) Mật tôn ở Nhật thường gọi là Đông mật; c) Mật
tôn ở Tây tạng tức là Lạt ma giáo, hay là Tạng Mật.
Kinh điển của Mật tôn.- Tôn này
nương vào hai bộ kinh lớn làm cội gốc bộ kinh đại Nhật và kinh Kim
Cang Đảnh. Nếu kể thêm ba bộ kinh Tô tất địa, Du ký và Yếu lược niêm
tụng, thì thành ra năm bộ kinh về Mật tôn.
Đức Đại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô
Giá Na) là thế nào? Như chúng ta đã thấy ở đoạn đầu, Tôn này thờ Đức
Đại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) làm Giáo chủ và Ngài Kim Cang Bồ
Tát (tức Ngài Kim Cang Tát Đỏa) băng phương pháp quán đảnh đã nhận
lãnh pháp mầu nhiệm của Đức Đại Nhựt Như Lai để truyền thừa Tôn
này.
Nhưng Đức Đại Nhựt Như Lai, (hay
Tỳ Lô Giá Na) là thế nào?
- Như chúng ta thường nghe nói Phật
có 3 thân là: Pháp thân, Báo thân và Ứng thân.
1.-Pháp Thân, hay từ tánh thân là
pháp giới chơn tịnh của các đức Như Lai, làm sở y bình đẳng cho Báo
thân và Ứng thân; Pháp Thân tức là thể tánh thân tịnh có đầy đủ công
đức, thật tánh bình đẳng của hết thảy các pháp.
2.-Bảo Thân, hay thọ dụng thân,
là thân của các Như Lai do thành tựu công đức tu hành trãi qua ba đại kiếp
mà được.
3.-Ứng Thân, hay biến hóa thân, là
thân chư Phật do trí thành sở tác mà biến hóa ra thành vô lượng thân,
ứng theo căn cơ của chúng sanh mà hóa độ. Như đức Phật Thích Ca là ứng
thân của Phật trong cõi Ta-bà này. Vậy đại Nhựt Như Lai (hay Tỳ Lô Giá
Na), không phải là đức Phật Thích ca như một số người lầm tưởng, mà
chính là pháp thân Phật.
Theo các tôn phái khác thì pháp
thân không có hình tướng, không thuyết pháp chỉ báo thân và ứng thân,
như đức Phật Thích Ca mới có hình tướng và nói pháp.
Theo Mật tôn thì có chia ra làm hai
loại giáo pháp; Hiển giáo và Mật giáo.
Những lời dạy của ứng thân Phật,
như đức Phật Thích Ca thì tủy theo căn cơ của mỗi chúng sanh mà chỉ dạy,
tức là pháp môn quyền thiệt hay là Hiển giáo.
Còn Mật giáo là những pháp môn mầu
nhiệm, bí mật mà chỉ những vị đại Bồ tát, nhờ trí huệ sáng suốt,
mới cảm thông, họ lãnh được của pháp thân Phật, như Ngài Bồ tát Kim
cang Tát đỏa, nhờ quán đảnh mà thừa tiếp pháp mầu nhiệm của Đức
Đại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na).
Tóm lại, Mật tôn thuộc về Mật
giáo. Vị Giáo chủ bí mật là Đức Đại Nhựt Như Lai, (hay pháp thân Phật).
Còn vị sơ tổ của tôn này là Ngài Bồ tát Kim cang Tát đỏa là vị Bồ
tát đã chép lại kinh Đại Nhựt và kinh Kim Cang Đảnh.
II.-TÔN CHỈ VÀ GIÁO
LÝ CĂN BẢN
1.-Lục đại: Mật tôn chủ trương
Lục đại là chơn thật thể của vũ trụ. Lục đại đà: địa đại, thủy
đại, hỏa đại, phong đại, không đại và thức đại. Lục đại là bản
nguyên của các tánh năng sinh (sinh ra), năng lưu (lưu xuất ra).
Trong lục đại thì năm đại trước
thuộc về vật, đại cuối cùng (thức đại) thuộc về tâm. Sau đại này
mỗi mỗi đều dung thông, không ngăn ngại, thâu nhiếp lẫn nhau, làm nhân
làm duyên cho nhau mà sinh ra các pháp.
Lục đại bao hàm 3 phương diện
Thể đại, tức là bản thể chung
cùng của vũ trụ;
Tướng đại, tức là hình tướng
của sự vật và chúng sanh
Dụng đại, tức là ngôn ngữ, động
tác, cong dụng của mỗi sự vật.
Vũ trụ vạn hữu không có cái gì
ra ngoài thể đại, tướng đại, dụng đại.
Thể, tướng, dụng là chúng ta
dùng trí lực chia chẽ ra như thế để dễ quán sát; chứ thực ra ba phương
diện ấy không thể rời nhau, không thể tồn tại riêng rẽ được. Ngoài
thể đại, thì tướng đại và dụng đại cũng không thể có được; ngoài
tướng đại thì thể đại và dụng đại cũng không thể có được. Vì vậy
xét một phương diện thì rõ được cả ba.
Như chúng ta đã thấy ở đoạn trên:
sáu đại dung thông, thâu nhiếp lẫn nhau, và ba phương diện: thế, tướng
, dụng cũng không thể rời nhau, nên vũ trụ vạn hữu, mặc dù muôn hình
vạn trạng, rộng lớn vô biên, vẫn có lý dung thông vô ngại, châu biến
khắp tất cả. Cái đó gọi là lý tánh hay chơn như. Lý tánh hay chơn như
là nồng cốt của sự tướng nhưng nếu không có sự tướng, thì chơn
như hay lý tánh cũng không thể biểu dương được. Lý tánh và sự tướng
là hai khía cạnh tịnh và động của nhất như. Nói tóm lại, có lý tức
có sự, có sự tức có lý. Lý tánh của vũ trụ vạn hữu cũng tức là Phật
tánh. Như vậy, Phật tánh đều sẵn có trong mọi chúng sanh, trong mọi
hình thức.
Muốn chứng ngộ Phật tánh, muốn
thể nhập chơn như, trước tiên phải quan sát sự tướng, sự tướng có
thể gồm trong bốn loại sau đây tức là bốn Mạn trà- la.
2.- Bốn Mạn trà- la: Mạn
trà- la nghĩa là tròn trịa đầy đủ, rộng lớn không lường. Bốn pháp Mạn
trà- la, hay gọi tứ Mạn tưởng đại, là bốn tướng rộng lớn, đầy đủ
của bản thể do sáu đại mà biến hiện ra. Bốn pháp Mạn trà- la là:
đại Mạn trà- la.- nghĩa rộng là
thân của các loài hữu tình trong mười pháp giới, là sắc tướng của môn
pháp trong vũ trụ, các sắc tướng của môn pháp trong vũ trụ, y theo lục
đại mà hiện.
Nghĩa hẹp là chỉ cái sắc tướng trang nghiêm của Phật, Bồ tát được
thể hiện trong các pho tượng chạm trổ, tô vẽ.v.v...
Tam muội gia Mạn trà- la.- nghĩa rộng
là hết thải các cơ khí trong vũ trụ, những vật dụng thường ngày của
chúng sanh, hay rộng hơn nữa là cái đặc tánh riêng biệt của mỗi pháp,
núi, sông, cây cỏ...nghĩa hẹp là chỉ những vật mà Phật và Bồ tát thường
cầm như hoa sen, ngọc bửu châu, cành dương liễu để tiêu biểu cho lời
thề nguyện hay cái đặc tánh thù thắng riêng của quý Ngài trong việc cứu
độ chúng sanh.
Pháp Mạn trà- la. -nghĩa rộng là hết
thảy âm thanh, lời nói, hình ảnh, tên gọi, ký hiệu trong vũ trụ. Nghĩa
hẹp là chỉ cho những chủng tử hay chơn ngôn của các đức Phật hay Bồ
tát. Chủng tử ở đây tức là chữ cái. Chữ tiêu biểu cho bản thể của
Phật và Bồ tát, như chủng tử của đức Đại Nhựt Như Lai (đọc là
A), chủng tử của Ngài Kim Cang Tát đỏa (đọc là Hùm). Còn chơn ngồn tức
là Mật chú, và danh hiệu của Phật, Bồ tát cùng tất cả văn nghĩa trong
các kinh điển.
Yết ma Mạn trà- la:- Yết ma là cử
động làm các sự nghiệp. Vậy nghĩa rộng của Yết ma Mạn trà- la là chỉ
cho hết thảy động tác của chúng sanh và môn vật. Nghĩa hẹp là chỉ cho
hết thảy oai nghi động tác của chư Phật và Bồ tát để làm các sự
nghiệp độ sinh.
Bốn Mạn trà- la này đồng thời tồn tại, đã có một Mạn trà- la, tức
phải có ba Mạn trà- la kia. Bốn Mạn này Phật, Bồ tát và chúng sanh đều
có. Bốn mạn của Phật không lìa bốn mạn của chúng sanh; bốn mạn của
chúng sanh không lìa bốn mạn của Phật. Vì thế, kinh thường gọi là bốn
mạn không lìa nhau.
III.- PHƯƠNG PHÁP TU
HÀNH
Cũng như các tôn phái khác trong Phật
Giáo, sự tu hành của Phật tôn có hai pyương diện: Sự và Lý, hay nói
theo danh yừ của Mật tôn là Giáo tướng và Sự tướng.
Sự tướng là tất cả những thực
hành như tụng chú, kết ấn, cúng dường, lập đàn ...Tất cả những thực
hành ấy phải theo đúng khuôn phép nhất định, chứ không thể dùng ý
riêng mà làm càn được.
‘’Giáo tướng’’ là tất cả
những ý nghĩa sâu xa mầu nhiệm mà chư Phật và Bồ tát đã rút ra trong sự
tướng để dạy chúng ta.
Người tu hành phải học tập và
thực hành cả hai phương diện ấy,không được thiên bỏ bên nào. Không học
giáo tướng thời không lãnh hội được ý nghĩa của sự tướng để làm
cho đúng. Không học sự tướng thì hết thảy đều là nói suông. Giáo tướng
thì có thể nương theo kinh điển mà học hỏi; còn sự tướng thì phải
có các bậc A xà lê, tức các vị truyền đạo của Mật tôn, truyền cho mới
biết được.
Ngoài sự tu hành thường ngày, phương
pháp tu hành trọng yếu của Mật tôn là Tam mật.
Tam mật là phương pháp tu hành mầu
nhiệm dựa trên thân. Ngữ, ý. Tam mật gồm có: Thân mật, ngữ mật (khẩu
mậy ) và ý mật.
Như trên đã nói , chúng sanh và đức
Như Lai đều có sáu đại làm thẻ, bốn pháp Mạn tà la làm tướng, không
sai khác. Vậy Như Lai và chúng sanh thì thể tướng mật. Như đức Đại Nhựt
Như Lai đều có tam pháp giới là thân mật, hết thảy tiếng tăm là ngữ
mật,. Cái thức lớn bao khắp tất cảlà ý mật. Còn chúng sanh , thì tay băý
aán là thân mật, miệng niệm chơn ngôn là ngữ mật, tâm chuyên vào
tam-ma-địa (thiền định) là ý mật.
Nhưng Phật và chúng sanh khác nhau
ở tịnhvà nhiễm, ngộ và mê, giải thoát và ràng buộc. Vậýc muốn được
như Phật , phải tu hành theo phép tam mật. Nhờ tay bắt ấn mà tịnh được
thaan nghiệp, miệng niệm chơn ngôn mà tịnh được khẩu nghiệp, trs quán
tưởng đức Đại Nhựt Như Lai mà dẹp được vọng tưởng, ý nghiệp
được thanh tinh. Sự tu hhành tam mật có thể chia làm hai giai đoạn lớn.
Giai đoạn đầu gọi làtam mật gia
trì. Trong giai đoạn này, sau khi hành-giả đã làm chủ được thân, ngữ,
ý rồi thìtâm thủy ( tâm vắng lặng như nước đứng yên ) cả mình được
ánh sáng mầu nhiệm của Địa Nhựt Như Lai chói rọi vào, tức là
"Gia"; Và tâmthùyminh cùng cảm chịu, thu nhận được ánh sáng mầu
nhiệm ấy tức là "Trì". Một bên thì "Gia", một bên
thì"Trì", hai bên thừa tiếp nhau nên gọ là Tam mật gia trì.
Giai đoạn thứ hai gọi là Tam mật
du già. Khi giai đoạn Tam mật gia trì đã thuần thục, thì ánh sángcủa
đưc Đại Nhựt Như Lài là ánh sáng ttrong tâm thủy của hành-giả hiệp
nhau ( du già) không sai không khác, thì gội là "Tam mậu du già". Đến
đây tức là công phu tu hành hữu tướng tam mật đã thành tựu .
IV.-QUẢ VỊ TU CHỨNG
Hành-giả sáu khi đã thành tựuTam-mật
hữu tướng, thông suốt được ýnghĩa mầu nhiệmcủa bốn mạn-trà-la,
thì nhất cử, nhaạt động đều rập khuốnđung theo oai nghi của Phật , làm
lợi lạc cho chúng sanh một cách tự nhiên, có làm tất cả mọi việc lợi
ích mà như không làm. Đó tức là vô tướng tam mật.
Đến độ vô tướng tam mậtthì mọi
hành vi cử động đều tòan là ấn cả, hết thãy lời nói đều là chú
và chơn ngôn, hết thãy ý nghĩ đều là diêu quán cả. Do đó mà trong kinh
có câu nói sau đây để hình dung hạng người đã chứng được vô tướng
tam mật: "mỡ miệng ra tiếng, chơn ngôn diệt tội; dơ tay động chân,
đều thành mật ấn; theo việc khởi niệm, diệu quán tự thành".
Đó cũng là ý nghĩa của bốn chữ"tức
thân thành Phật "; nghĩa là hiện đời thành Phật.
V.-KẾT LUẬN
Sự lợi ích tu về Mật tôn, đến
khi kết quả cùng tộtcũng đồng một mục đích như các pháp môn khác;
nghĩa là ba nghiệp thanh tịnh. Thaan ngồi trì chú, tay bắt ấn, nên thân
không làm các việc tội ác, vì thế mà thân nghiềp được thân tịnh
(thân mật). Miệng đọc thần chú, nên miệng không nói các điều tội lỗi,
vì thế mà khẫu nghiệp được thanh tịnh (nhữ mật). Tâm tưởng chú hoặc
quán tưởng những chữ thần chú, nên tâm không nghĩ tưởng những điều
tội lỗi, vì thế nên ý nghệp được thanh tịnh ( ý mật) Kinh chép:
"Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Taay phương".nghĩa là:nếu
ai ba nghiệp chướng thanh tịnhthì được về tây phương đồng ở với Phật
.
Trì chú có rất nhiều lợi ích, như
trì chú vãng sánhẽ nhỗ sạch hết gốc rễ của nghiệp chướngvà được
sanh về Tịnh độ (bạt nhứt thế nghiệp chướng căn bản, đắc sanh Tịnh
độ Đà-la-ni); trì chú lăng nghiêm sẽ được tiêu trừ các oan gia nghiêp
chướng và tình ái-dụcnặng nề từ nhiều kiếp trước, như ông A-nan và
bà Ma-Đăng-Già ( xin quý vị xem quyển Đại cương Lăng nghiêm về đoạn nói
lớiich trì chú Lăng nghiêm); trì chú phổ am sẽ tiêu trừ được phục thi
cốt khí các yêu tinh quỷ quái trong gia trạch; triều ttrì Ngủ bộ chú hay
Đaị bi thập chú sẽ được phước huệ tăng long, tùy tâm hành-giả cầu
như thế nào, sẽ được mãn nguyện như thế ấy.