- Mười tôn phái Phật
Giáo ở Trung Hoa
- HT. Thích
Thiện Hoa
9.-
CÂU XÁ TÔN ( HỮU TÔN)
I.- DUYÊN KHỞI LẬP
TÔN
Tôn này thuộc về Tiểu-thừa,
phát xuất từ bộ luận Câu xá của Ngài Thế-Thân. bộ luận Câu xá lại
dựa theo ý-nghĩa của bộ kinh Đại Tỳ-Bà-Sang (Mahavibhasacastra) mà thành lập.
Bộ luận Câu xá được Ngài Trần-Chân-Đế dịch và truyền sang Tàu rất
sớm, nhưng về sau bị thất truyền. Trong giai đoạn đầu nầy, Câu-xá
tôn chưa thành một tôn phái riêng biệt ở Trung Hoa. Chỉ đến khi Ngài Huyền-Trang
đi thỉnh kinh ở Ấn Độ trở về, đem dịch lại bộ luận. Câu xá và đệ
tử của Ngài là Đại sư Phổ Quang dựa theo bộ luận nói trên mà ra bộ
"Câu xá thuật ký", và Ngài Pháp bảo làm bộ "câu xá luận sớ"
thì Câu xá tôn mới thành một tôn và được thạnh hành ở Trung Hoa. Nhưng
hết đời Đường (từ đầu thế kỷ thứ VII đến cuối thế kỷ thứ
IX) thì tôn này lại dần dần suy tàn và nhường địa vị quan trọng cho
phái Đại -thừa khác, thích hợp với triết học và tâm lý của nhưng
Trung Hoa hơn.
II.- TÔN CHỈ VÀ
GIÁO LÝ CĂN-BẢN
1.- Tôn chỉ: Tôn này chủ trương
"ngã không pháp hữu", nghĩa là không có thật ngã nhưng có thật
pháp.
Đối với các tôn giáo khác thì chủ
trương có một cái thật ngã, chủ tế thường nhất, một cái linh hồn trường
tồn bất biến, mặc dù mọi sự vật đổi thay, sống hay chết. Theo Câu
xá tôn thì một cái ngã như thế không thể có được, vì mọi sự vật
trong vũ trụ, kể cả con người đều giả hợp mà thành, chứ không có một
vật gì đồng nhất và bất biến. Đây cũng là chủ trương chung của các
giáo phái khác trong Phật giáo. Điểm sai khác giữa Câu xá tôn với các
tôn phái khác là: Câu xá tôn thì chủ trương Pháp hữu, trong khi các giáo
phái khác thì bảo rằng pháp không. Pháp hữu, nghĩa là bản thể thật tại
của các pháp, hay nói một cách dễ hiểu hơn, nguyên liệu sanh ra các sự
vật trong vũ trụ, là thường có, là có thật. Thí dụ: con người không
có thật ngã, nhưng những nguyên liệu làm ra con người, như ngũ uẩn, tứ
đại là thật có.
2.- Vũ trụ quang: Câu xá tôn
phân biệt vũ trụ vạn hữu ra làm hữu vi pháp và vô vi pháp. Hữu vi pháp
chỉ về hiện tượng trong hiện tượng giới, có sanh diệt, chuyển biến.
Vô vi pháp chỉ về cảnh giới thường trụ, không sanh diệt, chuyển biến,
cũng tức là chỉ về lý thể.
Hữu vi pháp gồm có 72 món, và vô
vi pháp gồm có 3 món, cộng tất cả là 75 món, hay 75 pháp.
Trong phạm vi nhỏ hẹp của tập sách, chúng tôi
không thể đi sâu đễ giải thích từng pháp một được. Tuy thế đễ có
một ý-niệm về các loại pháp ấy, chúng tôi xin sơ lược đại khái sau
đây:
Sắc pháp: phàm cái có thể hư
nát và có tánh cách chướng ngại đều thuộc về sắc pháp. Trong 11 nhóm
thuộc về sắc pháp, gồm có năm căn và năm cảnh, thì độc giả cũng biết
rồi, không cần phải giải nữa; còn món thứ 11 là vô biểu sắc cần phải
giải thích. Vô biểu sắc là cái sắc pháp không biểu hiện ra ngoài (pháp
trần), đó làđối tượng của ý căn.
Tâm pháp: Cũng gọi là Tâm Vương,
vì nó có năng lực chủ động như ông vua có quyền chủ trương trong một
nước. Tâm vương có ba tên: Tâm, ý và thức. Theo câu xá luận thì:
"nhóm góp các tập quán mà khởi ra gọi là tâm; nghĩ ngợi gọi là ý;
phân biệt gọi là thức".
Tâm sở pháp:là cái pháp sở
hữu phụ thuộc của tâm vương, như các ông quan phụ thuộc vào quyền sai
sử của ông vua, hay các nhân viên phụ thuộcdưới sư điều khiển của
ong chủ.
Bất tương ưng hành pháp:Có
thể gọi tắt làcái pháp bất tương ưng, nghĩa là các pháp không thuộc về
sắc, mà cũng không hẵn thuộc về tâm, nhưng là kết quả của sự tiếp
xúc giữa tâm và sắc.thí dụ như sự "sự được "
Là một pháp bất tương ưng. Khi ta được một
cái gì, "sự được " áy không thuộc vêăsc pháp , cũng không thuộc
về tâm pháp . "Cái mà ta được " là sắc pháp , "cái nỗi nỗi
vui mừng " khi được là tâm pháp , còn "sự được" không thể
liệt vào sắc pháp hay tâm pháp được , vì thế cho nên gọi là bất tương
ưng hành pháp .
Vô-vi-pháp: nghĩa là những
pháp không sanh diệt, chuyển biến, vượt ra ngoài ự dối đãi.Vô vigôm
có ba pháp là:trạch diệt vô vi, phi trạch diệt vô vivà hư không vô vi.
Bảy mươi lăm pháp này bao gồmtất
cả sự vật trong vữ trụ.
Sự vật trong vũ tru ia ra làm hai
loại lớn là:hữu tình thế gian và khí thế gian.
-Hữu tình thế giántưc là toàn thể
chúng sanh , có sự sống.
-Khí thế giántưc là hoàn cảnh mà
chúng sanh nương vào để sống như đất cát, núi, sông, nhà, cửa v.v ..
Xét về phương diện thời gian, thì
vũ trụ là vô thỉ vô chung, nghĩa là không có lúc bắt đầu và củng là
không có lúc chung cục, mà chỉ có sự thay đổi, biến chuyển thôi. Trong
vũ trụ có hằng hà sang thế giới, thế giới này thành, thì thế giới
kia hoại, đắp đỗi cho nhau. Tuy thế, riêng mỗi thé giới, từ khi danh
thành cho đến khi tiêu diệt, phải qua bốn giai đoạn ( thành, trụ, hoại,
không) gồm một đại kiếp, tức là một ngàn hai trăm tám chục triệu năm
(1.280.000).
Xét về phương diện không gian,thì vũ trụ rộng
lớn không thể tưởng tượng được .Trước tiên đon vị nhỏ nhấtcủa
vũ trụlà thế giới(như thế giới nhỏ mà ta đang ở đây).
Họp một ngàn thế giới mới
thànhd một tiểu thiên thế giới; họp một ngàn tiểu thiên thế giới mới
thành một trung thiên thế giới;họp một ngàn trung thiên thế giới mới
thành một đại thiên thế giới. Như thế một đại thiên thế giới gồm(1.000*1.000*1.000)
một ngàn triệu thế giốwi nhỏ (như thế giới chúng ta đang ở dây) . nhưng
trong vũ trụ không phải có mđại thiên thế giới mà có vô lượng vô số
đại thiên thé giới; cho nêntong kinh thường nòila:thập phương vi trần thế
giới ( mười phương thế giới nhiều như cát bụi ) hay thập phương hằng
hà sang thế giới ( mười phương thế giới nhiều như cát sông hằng ).
Xét về phương diện phẩm chất thì vũ trụ
chia làm ba tầng bấc cao tháp khác nhau, củng gọi là tam giới, hay ba cõi
là: dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
Dục giới là cõi của loài hữu
tình chư Ấn Độ xa lìa được dâm dục và thực dục. Trong dục giới có
sáu loại chúng sanh là thiên, nhơn, atula, súc sinh, ngạ quỷ,địa ngục.
Sắc giới là cõi của loài hữu tình có hình sắc
tốt đẹp, đã rời bỏ được dâm dục và thực dục. Cõi này có bốn bậc
là:Ly sanh hỹ lạc địa, Định sanh hỷ dục địa, Ly hỷ diệu lạc địa
và Xã niệm thanh tịnh địa.
Vô sac giới là cõi không có hình sắc
. các loài hữu tình sanh trong cõi này chỉ có tâm thức màthôi. Cõi này củng
chia làm bốn từng bậc cao thấp, thông thường gọi là tứ không thiên:
không vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ.
3.- Nhân sanh quan: chúng sanh
nói chung, và con người nói riêng, do đâu mà có? Và đời sống chúng sanh
có giá trị như thế nào?
a)Theo câu xá tôn, thì chúng sanh sở
dĩ bị xoay chuyển trong vòng sanh tử luân hồi, là do "nghiệp cảm
duyên khởi", nghĩa là do mê hoặc mà tạo nghiệp, do tạo nghiệp mà cảm
thọ các quả báo.
Thế nào gọi là hoặc? Họăc nghỉa
là mê mờ, không sáng suốt, không biết đâu là phải, đâu là trái tức
là vô minh, mê vọng. Hoặc có hai loại: bổn hoặc và tùy hoặc, Bổn hoặc
là sự mê lầm cội gốc, củng gọi là căn bản phiền não, như tham, sân,si,mạn,
nghi, ác kiến. Tùy hoặc là những mê lầm dựa theo bổn hoặc mà phát
sinh, cũng gọi là tùy phiền não.
Trong sáu bổn-hoặc nói trên, thì năm hoặc đầu:
tham, sanh, si, mạn, nghi, vì tánh chất chậm-lụt, ăn sâu gốc rễ trong
thâm tâm chúng ta, rất khó dứt trừ, nên gọi là ngũ-độn-sử (sử là
sai sử, xúi sử; những hoặc này sai khiến một cách tiềm tàng, sâu kín
loài hữu tình làm cho chúng sanh cứ luẩn quẩn trong chổ mê lầm nên gọi
là độn-sử).
Còn hoặc thứ sáu là ác kiến, vì
tánh chất nó lanh lẹ, không ăn sâu gốc rễ trong thâm tâm và dễ dứt trừ,
nên gọi là lợi sử. A飭kiến hay lợi sử gồm
có năm thứ là: Thâm kiến, Biên kiến, Tà kiến, kiến thủ, và giới cấm
thủ.
Thân kiến: là chấp một
cách sai lầm rằng cái thân do ngũ uẩn giả hiệp này là có thật ngã.
Biên kiến: là chấp sai lầm
rằng cái thân này chết rồi thì tiêu diệt hẳn, không còn gì cả (đoạn
kiến) hay trái lại, chấp cái thân này chết rồi, linh hồn vẫn còn mãi
mãi (thường kiến). Những sự chấp ấy làm mất hẳn lý trung đạo, nên
gọi là biên-kiến.
Tà-kiến: là chấp những đạo
lý mơ hồ tà bậy và bài bác những lý nhơn quả chơn chánh.
Kiến-thủ: là chấp chặt kiến
giải sai lầm của mình, mà không chịu theo đời các bậc hiển thánh.
Giới cấm-thủ: là giữ giới
sai-lầm như những giới khổ hạnh của ngoại đạo v.v...
Do những bổn-hoặc và ác kiến
nói trên sai sử, chúng sanh tạo ra các nghiệp, làm nhân quả cho nhau và
khiên sau khi cho chúng sanh phải xoay vần mãi trong sanh tử luân hồi. Nghiệp
có ba thứ: ý-nghiệp, tức là tự suy nghĩ, hành đọng của ý niệm; ngữ-nghiệp,
tức là sự nói năng; thân nghiệp, tức là những hành động về thể xác.
Nghiệp có ba tánh là: lành, dữ và vô ký (nghĩa
là trung bình, không lành, không dữ). Nghiệp lành thì có quả báo lành,
nghiệp dữ thì có quả báo dữ. Còn nghiệp vô-ký thì có quả báo không
lành không dữ.
Nghiệp lành, cũng như nghiệp dữ,
đều có mười thứ:
Mười nghiệp dữ là: giết hại,
trộm cắp, tà dâm, nói dối gạt, nói thiêu dệt, nói chia rẽ, nói độc
ác, tham lam, giận giữ, si mê.
Mười nghiệp lành là: không giết hại, không trộm
cắp, không tà dâm, không nói dối gạt, không nói thiêu dệt, không nói
chia rẽ, không nói độc ác, không tham lam, không giận giữ, không si mê.
Quả-báo của mười nghiệp lành
và mười nghiệp dữ có mau và chậm, nghĩa là có khi xảy ra trong một đời,
có khi hai ba đời sau mới thọ quả-báo.
Khi thời kỳ cảm quả chịu báo đã
xác định, thì gọi là định nghiệp. Trái lại, htì gọi là bất định
nghiệp. Bất định nghiệp có hai thứ: một là quả báo đã định mà thời
kỳ chịu quả báo chưa định; hai là cả quả báo và thời kỳ chịu quả
báo đều chưa định.
b). Trên đây là nói lý do vì sao có sự hiện diện
của chúng sanh trong thế giới này. Dưới đây, chúng tôi sẽ nói đến giá
trị của sự hiện diện ấy theo quan niệm của Câu xá tôn, tức cũng là
quan niệm của Tiểu-thừa Phật giáo.
Quan niệm ấy, không xa lạ gì đối
với chúng ta. Đó là cõi đời là một bể khổ, trong ấy, chúng sanh đang
lặn hụp, trôi lăn, sống chết. Con người khổ vì sanh, lão, bệnh, tử.
Con người khổ vì yêu nhau mà phải xa lìa, ghét nhau mà phải chung sống,
muốn một đàng mà thực tế đưa đi một nẻo. Con người khổ vì tai trời,
nạn nước: bão, lụt, chiến-tranh, trộm cướp v.v...Con người khổ vì sống
trong một hoàn cảnh mê mờ, tối tăm, không biết đâu là thật, đâu là
giả, đâu là hạnh phúc chân thật, đâu là ảo ảnh giả dối. Con người
khổ vì mong được trường tồn àm cõi đời lại vô thường, luôn luôn
biến đổi, có đó không đó, có đó mất đó, như một trò mộng huyễn.
Con người khổ vì tưởng rằng có một cái thật-ngã làm nồng cốt cho sự
sống, thuần nhất, tự tại, ngờ đâu cái Ngã ấy là giả dối, không có
thật vì bị hoàn cảnh chi phối làm cho điêu đứng, đảo điên.
Tóm lại, cõi đời là một bể khổ
làm bằng nước mắt của tất cả chúng sanh.
III.- PHƯƠNG PHÁP TU
HÀNH
1.- Tứ-diệu-đế
Muốn giải thoát ra ngoài bể khổ mênh mông của
cõi đời, Câu xá tôn chủ trương phải tu theo pháp "Tứ-diệu-đế".
Tứ diệu đế tức là bốn lẽ chân thật đưa người tu hành từ cảnh
mê đến cảnh ngộ, từ cõi Ta bà đau khổ, đến cảnh giới Niết bàn tịch
tịnh.
- Diệu đế thứ nhất chỉ rõ cho
người tu hành thấy cõi đời là đau khổ.
- Diệu đế thứ hai chỉ rõ cho người
tu hành thấy được nguyên nhân của sự đau khổ trong cõi Ta-bà.
- Diệu đế thứ ba chỉ rõ cảnh giới an lạc sau
khi ra khỏi cõi đời đau khổ.
- Diệu đế thứ tư chỉ rõ con đường tu hành để
đi đến cảnh giới an lạc Niết bàn.
Bốn Diệu đé ấy tức là: khổ, tập, diệt, đạo
vậy.
2.- Thập nhị nhân-duyên
Với những căn cơ lanh lợi, thì có thể tu theo
pháp Thập-nhị-nhân-duyên. Thập-nhị-nhân-duyên là 12 nhân duyên kế tiếp
theo nhau, làm nhân, làm quả, khiến cho chúng sanh phải mãi mãi xoay vần
trong bể khổ sanh tử luân hồi. Mười hai nhân duyên ấy là: vô minh,
hành, thức, danh sắc, lục thập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử.
Mười hai nhân duyên này như mười hai vòng xích nối liền với nhau làm
thành một chuổi xích, không biết đâu là đầu, đâu là cuối. Nếu cắt
đứt được một vòng xích thì chuổi xích ấy tất phải phải đứt đọan.
Đối với kẻ tu hành, muốn chấm dứt sanh tử luân hồi, thì cái mắc
xích cần phải bị cắt đứt là ‘’ái’’. A驠ở đây tức là luyến ái. Vì luyến ái nên mới có thủ
cho mình, rồi ‘’thủ’’ sanh ra ‘’hữu’’. Và từ đó, cái vòng
sanh tử lại tái diễn. Vậy không có ‘’ái’’, thì không có ‘’hữu’’,
không có ‘’hữu’’ thì không có ‘’sanh’’, không có ‘’sanh’’
thì không có ‘’lão tử’’, nghĩa là không có khổ đau.
IV.- QUẢ-VỊ TU CHỨNG
1.- Người tu theo pháp Tứ-diệu đế, nếu mau lắm
thì cũng phải trải qua qua ba đời, còn nếu chậm, thì phải tải qua 60 kiếp,
mới chứng được A-la-hán, la fcõi cao nhất của hàng Thanh Văn.
Trước khi chứng được quả vị
A-la-hán, hành-giả tuần tự chứng các quả dưới đây:
Tu-đà-hoàn, Tàu dịch là Nhập
lưu, hay Dự lưu, nghĩa là bắt đầu nhập vào dòng Thánh.
Tư-đà-hàm, Tàu dịch là Nhất
lai, nghĩa là còn phải đầu thai vào cõi Dục-giới một lần cuối cùng nữa,
để tu hành cho rốt ráo, trước khi vĩnh viễn xa rời cõi này.
A-na-hàm, Tàu dịch là
Bât-lai, nghã là không còn phải đầu thai vào cõi Dục-giới nữa. Hết bực
này là đến quả vị A-la-hán.
A-la-hán, Tàu dịch là Ứng-cúng
hay Vô-sanh, nghĩa là dứt bỏ được cái điều mê lầm trong cõi Sắc giới
và Vô- sắc giới, không còn phiền não, không còn chịu sanh tử luân hồi,
vượt ra khỏi ba cõi, hưởng sự cúng dường của thiên và nhân. Bậc này
gọi là bậc Vô-học, nghĩa là không phải tu học pháp gì nữa.
2.- Đối với lối tu Duyên-giác, nghĩa là tu theo
lối quán 12 nhân duyên, thì quả vị không có chia ra nhiều tầng bậc, chẳng
qua khi đang tu hành thì gọi là Duyên-gíac hướng, nghĩa là đi lần tới mục
đích của sự tu hành là quả Duyên-giác. Còn khi tu được đầy đủ, dứt
mối mê lầm, chứng được chân lý, thường hưởng được cái vui giải
thoát trong cảnh Niết-bàn, thì gọi là Duyên-giác quả. Vị chứng được
quả này thì gọi là Bích-chư-Phật, tức là vị Phật tự giải thoát cho
mình, nhưng chưa có thể giác tha. Từ khi bắt đầu tu hành cho đến khi chứng
quả Duyên-giác, thời gian dài ngắn khác nhau tùy theo căn cơ của kẻ tu hành:
vói căn cơ lanh lợi thì ít ra cũng phải trải qua bốn đời tu luyện; với
căn cơ chậm lụt thì phải trải qua 100 kiếp tu hành.
V.- KẾT LUẬN
Câu xá tôn, mặc dù chỉ là một tôn phái trong
nhiều tôn phái của Tiểu-thừa, nhưng có thể đại diện một cách gần
đấy đủ cho phái Tiểu-thừa Phật giáo. Bởi thế , Câu xá tôn, chúng ta
có thể hiẻu một cách khá tường tận giáo lý căn bản và phương pháp
tu hành của hàng Tiểu-thừa trong quá khứ xa xưa.
Nhưng từ khi tôn này được thành
lập ở Trung Hoa đến bây giờ, thời gian đã trôi qua hơn một ngàn năm.
Trong thời gian ấy, chắc cũng có nhiều sự biến đổi trong chi tiết. Chúng
tôi rất tiếc không có nhiều tài liệu để nghiên cứu một cách đầy đủ
những biến chuyển của tôn này qua thời gian và sự tồn tại của nó
trong hiện tại như thế nào. Do đó, chúng tôi thành thật đề nghị với
quý độc giả hãy xem bài này như một bài nghiên cứu về một trong mười
tôn phái ở Trung Hoa, chứ chưa phải một ‘’con đường’’ hoàn bị, hướng
dẩn trực tiếp quý vị vào sự tu luyện. Chúng tôi muốn nói, nếu quý vị
thấy căn cơ mình thích hợp với giáo lý Tiểu-thừa, mà muốn bắt tay
vào sự tu luyện, thì cũng cần tìm đọc thêm nhiều nữa và nghiên cứu
cho đến nơi đến chốn, để khỏi lạc hướng sai đường.