- Chín yếu tố phát triển
thiền quán
- Tác giả: Sayadaw U Kundalàbhivamsa
- Dịch giả: Tỳ kheo Thiện Minh
- Chương XI
- Yếu Tố Thứ Chín
Trước khi đến Đạo, Quả, sự
tinh tấn không ngừng là một yếu tố bổ sung cho việc hành thiền.
Hành giả phải tâm niệm rằng
mình cần có thái độ tích cực việc hành thiền. Chừng nào chưa đạt đến
Đạo Quả thì hành giả chưa thể buông lơi hay từ bỏ sự tinh tấn. Giữ
cho tâm mạnh mẽ và tinh tấn không ngừng trong tu tập là một yếu tố để
phát triển ngũ quyền. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Chưa thành tựu đạo quả
Quyết chí không nản lòng.
Những người xuất gia phải hành
thiền càng liên tục càng tốt, và cố gắng duy trì sự tinh tấn cho đến
khi đạt được Đạo, Quả, Niết bàn.
Còn các cư sĩ tại gia mặc dầu phải
rời trường thiền vì những lý do riêng, nhưng quí vị không nên từ bỏ
việc hành thiền khi trở về với cuộc sống bình thường. Quí vị nên cố
gắng hành thiền bất cứ khi nào hoàn cảnh cho phép. Quí vị nên tự nhắc
nhở mình dành ra mỗi ngày mười lăm phút, nửa tiếng hay một tiếng vào
buổi khuya trước khi đi ngủ, hoặc lúc sáng sớm, để hành thiền. Được
vậy quí vị sẽ không đánh mất sự tinh tấn.
Bằng cách đó hành giả sẽ thấy
ngũ quyền được tăng trưởng và giáo pháp trở nên rõ ràng hơn tương xứng
với sự tinh tấn của hành giả. Tùy theo mức độ ba-la-mật của mình,
hành giả có thể thấy pháp một cách tường tận hơn.
Ngày xưa có nhiều người bận rộn
bao nhiêu công việc của đời sống thế gian mà vẫn giác ngộ được
nghĩa lý cao siêu của giáo pháp vì họ đã cố gắng dành thời gian cho việc
thực hành thiền quán.
a. Một tăng sinh chứng Quả A-la-hán:
Ngày xưa, có một tăng sinh chỉ mới
ba tuổi hạ tên là Maliyadeva tìm đến một tu viện nổi tiếng tên là
Mandalarama để học về pháp học. Ở đó vị tăng sinh vẫn hành thiền bất
cứ khi nào có thời gian rãnh rỗi.
Một hôm, khi đang đi khất thực
trong thành Kalla, vị tăng sinh được một bà thí chủ dâng cháo. Vừa gặp
vị này, bà bỗng phát sinh một tình cảm thương yêu trìu mến, giống như
tình cảm người mẹ dành cho con. Bà thỉnh vị tăng sinh về nhà để bà
được cúng dường tứ vật dụng và hỏi han về tu viện nơi vị ấy tu học.
Biết vị ấy đang học ở tu viện
Mandalarama, bà thỉnh vị ấy mỗi ngày đều đến nhà bà để bà cúng dường
trong suốt thời gian học ở đấy.
Vị tăng sinh nhận lời và hàng
ngày đến nhà bà thọ bát. Mỗi lần như vậy Ngài đều cầu chúc cho bà
thí chủ được giàu có và thoát khỏi cảnh nghèo khổ. Ngài cầu chúc bằng
một giọng rất hoan hỷ rồi ra về. Suốt cả ba tháng hạ Ngài chỉ cầu
chúc có hai điều đó thôi.
Tuy đang học pháp học nhưng mỗi
khi rảnh rỗi, tăng sinh Maliyadeva đều thực hành thiền quán. Nhờ tinh tấn
như vậy nên đến ngày cuối cùng của mùa an cư, Ngài trở thành một vị
A-la-hán có tứ vô ngại giải.
Hòa thượng trụ trì tu viện
Mandalarama mời Đại Đức Maliyadeva đến và thỉnh ngài thuyết pháp cho hội
chúng vào ngày tự tứ. Đại Đức Maliyadeva đồng ý nhận thuyết pháp
hôm đó.
Khi các vị Sa-di trong tu viện nghe
tin này, họ đến báo cho bà thí chủ đã cúng dường hàng ngày cho Đại
Đức biết là Ngài sẽ thuyết pháp và bảo bà nên đến dự.
Bà thí chủ cho rằng các vị Sa-di
nói đùa bởi vì Đại Đức Maliyadeva đâu có biết thuyết pháp. Trong suốt
cả ba tháng hạ mà Ngài chỉ biết chúc phúc cho bà bằng hai câu là được
giàu sang và thoát khỏi nghèo khó. Các vị Sa-di trả lời rằng họ cũng không
chắc là Đại Đức Maliyadeva có biết thuyết pháp hay không, nhưng tin đó
là đúng vì chính Hòa thượng trụ trì báo cho họ biết. Vì vậy họ bảo
bà thí chủ cứ đến tu viện ngày hôm đó.
Buổi chiều, bà đem hương hoa đến
cúng dường, và khi vào trong tu viện bà tìm một góc để ngồi cách xa với
hội chúng. Bà rất lo lắng cho Đại Đức Maliyadeva, sợ rằng Ngài không
thể thuyết pháp giữa một hội chúng đông đảo như vậy.
Đến giờ thuyết pháp, Đại Đức
cầm một cái quạt trong tay và thuyết bài pháp chủ yếu dựa trên hai câu
chúc phúc về "giàu" và "nghèo" mà Ngài vẫn thường chúc
cho bà thí chủ trong suốt ba tháng qua. Dựa trên hai câu này Ngài đã triển
khai sâu rộng các chi pháp có trong Tam Tạng. Bài pháp này Ngài thuyết tận
đến khi trời sáng. Khi bài pháp kết thúc, bà thí chủ đoạn trừ mọi tà
kiến và nghi ngờ. Cánh cửa dẫn đến 4 đường ác đạo bị khép lại
và bà đắc quả Nhập Lưu.
b. Tứ Diệu Đế trong "giàu" và
"nghèo"
Trong bài pháp của Đại Đức
Maliyadeva, "cầu cho quý vị được giàu có" nghĩa là cầu cho quý vị
chứng đắc Niết Bàn, vì Niết bàn là tột đỉnh của sự giàu sang. Sự
giàu sang ở đây chính là Diệt Đế. Còn nghĩa của chữ nghèo ở trong
câu "cầu chúc cho quý vị được thoát khỏi nghèo khổ" bao gồm tất
cả sự đau khổ nói chung là Khổ Đế.
Đại Đức Maliyadeva chỉ giải thích
chi tiết Khổ Đế và Diệt Đế trong bài pháp của mình, bởi vì khi có Khổ
Đế tức là Tập Đế diễn ra, và khi có Diệt Đế tức là Đạo Đế đã
được hoàn thành.
Toàn bộ những bài thuyết pháp của
Đức Phật trong suốt 45 năm được kết tập trong Tam Tạng, bao gồm tám vạn
bốn ngàn pháp môn, đều không ra ngoài Tứ Diệu Đế. Tất cả đều chứa
đựng trong Tứ Diệu Đế.
Bài pháp của Đại Đức Maliyadeva
nói về sự giàu có của Niết-bàn, đó chính là sự giàu có hoàn toàn chơn
thật và đúng nghiã còn được gọi là Diệt Đế, mà mọi người bây giờ
cần phải chứng ngộ.
Chỉ khi Diệt Đế được xem là một
nhu cầu thiết thực ngay bây giờ thì mới có thể giải thoát khỏi mọi
hình thức của sự nghèo khổ gọi là Khổ Đế. Nếu không có tâm nguyện
đạt đến chứng Niết bàn thì không thể nào có chuyện thoát khỏi khổ
đau. Không có tâm nguyện đó thì những khổ đau của thân và tâm cứ tiếp
diễn và tiếp diễn mãi.
Để chứng đắc Niết bàn, hành giả
phải tinh tấn tu tập chánh đạo để tu tập chánh đạo thì phải thực
hành thiền quán. Vì vậy cần phải hành Tứ Niệm Xứ bất cứ khi nào thời
gian cho phép.
Những người có hành Tứ Niệm Xứ
đều nhận rằng những đau khổ của thân và tâm (Khổ Đế) đều do Tham
Ái (Tập Đế) gây ra. Hành giả thấy rõ điều này ngay trong mỗi một niệm
tỉnh giác.
Khi đã thường xuyên hành Tứ Niện
Xứ hàng giả đạt được Tuệ Định thấy rõ khổ Đế sinh ra do Tập Đế,
và khi Tuệ định trở nên mạnh mẽ hơn, những đau khổ sẽ giảm đi rất
nhiều và biến mất trong một thời gian.
Đến khi Tuệ Định mạnh mẽ hơn
bao giờ hết, hành giả sẽ thoát khỏi tập Đế (Tham Ái) và chứng đắc
quả Nhập Lưu. Từ đây cánh cửa dẫn đến 4 đường ác đạo đã bị đóng
chặt, và hành giả chỉ sanh về những cảnh giới tốt đẹp (sugati) mà
thôi. Hành giả cũng có thể chứng đắc quả Nhất Lai, Bất Lai, hay A La Hán.
Như vậy hai câu kệ mà Đại Đức
Maliyadeva thuyết trong thời pháp chính là nói về 2 chơn lý cao siêu được
rút ra từ Tam Tạng.
Giống như Đại Đức Maliyadeva đã
chứng đắc quả vị A La Hán trong khi đang học về pháp học, các hành giả
đừng nên quên việc thực hành thiền quán trong khi phải làm những bổn
phận của đời thường. Tùy theo ba la mật của mình, hành giả có thể thấu
hiểu được những giáo pháp thâm sâu vi diệu.
Ngược lại, nếu ngay khi rời trường
thiền hành giả bỏ ngay việc quán niệm thì Ba la mật của hành giả quá
non nớt, khó lòng thấy được pháp cao thượng .
c. Thuyết giảng và thực hành
Để thực chứng giáo pháp cao thượng
thuyết giảng và tinh tấn thực hành những điều được thuyết giảng là
điều kiện tiên quyết. Nếu thiếu một trong hai yếu tố này, hành giả
không thể chứng ngộ giáo pháp cao thượng dù cho hành giả đã có đầy
đủ Ba la mật có thể sẳn sàng tiếp thu những nghĩa lý sâu xa nhất. Xin
hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Pháp cao thượng không sanh
Do thiếu giảng và hành
Nếu giảng, hành hiệp lực
Pháp mầu hiển lộ ngay
Thậm chí ngay trong thời Đức Phật,
có nhiều người mặc dù có đủ ba la mật để tiếp thu lời dạy của Ngài,
nhưng vẫn không đạt được điều gì từ giáo pháp cao thượng chỉ vì
thiếu sự thực hành. Những người đã cố nhiên ngày càng cách xa với
chánh pháp.
Ngày xưa, khi Đức Phật ngự tại
vườn Lộc Uyển, ở thành Benares có một đám cưới giữa con trai ông phú
hộ Mahadana với một thiếu nữ giàu có. Tài sản mỗi bên ước lượng tới
80 tỷ. Sau khi thành hôn, đôi vợ chồng sống rất hạnh phúc ở thành
Benares. Do quá giàu có, họ không cần phải làm lụng để kiếm sống. Họ
cũng không tinh tấn tu hành để chứng đắc đạo quả.
Người chồng, con trai của ông phú
hộ mỗi ngày tới hầu Đức vua ba lần. Trên đường đến hoàng cung anh
ta nhiều lần bị nhóm người ăn chơi nhậu nhẹt rủ uống rược chung vui
với họ. Anh ta không thể từ chối họ được nên chẳng bao lâu đã trở
thành một con ma men bất khả trị. Càng ngày anh ta càng đam mê rượu chè
cùng với lũ bạn nhậu mỗi lúc mỗi đông thêm để rồi cuối cùng phung
phí hết tài sản cho việc ăn chơi và không còn một xu dính túi.
Tiêu hết tài sản của mình, anh ta
lấy tài sản của vợ để tiếp tục chè chén say sưa với lũ bạn vô
công rỗi nghề như anh ta. Chẳng bao lâu tài sản của người vợ cũng tiêu
tùng theo men rượu. Hai vợ chồng quyết định bán hết nhà cửa, tài sản
và đồ đạc, nhưng do người chồng tiếp tục nghiện ngập nên cuối
cùng cả hai trở thành kẻ ăn mày sống nhờ vào lòng từ thiện của mọi
người.
Một hôm, con trai người phú hộ
này đã trở thành kẻ ăn mày đang xin phần thức ăn thừa của một vị
sa di ở trước cổng của nhà nghỉ thì Đức Phật trông thấy. Trước cảnh
tượng đó, Ngài mỉm cười. Đại Đức Ananda liền xin Đức Phật giải
thích lý do vì sao Ngài mỉm cười khi thấy người ăn mày.
Đức Phật thuật lại câu chuyện
của hai vợ chồng giàu có do thiếu chuyên cần tinh tấn nên đã mất hết
tất cả tài sản cả trong đời lẫn trong đạo. Đức Phật kể rằng lúc
đầu cả hai vợ chồng lẽ ra vô cùng giàu có, chỉ cần họ chăm chỉ
trong công việc làm ăn buôn bán thì họ sẽ là người giàu nhất trong giai
cấp quý tộc. Trong giai đoạn này, nếu họ tinh tấn hành thiền, lẽ ra người
chồng đã đắc quả A- la-hán, người vợ đắc quả Bất Lai.
Trong giai đoạn thứ hai của đời
họ, nếu chịu khó làm ăn, họ đã có thể giàu có vào hạng nhì trong giới
quý tộc. Và nếu lúc đó họ biết tu tập thì lẽ ra người chồng đã đắc
qủa Bất Lai và người vợ đắc quả Nhất Lai.
Đến giai đoạn thứ ba, nếu họ
không quá lười biếng như vậy thì lẽ ra cũng xếp hạng ba trong số những
người giàu có. Và nếu biết hành thiền, lẽ ra người chồng đắc quả
Bất Lai và người vợ đắc quả Nhập Lưu.
Nhưng bây giờ, trong hoàn cảnh khổ
sở của họ, họ đã đánh mất cả hai dịp may là giàu có trong của cải
thế gian và giàu có trong tinh thần trên con đường dẫn đến Đạo Quả.
Hai vợ chồng giàu có kia dầu được
sinh ra trong thời Đức Phật, nhưng đã đánh mất cơ hội chứng đắc Đạo
Quả do thiếu tinh thần nỗ lực. Đó là bài học quý giá mà chúng ta cần
ghi nhớ.
d. Không chú tâm trọn vẹn thì không có lợi ích gì
Ngày xưa, khi Đức Phật ngự ở
Sampa, một người tên là Pettha và một người vô thần tên là Kandaraka
tình cờ đến thăm Đức Phật. Đức Phật thuyết cho họ một bài pháp
nói về bốn hạng người bị khổ hạnh. Trước khi Đức Phật kết thúc
bài pháp, Pettha xin phép Ngài cho họ được cáo từ vì cả hai người đều
bận rất nhiều công việc. Như vậy Pettha ra về trong lúc Đức Phật vẫn
còn đang thuyết pháp.
Giá như Pettha chịu ngồi nghe cho đến
khi Đức Phật thuyết song bài pháp, ông đã có thể chứng đắc quả vị
Nhập Lưu. Nhưng trái lại ông đã bỏ lở một cơ hội vô cúng quý báu.
e. Hai lý do khiến cho không thể tiếp thu giáo pháp
Có hai lý do khiến cho hành giả
không thể tiếp thu giáo pháp, dầu cho vị ấy có được ba-la-mật từ những
kiếp trước. Hai lý do đó là:
1. Thiếu sót trong việc tiếp thu
pháp học và thiếu sót trong việc thực hành những điều học được.
2. Thân cận với bạn xấu.Vì lý
do này mà Pettha đã bỏ lỡ cơ hội trở thànhbậc thánh Nhập Lưu. Cũng vậy.
thái tử A-xà-Thế, đáng lẽ có thể chứng đắc quả Nhập Lưu vào cái
ngày Đức Phật thuyết bài kinh Sa Môn Quả. Nhưng đã đánh mất cơ hội này
bởi vì thái tử đã cùng Devadatta âm mưu giết chết vua Bimbisara là cha đẻ
của mình. Vì vậy, các hành giả muốn chứng ngộ giáo pháp cao thượng
ngay trong kiếp này phải ghi nhớ những yếu tố nói trên .
f. Sự thuyết giảng không rốt ráo không thể dẫn đến
giải thoát
Một thuở nọ Đức Thế Tôn ngự
tại Tịnh xá Velurana ở thành Ràjagaha. Có một người tên là Danasani bị
ốm nặng. Ông vốn rất tôn kính Đại Đức Sàriputta nên khi gần chết
ông rất nhớ Ngài. Vì vậy ông nhờ người đem thư tới cho Đức Phật và
Đại Đức Sàriputta.
Trong thư gửi cho Đức Phật ông viết
rằng vì đang bệnh nặng nên ông không thể đến đảnh lễ Ngài được nữa,
và ông xin gửi tấm lòng thành kính cuả ông đến dưới chân Đức Phật.
Thư gửi cho Đại Đức Sàriputta cũng
viết tương tự, nhưng ông còn cầu xin Ngài vì tâm từ hãy đến nhà để
thăm ông.
Đại Đức Sàriputta đến thăm ông
và ngồi bên giường bệnh hỏi han về bệnh tật của ông. Ông thuật rằng
bệnh ông ngày càng nặng thêm và ông cảm thấy là không thể chịu đựng
thêm được nữa.
Nhận thấy rằng người bệnh không
thể nào qua khỏi và sắp từ giã cõi đời, Đại Đức Sàriputta thuyết
cho ông bài pháp sau:
- Này thí chủ! Cõi súc sanh cao hơn
cõi địa ngục vì ở đó ít có đau khổ hơn. Cõi ngạ quỷ cao hơn cõi
súc sanh vì ở cõi đó ít đau khổ hơn. Nếu so với ngạ quỷ thì cõi người
tốt đẹp hơn vì ít đau khổ hơn. Cõi Tứ Đại Thiên Vương cao hơn cõi
người. cõi Đao Lợi cao hơn cõi Tứ Đại Thiên Vương. Cõi Dạ Ma cao hơn
cõi Đao Lợi. Cõi Đâu Suất cao hơn cõi Dạ Ma. Cõi Hóa Lạc Thiên cao hơn
cõi Đâu Suất. Cõi Tha HóaTự Tại Thiên cao hơn cõi Hóa Lạc Thiên. Cuộc
sống của các chúng sanh có cao thấp như vậy là do đã tạo những phước
báu khác nhau.
Tiếp theo ngài so sánh cõi Phạm
Thiên cao hơn cõi Tha Hóa Tự Đại Thiên rồi Ngài thuyết về 4 phạm trú:
1. Từ (Mettà)
2. Bi (Karuna)
3. Hỷ (Mudità)
4. Xả (Upekkhà)
Sau khi giải xong bài pháp này, Đại
Đức Sàriputta trở về Tịnh Xá Veluvana nơi Đức Phật đang ngự. Đại Đức
ra về được một lát thì ông Danasani qua đời.
Đang ngồi ở Tịnh Xá, bằng trí
tuệ toàn giác Đức Phật biết rằng Đại Đức Sàriputta chỉ thuyết một
bài pháp nói về cõi Phạm Thiên mà không thuyết bài pháp liên quan đến
Thiền Tứ Niệm Xứ để dẫn đến chứng đắc Đạo Quả. Như vậy Đại
Đức đã thuyết một bài pháp chưa rốt ráo cho người sắp chết.
Đức Phật bảo với chư tăng đang
có mặt ở Tịnh Xá rằng Đại Đức Sàriputta đã thuyết một bài pháp chưa
rốt ráo cho người sắp chết và vì vậy mà ông Danasani đã chết mà chưa
nghe được giáo pháp cao thượng. Đức Phật bảo chư tăng điều này trong
khi Đại Đức Sàriputta vẫn còn chưa về đến Tịnh Xá.
Một lát sau Đại Đức Sàriputta về
đến Tịnh Xá, đảnh lể Đức Phật và thưa rằng ông Danasani gởi lời
thành kính đảnh lể dưới chân Đức Phật.
Khi đó Đức Phật hỏi Đại Đức
Sàriputta tại sao chỉ thuyết cho ông ấy nghe một bài pháp không rốt ráo
trong khi ông có khả năng tiếp thu giáo pháp cao thượng. Đức Phật lại bảo
cho Đại Đức biết rằng bởi vì Đại Đức chỉ thuyết bài pháp về
cõi Phạm Thiên nên bây giờ ông Danasani đã sanh lên cõi Phạm Thiên rồi.
Nghe vậy Đại Đức Sàriputta phải bay lên cõi Phạm Thiên để tiếp tục
thuyết pháp cho ông.
So với cõi người thì trở thành một
vị Phạm Thiên trong cõi Phạm Thiên đã là điều quá tốt đẹp. Nhưng
trong trường hợp ông Danasani, tuy là một phàm nhân nhưng ông có đầy đủ
điều kiện để trở thành một bậc thánh Nhập Lưu hay A-la-hán, nên tuy
là sanh lên cõi Phạm Thiên nhưng thật sự vẫn thấp hơn những gì ông có
để đạt được.
Chư Thiên ở cõi Phạm Thiên có sắc
tướng đẹp đẽ và chói sáng. Nhưng sau khi hết tuổi thọ ở cõi Phạm
Thiên, họ phải sanh vào cõi người. Khi ở cõi người, có nhiều điều kiện
cho người ta làm ác mà kết quả là phải sa vào 4 đường ác đạo, làm
súc sanh, ngạ quỷ, Atula. Vì những lý do này, nên tái sanh vào cõi Phạm
Thiên sau khi từ giã cõi người thì vẫn còn thấp kém. Dù sao thì cõi Phạm
Thiên vẫn chưa phải là giải thoát, vẫn còn phải tái sanh và rơi vào
cõi ác đạo. Điều này là một sự thật hiển nhiên trong giáo pháp của
Đức Phật. Xin hãy đọc 3 lần
Yếu Pháp:
Trong thế giới Phạm Thiên
Có hào quang chiếu sáng
Ở trong cái chuồng heo
Chỉ có tiếng heo kêu .
Ông Danasani trước khi chết chưa
được nghe giáo pháp cao thượng mặc dầu ông có đủ khả năng để thâu
nhận, bởi vì Đại Đức Sàriputta chỉ thuyết về phạm trú mà không nói
đến Tứ Niệm Xứ, Tứ Diệu Đế và những pháp dẫn đến chứng đắc
Đạo Quả.
Theo quan điểm của loài người,
chư thiên trong cõi Phạm Thiên cao thượng hơn những chúng sanh bình thường
ở cõi người. Nhưng khi một vị Phạm Thiên hết tuổi thọ, họ có thể
bị sanh vào những cảnh giới thấp kém như địa ngục, súc sanh, Ngạ Quỷ,
Atula. Điều này được nói đến trong chú giải kinh pháp cú qua câu chuyện
một con heo nhỏ.
Thuở nọ, Đức Phật cùng với Đại
Đức Ănanda và chư tăng đang đi khất thực từ Tịnh Xá Veluvana đến thành
Ràjagaha. Trên đường, Đức Phật bỗng mỉm cười khi thấy một con heo nhỏ.
Khi Đại Đức Ănanda hỏi duyên cớ làm sao Đức Phật mỉm cười, Đức
Phật kể lại chuyện của con heo nhỏ.
Vào thời kỳ Đức Phật
Cadhusandha, con heo nhỏ này là một con gà mái nhỏ sống gần một tu viện.
Nó thường hay nghe kinh kệ ở chùa nên sau khi chết được tái sanh là một
cô công chúa tên là Ubbari.
Công chúa này, một hôm khi đi vệ
sinh, quán tưởng về những con giòi dưới hố phân và đắc pháp. Sau khi
qua đời, cô tái sanh là một Phạm Thiên ở trong cõi Phạm Thiên. Khi hết
tuổi thọ ở cõi Phạm Thiên, cô sanh làm con gái của một nhà giàu trong
cõi người. Trong kiếp đó cô tạo rất nhiều ác nghiệp nên khi chết cô
sanh làm con heo nhỏ ở trong thành Ràjagaha.
Từ câu chuyện này có thể kết luận
rằng từ một cảnh giới tốt đẹp là cõi Phạm Thiên, cô tái sanh vào cảnh
giới thấp kém của loài súc sanh , làm một con heo nhỏ.
Vì vậy nếu sự giảng dạy và sự
thực hành mà không rốt ráo và thiếu sót, hành giả có thể tái sanh trong
cảnh giới cao hơn nhưng rồi sa đọa vào những cảnh giới thấp kém
khác.
Vì những lý do này, nên chư tăng,
đặc biệt là các pháp sư nên hướng dẫn cho mọi người một cách thấu
đáo và rốt ráo.
Những ai đã dốc toàn tâm toàn ý
vào việc giảng dạy và thực hành, cần phải hiểu rằng sự thấu đáo
và rốt ráo là điều kiện tiên quyết cho việc chứng đắc giáo pháp cao
thượng.
Đã giải thích xong yếu tố thứ 9
để phát triển ngũ quyền.
* * *
Quý vị đã đọc quyển "Chín
yếu tố phát triển thiền quán" này thì nên tinh tấn để đạt được
và phát triển những năng lực sau:
- Tinh tưởng vào những điều chân
thật và đúng đắn (Tín lực ).
- Khả năng tinh tấn trong những việc chính đáng (Tấn lực).
- Khả năng chú ý và ghi nhớ những điều tốt đẹp và hữu ích (Niệm lực).
- Khả năng duy trì tâm định tĩnh trên những điều phước thiện (Định
lực).
- Khả năng đi sâu vào những trí tuệ sâu sắc và vi tế hơn (Tuệ lực).
Mong cho tất cả những năng lực này
mỗi ngày mỗi gia tăng và sau cùng tất cả quý vị đều có thể đạt đến
Đạo, Quả và Niết-bàn, là mục đích tối thượng trong giáo pháp của Đức
Phật.
Giới thiệu
| I |
II | III | IV | V
| VI | VII
| VIII |
IX | X | XI | Lời bạt
| Từ vựng