- Chín yếu tố phát triển
thiền quán
- Tác giả: Sayadaw U Kundalàbhivamsa
- Dịch giả: Tỳ kheo Thiện Minh
- Chương IV
- Yếu Tố Thứ Ba (Phần
1)
Chúng ta đã đề cập đến 2 yếu
tố phát triển ngũ quyền của hành giả. Yếu tố thứ nhất là hướng tâm
vào sự diệt. Yếu tố thư hai là chú niệm một cách cẩn trọng và thấu
suốt để thấy được sự diệt thật sự.
Bây giờ, tôi sẽ nói về yếu tố
thứ ba là khả năng chú niệm một cách liên tục.
a. Khả năng
chú niệm liên tục của hành giả
Phát triển ngũ quyền là một điều
rất thích hợp cho các hành giả vì quý vị sẽ hành thiền cho đến khi nào
đạt đến trí tuệ hoàn toàn và chứng đắc Đạo Quả. Quý vị đến đây
vì điều kiện rất thuận lợi cho việc hành thiền, phải vậy không?
Vâng. Điều kiện này cũng rất thích hợp cho hành giả trong việc phát triển
ngũ quyền. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu pháp:
"Không dừng lại
Không nghỉ ngơi
Hành liên tục
Trong mọi nơi."
Khi tham dự một khóa thiền, hành
giả phải duy trì sự chú niệm liên tục, không ngừng nghỉ, không gián
đoạn. Niệm trước và niệm sau, định trước và định sau, tuệ trước
và tuệ sau phải liên tục. Làm được như thế là một yếu tố giúp cho
ngũ quyền phát triển.
Dựa theo kinh điển, thiền sư
Mahasi khuyên chúng ta nên hành động như người cọ sát để lấy lửa. Ngày
xưa, trước khi phát minh ra hộp quẹt, người ta phải cọ sát gỗ hoặc
tre với nhau để tạo ra lửa. Khi gỗ hoặc tre bắt đầu nóng dần lên, cần
phải cọ mạnh hơn. Chỉ khi nào sức nóng trở nên gay gắt và tia sáng
lóe lên thì mới có được ngọn lửa nhỏ.
Cũng như vậy, hành giả cần duy
trì chánh niệm liên tục, giữ cho niệm trước và niệm sau, định trước
và định sau, tuệ trước và tuệ sau, không cho gián đoạn. Khi chú niệm
thật sự liên tục thì năng lực chú niệm mới mạnh mẽ.
Nhờ năng lực chú niệm mạmh mẽ,
người chưa thấy pháp sẽ thấy pháp, người bắt đầu thấy pháp sẽ thấy
rõ hơn, và người xứng đáng thừa tự pháp sẽ thành tựu pháp cao thượng,
cũng như người kia lấy được lửa.
Vậy chẳng lẽ chú niệm liên tục
không quan trọng hay sao? Vâng, rất quan trọng. Nếu như người kia vì mỏi
tay mà dừng một lát, sức nóng sẽ giảm đi và anh ta phải khởi sự lại
từ đầu. Việc hành thiền cũng vậy.
Khi sự chú niệm của hành giả bị
gián đoạn, năng lực chú niệm đã không tiến thêm mà trái lại còn bị
giảm đi. Vậy thì chú niệm trong khi ngồi thì có đủ không? Không đủ. Nếu
hành giả ngồi chú niệm suốt cả bảy giờ, nhưng những giờ còn lại
trong ngày lại không chú niệm thì rất khó tiến bộ trong pháp, thấy pháp
và thành tựu pháp cao thượng. Vì vậy, hành giả phải chú niệm liên tục,
không gián đoạn.
Dựa theo kinh điển, Thiền sư Mahàsi
đã chỉ dẫn 3 loại chú niệm: thiền tọa, thiền hành, và chú niệm tất
cả sự.
Sự chú niệm trong thiền tọa thì
luôn luôn liên tục vì hành giả giữ cho thân không trạo cử và tâm không
tán loạn trong suốt cả giờ.
Nhưng hành giả phải thật cẩn thận
trong thiền hành. Khi thấy cảnh đẹp, hành giả dễ ngưng quán niệm để
ngắm nhìn. Khi có tiếng động gì, hành giả thường muốn lắng nghe. Và sự
chú niệm không còn liên tục. Có điều gì cần bàn luận, hành giả có thể
nói chuyện một lát, vậy là sự chú niệm bị gián đoạn.
Trường hợp chú niệm tất cả
các sự, hành giả càng phải hết sức cẩn trọng. Lúc đầu, nhiều người
không làm được điều này. Có thể chú niệm được tất cả mọi sự là
hành giả đã tiến bộ rất nhiều. Đe6? chú niệm tất cả sự, hành giả
nên theo lời dạy của Đức Phật về tỉnh giác.
Các vị thiền sư ngày nay gọi
chánh niệm tỉnh giác là chú niệm tất cả sự. Các nhà chú giải thì giải
thích việc sử dụng tỉnh giác theo lời Đức Phật dạy trong 4 pháp tỉnh
giác cơ bản như sau:
1. Hữu ích tỉnh giác (Sàtthaka
Sampajanna)
Khi một người sắp hành thiền,
hay sắp làm một việc thiện, người ấy sẽ chọn hành động hữu ích nhất.
Đó là Hữu ích tỉnh giác.
2. Thích ứng tỉnh giác
(Sappàya Sampajanna)
Say khi đã chọn hành động hữu
ích nhất, người ấy sẽ xem xét sâu hơn những vấn đề như: thời gian có
thích hợp hay không? Những người này có thích hợp để cùng cộng tác
không? Dự lựa chọn này gọi là Thích ứng tỉnh giác.
3. Hành xứ tỉnh giác (Gocara
Sampajanna)
Dù khi đang ở nơi làm việc hay
đang ở trường thiền, đều hành thiền không gián đoạn. Sự tinh tấn liên
tục đó được gọi là Hành xứ tỉnh giác.
4. Vô si tỉnh giác (Asammoha
Sampajanna)
Khi đã hành thiền liên tục, kết
quả hành giả thấy ra được sự thật, bắt đầu từ Danh pháp và Sắc
pháp, đó gọi là Vô si tỉnh giác.
Tỉnh giác là một pháp mà các
hành giả phải tu tập. Chẳng phải quý vị đến đây để hành thiền vì
quý vị nghĩ rằng hành thiền là điều hữu ích hay sao? Đó là Hữu ích tỉnh
giác. Chẳng phải quý vị đã chọ trường thiền và thiền sư thích hợp
đó sao? Đó là Thích ứng tỉnh giác. Ở trường thiền, quý vị ngồi thiền,
đi kinh hành, quý vị cố gắng chú niệm tất cả mọi hành vi cử chỉ; sự
chú niệm liên tục này là Hành xứ tỉnh giác. Khi chú niệm liên tục, định
tâm của quý vị được tăng trưởng và sau đó nó sẽ trở thành Vô si tỉnh
giác.
Trong sự chú niệm "phồng, xẹp,
ngồi, đụng", định tâm dần dần phát triển.
- Khi niệm "phồng", hành giả
chú ý rằng, cái phồng lên là một cái, nhận biết phồng là một cái
khác.
- Khi niệm "xẹp", hành giả
chú ý rằng, cái xẹp xuống là một cái, nhận biết xẹp là một cái
khác.
- Khi niệm "ngồi", hành giả
chú ý rằng, hành động ngồi là một cái, nhận biết phồng là một cái
khác.
- Khi niệm "đụng", hành giả
chú ý rằng, đụng là một cái, nhận biết phồng là một cái khác.
"Phồng, xẹp, ngồi, đụng"
là Sắc pháp, là những vật chất không có khả năng nhận biết. Nhận biết,
hay tâm nhận biết là Danh pháp. Trong ngũ uẩn của hành giả chỉ có Danh
pháp và Sắc pháp. Đại từ "Tôi" chỉ là một thuật ngữ hay thế
gian ngữ (Lokavohara). Trong thực tế, không có cái gì như cái sinh vật nhỏ
bé này có thể gọi là Tôi, là Ngã. Như vậy, Ngã kiến (Atta Ditthi) - quan
niệm sai lầm về Ngã - được đoạn trừ. Sự hiểu biết chân thật nầy
gọi là vô si tỉnh giác. hành giả đã đặt được nền tảng tốt đẹp
nhất cho việc đóng cửa địa ngục.
Những lời chỉ dẫn của Đức
Phật về sự tỉnh giác:
Để có thể chú niệm liên tục,
hành giả phải thực hành theo lời chỉ dẫn của Đức Phật.
b. Lời chỉ dẫn tỉnh giác thứ nhất
"Abhikkante patikkanti
sampajànakàrì hoti"
"Khi bước tới, khi bước lui, hành giả phải chú tâm thật trọn vẹn"
Khi bước tới, hành giả phải bước
tới với sự chú tâm trọn vẹn. Khi bước lui, hành giả cũng phải bước
lui với sự chú tâm trọn vẹn. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu pháp:
"Khi chuyển động tới, lui
Chú tâm thật trọn vẹn
Đó chính là tỉnh giác".
Có 4 loại cử động tới lui:
1. Chuyển động tới lui khi đị
2. Chuyển động lên xuống khi đứng.
3. Chuyển động lên xuống khi ngồi.
4. Chuyển động lên xuống khi nằm.
1. Chuyển động tới lui khi đi
Khi quý vị đi, đó là bước tới.
Chân trái bước tới, chân phải bước tới, hay giở, bước tới, đạp xuống.
Niệm như vậy trong khi đi, tức là niệm chuyển dộng tới. Đến cuối
đường, Hành giả phải quay lui để đi, phải vậy không? Vâng, đó là
"chuyển động lui".
Ở đây, các hành giả thường nghe
nói "chú niệm trong khi đi". Pháp thiền hành như thế rất có ích
cho hành giả. Nó giúp cho hành giả hành thiền được tốt đẹp. Hành giả
nào mà việc chú niệm trong thiền hành vững vàng và thành công thì thiền
tọa cũng tiến bộ rất nhiều. Bởi vì nếu chú niệm trong thiền hành tốt
thì chú niệm tất cả mọi sự cũng sẽ trở nên dễ dàng hơn. Thiền hành
đóng vai trò trung gian để giúp cho trạng thái quân bình của hành giả.Vì
vậy mà thiền hành thường xuyên được nhắc đến, và ở đây các hành
giả vẫn thường nghe nói về điều đó.
Khi quán niệm tiến trình "giở,
bước, đạp" hành giả phải tách khỏi hình dáng và tư thế của bàn
chân càng nhiều càng tốt. Hành giả phải tách tâm mình ra khỏi cái gì?
Vâng, quý vị phải tách khỏi Pannatti.Thiền quán không ghi nhận Pannatti. Đừng
chú tâm vào Pannatti. ngược lại quan sát thật nhiều và thật sâu tính chất
và cảm giác của việc giở lên từ từ, vì đó chính là Paramattha.
Khi chú niệm "bước" và
"đạp", hình dáng của bàn chân phải bị loại bỏ khỏi sự quan
sát mà chỉ có chuyển động bước tới từ từ và chuyển động đạp xuống
từ từ, hay là thực tánh Paramattha mới cần được quan sát càng sâu sắc,
càng tỉ mỉ càng tốt. Đây là một yếu tố quan trọng trong việc hành
thiền quán Vipassanà.
Một khi hành giả có thể tách tâm
chú niệm ra khỏi hình dáng và tư thế của bàn chân, hành giả có thể
chú niệm được hàng loạt chuyển động và bản chất của chúng.
- Như khi niệm "giở", cảm
giác về sự giở cũng như cảm giác về sự nhẹ nhàng kèm theo sự giở
càng lúc càng tăng.
- Như khi niệm "bước",
chuyển động đưa tới này theo sau chuyển động đưa tới khác cũng như sự
nhẹ nhàng đi kèm càng lúc càng tăng.
- Như khi niệm "đạp", chuyển
động đạp xuống cũng như sự nặng nề càng lúc càng gia tăng đi kèm với
sự đạp.
Đó là những ghi nhận và thể nghiệm
mà các hành giả đã trình lại cho tôi.
Nếu hành giả có thể chú niệm
chi tiết rõ ràng như vậy thì sự chú niệm của hành giả được xem là
khá tốt. Chính bản thân hành giả đã thích thú và tập trung vào việc
hành thiền. Quý vị không cảm thấy thích thú khi thấy ra được tiến trình
của pháp hay sao? Vâng.
- Khi hành giả thấy sự nhẹ càng
lúc càng tăng đi kèm với sự giở chân.
- Khi hành giả thấy sự nhẹ càng
lúc càng tăng đi kèm với chuyển động đưa tới.
- Khi hành giả thấy sự nặng càng
lúc càng tăng đi kèm với sự đạp thì có thể nói hành giả đã thấy
được tiến trình của pháp.
Đến cuối đường đi, hành giả
ngừng lại một lát để quay lui và đi tiếp. Hành giả niệm "quay...,
quay...". Ở đây hành giả phải chú tâm đến thân, cho nên sự tỉnh
giác bao gồm trong Quán Thân niệm xứ (Kàyanupassanà Satipatthàna). Khi định
tâm tăng trưởng, hành giả còn biết trước tâm hay ý định muốn quay, và
hành giả phải chú niệm ý muốn này trước tiên.
Đức Phật dạy rằng trước tiên
nên chú tâm đến hiện tượng nổi bật nhất do đó khi sắp sửa quay, nếu
hành giả chú tâm, thì tác ý muốn quay là yếu tố đầu tiên để chú niệm.
Vì nó nổi bật, nên chẳng lẽ hành giả không thể ghi nhận tác ý muốn
quay đó ngay từ sự chú niệm đầu tiên hay sao? Vâng, dĩ nhiên quý vị có
thể.
Khi hành giả đã đạt tới mức độ
định tâm khả dĩ như quý vị ở đây, thì lúc chú niệm, hành giả sẽ
thấy tác ý muốn làm điều gì đó. Nếu hành giả có thể chú niệm cái
tác ý (tâm) này, thì tiến trình đắc pháp sẽ trở nên tốt đẹp.
Hành giả chú niệm "muốn
quay..., muốn quay...". Sau đó, hành giả hướng tâm về hướng mình định
quay. Nếu hành giả muốn quay trái, thì nên hướng tâm về bên trái. Oai
nghi của thân bắt đầu quay qua trái sẽ được nhìn thấy. Sau đó từng
phần của thân sẽ lần lượt quay.
Nếu hành giả hướng tâm về bên
phải, thân sẽ quay về bên phải. Hành giả niệm "quay..., quay...".
Nếu hành giả có thể làm được như vậy thì cũng đã khả quan lắm rồi.
Hành giả nên cố gắng chú niệm trong mỗi sự sinh khởi (nghĩa là càng
ít ngắt quãng càng tốt) để cho sự chú tâm được liên tục. Xin hãy đọc
3 lần:
Yếu Pháp:
"Ý muốn quay là Danh
Thân đang quay là Sắc
Không 'tôi' cũng không 'anh'
Quay - là Danh và Sắc
Thấu hiểu thật tường tận
Hai uẩn Danh và Sắc
Ta chú niệm khi quay".
Chú niệm "quay..., quay..."
thật sự cũng là một công việc. Có thể chú niệm được tác ý, hành giả
đã được thêm hai bước nữa trong các tầng tuệ giác. Biết được tác
ý muốn quay nghĩa là hành giả biết được Danh pháp, và oai nghi của thân
đang quay (vốn không nhận biết cái gì) là Sắc pháp. Như vậy chẳng phải
là hành giả đã có thể phân biệt giữa Danh pháp và Sắc pháp hay sao? Đó
chính là Danh sắc phân tích trí (Nàma-rùpa pariccheda Nàna)
Hành giả quay là do tác ý muốn
quay, tác ý là nhân, oai nghi của thân đang quay là quả. Quý vị không nhận
ra điều đó sao? Vâng, đó chính là Duyên nhiếp thủ trí (Paccaya pariggaha
Nàna). Vì vậy quan sát tác ý một cách chuyên chú là điều rất quan trọng.
Khi niệm "giở, bước, đạp",
hành giả bước tới, và sau chú niệm "quay..., quay..." hành giả
đi lui.
Đây là cách hành giả bước tới
và lui trong khi đi.
2. Trong khi đứng, hành giả
cúi xuống và thẳng người lên
Trong khi đứng, hành giả khởi lên
tác ý muốn cúi xuống để làm gì đó. Ở đây, tác ý muốn cúi xuống
là nổi bật nhất. Vì nó nổi bật, nên hành giả muốn chú niệm tác ý
đó như là "muốn quay..., muốn quay...". Chẳng lẽ quý vị không
nên làm điều đó sao? Vâng, quý vị nên làm như vậy. Chỉ khi hành giả tập
trung một cách chuyên chú mới nhận ra rằng tác ý là nổi bật. Nếu sự
chú tâm chỉ thường thôi thì tác ý sẽ không nổi bật lắm. Nhờ cách
chú niệm cẩn trọng và liên tục, mà tác ý trở nên nổi bật.
Khi hành giả cần cúi xuống, trước
hết tác ý muốn cúi là nổi bật nhất. Hành giả chú tâm bằng cách niệm
"muốn cúi..., muốn cúi..." Sau đó hành giả cố gắng chú niệm
chuyển động cúi xuống dần dần của thân gây ra bởi sức đẩy của một
luồng khí phát sinh bởi ý muốn cúi. Hành giả niệm "cúi...,
cúi...".
Trong khi niệm "cúi...,
cúi..." hình dáng và tư thế của đầu, thân, tay, chân phải bị tách
ra khỏi sự chú niệm mà chỉ quan sát một cách cẩn thận tính chất của
chuyển động cúi xuống.
Hình dáng của đầu, thân, tay,
chân là Pannatti (là tên gọi, là sự thật có tính chất quy ước), còn
tính chất của chuyển động là Paramattha (sự thật tuyệt đối). Thiền
quán không chú niệm trên Pannatti mà chỉ quan sát thực tánh Paramattha.
Khi đã cúi xuống và đã làm điều
gì cần làm, khi thân bắt đầu thẳng lên trở lại, hành giả phải chú
tâm thật cẩn thận. Tác ý muốn đứng thẳng lên rất rõ ràng khi được
quan sát kỹ lưỡng. Hành giả niệm "muốn thẳng người lên..., muốn
thẳng người lên...". Sau đó, do tác ý muốn đứng thẳng người lên,
luồng khí phát sinh từ tác ý đó sẽ nâng thân thể lên, và hành giả muốn
chú niệm động tác nâng lên của thân bằng cách niệm "nâng lên...,
nâng lên...". Càng ít chú ý đến các hình dáng như đầu, thân, tay,
chân càng tốt trong khi nên hết sức chuyên chú để quán niệm tính chất
của chuyển động nâng lên dần dần.
Khi đã có thể tách tâm ra khỏi
Pannatti, và có thể chú tâm tốt để quán niệm bắt kịp với hàng loạt
chuyển động khi niệm "muốn cúi", hành giả không chỉ chú ý đến
chuyển động cúi xuống dần dần của thân, mà còn chú ý đến cảm giác
nặng gia tăng đi kèm với chuyển động cúi xuống.
Khi niệm "muốn thẳng người lên",
hành giả không chỉ cảm nhận chuyển động nâng lên dần dần, mà còn
chú ý đến cảm giác nhẹ gia tăng đi kèm với chuyển động nâng người
lên.
Nếu hành giả chưa thấy ra điều
này, thì với sự chuyên tâm chú niệm, chẳng bao lâu hành giả cũng sẽ thấy
được. Khi cúi xuống mà nhận ra cảm giác nặng đang gia tăng, tức là
chúng ta thấy được pháp gì vậy? Chúng ta thấy được Địa đại và Hỏa
đại. Địa đại là yếu tố đất, yếu tố cứng và yếu tố nặng. Thủy
đại là yếu tố nước và cũng là yếu tố nặng. Hành giả thấy được
thực tánh của hai đại này.
Khi thẳng người lên, nhận ra cảm
giác nhẹ đang gia tăng nghĩa là chúng ta đã thấy được Hỏa đại và
Phong đại. Hỏa đại là yếu tố hơi, yếu tố lửa và yếu tố nhẹ.
Phong đại là yếu tố khí và yếu tố nhẹ. Hành giả đã thấy được thực
tánh của hai đại này.
Hành thiền theo phương pháp đúng
đắn chẳng bao lâu sẽ phát triển định tâm và bốn yếu tố này sẽ rất
nổi bật để cho quý vị thấy. Trong tiếng Pàli chúng được gọi là
Mahà-bhùta (Mahà nghĩa là lớn, Bhùta nghĩa là phát triển, Mahà-bhùta nghĩa
là phát triển rất mạnh mẽ). Chúng được gọi là Tứ đại. Chúng ta có
thể kết luận rằng thấy được tứ đại tức là thấy pháp hay không?
Vâng, thấy được tính nặng và tính nhẹ có thể gọi là thấy pháp.
Sau đó thì chẳng khó khăn gì cho
hành giả để có được tiến bộ nhanh chóng trong việc hành thiền. Vì vậy
điều quan trọng là thấy pháp càng sớm càng tốt.
Dhammoca mangalo loke
Pháp bảo sâu xa rất khó thấy.
Dhamme gambhùro duddaso
Chính là hạnh phúc ở trong đời.
Dhammam saranam àgamma
Khi đã đến nương nhờ pháp ấy
Sabba dukkhà pamuccati
Sẽ thoát ly tất cả khổ sầu.
Đối với quý vị ở đây, có
Pháp bảo ở trong đời là một điều hạnh phúc, bởi vì hạnh phúc là đã
tận diệt tất cả mọi khổ đau và gặt hái được những thành quả tốt
đẹp nhất.
Pháp rất sâu xa vi diệu, khó lãnh
hội. Nhờ có phương pháp hành thiền đúng đắn, mà sau khi đã lãnh hội
được những điều uyên áo của pháp, sau khi đã tìm đến được một
nơi mà mình có thể nương tựa, hành giả có thể giải thoat頭ọi đau khổ.
Khi đã thấy pháp, hành giả thấy
hoan hỷ trong pháp. Hành giả muốn được hành thiền mãi mãi. Nhờ vậy,
cùng với sự viên mãn các pháp ba-la-mật, một khi hành giả đạt đến Nhập
Lưu Thánh đạo tuệ và Nhập Lưu Thánh quả tuệ, chẳng phải là vị ấy
đã thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi trong cảnh khổ hay sao? Vâng.
Ngay khi hành giả đạt đến đạo
quả Nhất Lai, tất cả cảnh khổ - khổ già, khổ bệnh, khổ chết, khổ
trong cõi người và 6 cõi trời - hành giả phải đối diện chỉ trong một
kiếp duy nhất nữa mà thôi. Một bậc Thánh Nhất Lai chỉ trở lại cõi người
hay cõi trời một lần nữa thôi. Như vậy chẳngphải là vị ấy đã giải
thoát khỏi nhiều đau khổ rồi sao? Vâng.
Tiếp tục hành thiền, khi đã trở
thành một vị Thánh Bất Lai, vị ấy sẽ không bao giờ trở lại cõi Dục
giới nơi chúng ta đang sống, nơi có quá nhiều đau khổ. Vị ấy đã
thoát khỏi mọi đau khổ của Dục giới. Vẫn tinh tấn hành thiền, nếu
trở thành bậc A-La-Hán, vị ấy hoàn toàn thoát khỏi mọi đau khổ - khổ
già, khổ bệnh, khổ chết cũng như mọi khổ đau hiện hữu trong cả 31 cõi.
Như vậy, bước quan trọng nhất là
thấy pháp. Khi hành giả đã có vài khám phá trong việc thấy pháp do sự nỗ
lực liên tục, chắc chắn càng lúc hành giả sẽ càng tiến xa hơn tùy
theo mức độ tuệ giác của mỗi người. Điều mà các thiền sư muốn
truyền đạt cũng chính là nhấn mạnh đến việc thấy pháp vì đó là mục
tiêu hàng đầu của chúng ta. Hành giả nên theo lời chỉ dẫn của thiền
sư để thực hành cho đúng. Hãy cố gắng đi và quý vị sẽ thấy pháp.
3. Chuyển động lên, xuống
trong khi ngồi
Đây là tư thế thông thường nhất.
Ví dụ gần gũi nhất là khi hành giả ngồi lạy Phật, trong khi ngồi,
hành giả cúi xuống và ngẩng lên.
Khi sắp sửa lạy Phật, nếu hành
giả đã có định tâm như quý vị ở đây, thì khi chú tâm, hành giả sẽ
thấy tác ý muốn lạy và tác ý muốn cúi về trước rất rõ ràng. Chẳng
phải vậy sao? Vâng, rất rõ ràng.
Tất nhiên nếu chỉ tỉnh giác
bình thường thôi thì hành giả không thể thấy được tác ý. Có nhiều
lúc hành giả cúi lạy mà không có chánh niệm. Do đó cúi xuống với
chánh niệm đòi hỏi phải có chú tâm.
Tác ý muốn cúi xuống để lạy phát
sinh trước tiên, và hành giả niệm "muốn cúi..., muốn cúi...". Do
bởi tác ý đó, khí phát sinh để đẩy thân tới trước trong tư thế lạy-oai
nghi của thân diễn ra. Hành giả cúi xuống dần trong khi niệm "lạy...,
lạy..."
Hành giả không nên chú ý đến
Pannatti, như hình dáng đầu, thân, tay, chân mà chỉ quan sát thật chi tiết
Paramattha là chuyển động cúi xuống dần dần. Đầu, thân, tay, chân là
Pannatti, không phải là đối tượng của thiền quán. Tính chất của chuyển
động cúi xuống dần dần là Paramattha, cần được niệm là "lạy...,
lạy..., cúi..., cúi...". Khi trán chạm nền nhà, niệm "đụng..., đụng...".
Giữ tâm hướng về Đức Phật:
khi bắt đầu ngẩng lên để trở lại tư thế ban đầu, tác ý muốn thẳng
lưng lên phát sinh trước tiên, vì vậy hành giả niệm "muốn ngẩng
lên..., muốn ngẩng lên...". Do tác ý đó mà khí phát sinh đẩy cho
lưng thẳng lên. Lúc đó hành giả niệm "ngẩng lên..., ngẩng
lên..."
Không chú ý đến hình dáng đầu,
thân, tay, chân, hành giả quán niệm càng chuyên chú và thấu suốt càng tốt.
Nếu làm được như vậy, hành giả sẽ thấy được thực tánh rất dễ
dàng.
Khi (hành giả) cúi xuống và chú niệm,
hành giả không chỉ thấy chuyển động hướng xuống mà còn thấy được
tính chất nặng đi kèm theo. Khi ngẩng lên, hành giả không chỉ thấy chuyển
động hướng thẳng lên mà còn thấy tính chất nhẹ đi kèm theo. Những
hành giả đã thực hành lâu ngày hẳn đã chứng nghiệm điều đó.
Những hành giả mới phải cố gắng.
Quý vị cũng sẽ thể nghiệm điều đó ngay tại chỗ, nhưng điều này đòi
hỏi mức độ chánh niệm cao. Các cử chỉ của thân không được quá
nhanh, mà phải chậm rãi, nhẹ nhàng như cung cách người bệnh.
Một hành giả có chánh niệm cao
khi lạy sẽ lạy thật thong thả, cúi xuống nhẹ nhàng từng tý một, quả
thật rất đáng tán thán. Ngược lại những người chú niệm chưa tốt thì
thường lạy xuống rất nhanh. Các thiền sư thích cách lạy nhanh hay lạy
chậm? Các vị ấy thích cách lạy chậm rãi với nhiều chánh niệm.
Nhìn vào cách lạy của hành giả,
người ta có thể đoán biết được hành giả có chánh niệm hay không. Với
người lạy nhanh, thiền sư biết rằng sự chú niệm của hành giả chưa tốt
và chưa liên tục. Dù không nói ra, nhưng thiền sư thích cách lạy chậm
rãi của người có chánh niệm hơn.
Khi niệm "muốn lạy..., muốn lạy...",
"lạy..., lạy...", chuyển động cúi xuống dần dần cũng như tính
chất nặng đi kèm được hành giả cảm nhận trong khi lạy. Khi niệm
"muốn thẳng lên..., muốn thẳng lên...", hành giả chú ý đến
chuyển động nâng lên dần dần cũng như tính chất nhẹ đi kèm theo.
Thấy được tính chất nặng là thấy
được Địa đại và Thủy đại. Thấy được tính chất nhẹ là thấy
được Hỏa đại và Phong đại. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
"Trong hai yếu tố
Địa đại, Thủy đại
Nổi bật là nặng".
"Trong hai yếu tố
Hỏa đại, Phong đại
Nổi bật là nhẹ".
Hỏa đại và Phong đại, cũng như
địa đại và thủy đại, bốn yếu tố này là nổi bật nhất trong tâm
thức của hành giả. Thấy được chúng, có thể nói rằng hànhgiả đã thấy
pháp.
Một hành giả đến đây dự khóa
thiền 10 ngày, khi được hỏi là đã thấy pháp chưa, trả lời là chưa thấy
pháp mà chỉ cảm thấy đau và nhức thôi. Chỉ trong 10 ngày, với sự chú
niệm không liên tục, hành giả đạt đến Tư duy trí. Với trí tuệ này,
hành giả cảm nhận đau và nhức, phải vậy không? Vâng. Đau và nhức
không phải là pháp sao? Vâng, đúng là pháp. Pháp đó là cảm thọ. Như vậy
là hành giả đã thấy pháp niệm thọ.
Do thiếu kiến thức tổng quát, mà
hành giả trả lời là chưa thấy pháp. Quý vị ở đây có trả lời như vậy
không? Tất nhiên là không rồi. Đau và nhức cũng là pháp, và quý vị sẽ
trả lời rằng quý vị đã thấy pháp, phải vậy không? Quý vị sẽ trả
lời rằng quý vị đã chứng nghiệm pháp liên quan đến nhẹ và nặng.
Về sau, khi định tâm tăng trưởng,
lúc niệm "muốn cúi xuống..., muốn cúi xuống..." hành giả thấy
rằng có hai hoặc ba tâm nối tiếp nhau phát sinh lên. Khi niệm "cúi...,
cúi...", chuyển động cúi xuống cũng gồm nhiều giai đoạn nối tiếp
nhau chứ không phải chỉ là một. Khi niệm "muốn ngẩng lên..., muốn
ngẩng lên..." thì không chỉ có một tác ý mà hai hoặc ba tác ý nối
tiếp nhau phát sinh. Khi niệm "ngẩng lên..., ngẩng lên...", động tác
của thân phát sinh lên trong nhiều giai đoạn, nên khi thấy được những
giai đoạn đó, trí tuệ của hành giả cũng chín chắn dần theo từng giai
đoạn.
Nếu một hành giả muốn xác định
những giai đoạn trong sự tiến bộ của mình, cũng có thể làm được. Bằng
cách nào? Nếu hành giả có thể chú niệm được hàng loạt giai đoạn chỉ
trong một động tác của thân, chẳng hạn như "cúi xuống", điều
đó cho thấy rằng hành giả đã có tiến bộ rõ ràng trong việc hành thiền.
Tự thân các giai đoạn không có
tính liên tục. Khi niệm "muốn cúi xuống..., muốn cúi xuống...",
thì tác ý hay tâm đó không liên tục. Một tác ý khởi lên rồi diệt, và
một tác ý mới khởi lên rồi diệt, rồi một tác ý khác nữa lại khởi
lên và diệt, v.v...
Giai đoạn này theo sau giai đoạn
kia, những giai đoạn bị gián cách chúng là gì? Chúng là sanh và diệt.
Khi niệm "cúi lạy..., cúi lạy..."
động tác cúi xuống bị phân thành nhiều giai đoạn:
- Giai đoạn đầu tiên: động tác
cúi xuống xảy ra, nghĩa là động tác cúi xuống sanh và diệt.
- Giai đoạn tiếp theo: một động
tác cúi xuống khác xảy ra rồi diệt mất, và cứ như vậy.
Khi hành giả niệm "muốn ngẩng
lên..., muốn ngẩng lên...", tác ý muốn ngẩng lên bị phân thành nhiều
giai đoạn, nghĩa là tác ý đó gồm nhiều giai đoạn sinh và nhiều giai đoạn
diệt.
- Giai đoạn thứ nhất: tác ý khởi
lên rồi diệt.
- Giai đoạn thứ hai: một tác ý
khác khởi lên rồi diệt.
- Giai đoạn thứ ba: một tác ý
khác nữa khởi lên rồi diệt và cứ như vậy mà tiếp tục mãi mãi.
Khi hành giả niệm "ngẩng
lên..., ngẩng lên..." chuyển động ngẩng lên cũng gồm nhiều giai đoạn.
- Giai đoạn thứ nhất: chuyển động
ngẩng lên sinh rồi diệt.
- Giai đoạn thứ hai: một chuyển
động ngẩng lên khác sinh rồi diệt, v.v...
Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
"Khi thấy được thực tánh
Mới thấy được sinh diệt"
Trước hết, phải chú niệm để
thấy được thực tánh. Thực tánh nghĩa là tính chất càng lúc càng nặng
khi cúi xuống, và tính chất càng lúc càng nhẹ khi ngẩng lên- thực tánh của
Paramattha. Thực tánh của Địa đại và Thủy đại là nặng trong khi thực
tánh của Hỏa đại và Phong đại là nhẹ. Các hành giả ở đây đều đã
thâṠthực tánh của nhẹ và nặng trước tiên, phải không? Vâng. Sau khi
đã thấy thực tánh của nặng và nhẹ, quý vị sẽ thấy gì? Quý vị sẽ
thấy sanh và diệt.
Vì chúng tồn tại từng giai đoạn
này nối tiếp giai đoạn khác, khoảng hở này nối tiếp khoảng hở khác,
nên chúng không thể gọi là sinh và diệt hay sao? Khi định tâm ngày càng mạnh
mẽ hơn, hành giả đạt đến Diệt trí, là trí tuệ thấy sự diệt, thấy
bản chất hoại diệt của các pháp hữu vi. Ở đó, sanh không còn rõ ràng
nữa mà chỉ có diệt là nổi bật.
Khi hành giả niệm "muốn
cúi..., muốn cúi...", sự sanh khởi của tác ý muốn cúi không rõ ràng
mà sự hoại diệt của tác ý muốn cúi rất nổi bật.
Khi hành giả niệm ‘muốn lạy...,
muốn lạy..." sự sanh khởi của cử động cúi xuống của thân không
rõ ràng mà sự diệt của cử động rất rõ ràng.
Đến lúc đó, hành giả không cần
phải chú ý tách tâm ra khỏi Pannatti - hình dáng và tư thế của đầu, thân,
tay, chân-mà chúng tự động bị tách ra.
Đạt đến Diệt trí, hành giả có
tuệ minh sát mạnh mẽ và vững vàng.
Hành giả thấy được thực tánh -
thấy pháp. Khi cúi xuống, hành giả chỉ thấy tính chất nặng càng lúc
càng tăng chứ không thấy đầu, thân, tay, chân.
Do minh sát tuệ rất mạnh nên tất
cả Pannatti đều chìm xuống. Minh sát tuệ và Pannatti hoàn toàn đối lập
nhau.
Khi minh sát tuệ của hành giả còn
yếu, Pannatti rất rõ ràng và nổi bật. Hành giả phải cố gắng tách tâm
chú niệm khỏi Pannatti. Khi thiền quán trở nên vững vàng hơn và khi hành
giả đạt đến Diệt trí thì Pannatti biến mất hay chìm hẳn đi.
Khi hành giả niệm "cúi lạy...,
cúi lạy..."sự sinh khởi của động tác lạy không rõ ràng nhưng sự
diệt thì rất rõ.
Khi hành giả niệm "muốn ngẩng
lên..., muốn ngẩng lên..." sự xuất hiện của tác ý không rõ ràng nhưng
sự diệt của tác ý thì rất rõ.
Khi hành giả niệm "ngẩng
lên..., ngẩng lên..." sự sinh khởi của động tác ngẩng lên không
rõ, nhưng sự diệt thì rất rõ.
Hình dáng và tư thế của thân
không rõ nhưng tính cách của sự diệt rất rõ ràng. Thấy được tất cả
sự hoại diệt này nhắc cho hành giả biết rằng đó chính là vô thường.
Hành giả đã thấy ra vô thường bằng chính sự thể nghiệm của mình, phải
vậy không? Vâng.
Với định tâm tăng trưởng và với
Diệt trí rất mạnh mẽ, khi niệm "muốn cúi..., muốn cúi..." tác
ý muốn cúi diệt mất và tâm chú niệm cũng diệt mất.
Khi niệm "cúi lạy..., cúi lạy...",
động tác cúi diệt mất và tâm chú niệm cũng diệt mất.
Khi niệm "muốn ngẩng lên...,
muốn ngẩng lên...", tác ý muốn ngẩng lên diệt mất và tâm chú niệm
cũng diệt mất.
Khi niệm "ngẩng lên..., ngẩng
lên...", động tác ngẩng lên diệt mất và tâm chú niệm cũng vậy.
Tính chất của động tác cúi là
không thường hằng và tâm chú niệm ghi nhận động tác cúi cũng không thường
hằng. Cả sắc pháp và danh pháp đều không thường hằng. Trong tiếng Pàli
hiện tượng này gọi là Anicca (vô thường).
Tốc độ diệt quá nhanh, quá lẹ
khiến cho hành giả cảm thấy như bị áp bức, do đó hành giả bị đau khổ.
Trong tiếng Pàli, trạng thái này gọi là Dukkha (khổ).
Hành giả không có cách nào để
ngăn chặn những đau khổ này. Sự hoại diệt tự ý xảy ra theo cách
riêng của chúng mà hành giả không thể nào sai khiến hay điều khiển được.
Trong tiếng Pali, hiện tượng này gọi là Anatta (Vô ngã).
Trong khi lạy Phật, hành giả đạt
được tuệ thấy vô thường, tuệ thấy khổ và tuệ thấy vô ngã, và
hành giả thành tựu giáo pháp cao thượng. Chánh niệm tỉnh giác đem lại
nhiều thiện pháp.
Trong thời Đức Phật, nhiều người
đắc pháp nhờ thực hành chánh niệm tỉnh giác, vì vậy quý vị nên tu tập
chánh niệm tỉnh giác, phải vậy không?
Tỉnh giác còn đem lại nhiều thiện
pháp. Khi qúy vị đã nắm được những chỉ dẫn về chánh niệm tỉnh
giác, trong mỗi sự chú niệm đều phát sanh thiện nghiệp.
Khi niệm "muốn cúi lạy...",
đó chính là niệm tâm, và hành giả có được thiện nghiệp do thực hành
Quán Tâm Niệm Xứ.
Khi niệm "cúi lạy..." là
hành giả đang niệm thân. Do thực hành Quán Thân Niệm Xứ, hành giả cũng
có nhiều thiện nghiệp.
Khi niệm "muốn ngẩng
lên..." là hành giả đang niệm tâm. Do thực hành Quán Tâm Niệm Xứ
mà hành giả có thiện nghiệp.
Khi niệm "ngẩng lên...",
hành giả đang niệm oai nghi của thân. Do thực hành Quán Thân Niệm Xứ mà
hành giả có thiện nghiệp.
Lúc lạy Phật, tâm hành giả trong
sáng, thân hành giả nhẹ nhàng, thân và tâm đều thoải mái. Khi cúi lạy
với chánh niệm tỉnh giác, mà cảm thấy thân và tâm đều thoải mái,
hành giả có nên chú niệm sự thoải mái trên trạng thái của thân và
tâm không? Vâng, nên chú niệm. Trạng thái thân và tâm rất rõ ràng nổi bật
này nên được chú niệm là "thoải mái..., thoải mái...". Hành giả
đang chú niệm thọ lạc, và do thực hành Quán Thọ Niệm Xứ mà hành giả
có nhiều thiện nghiệp.
Ngược lại, khi lạy Phật mà hành
giả cảm thấy không dễ chịu (có thể do bị đau ngực hay đau lưng), hành
giả có nên thêm điều đó trong sự chú niệm của mình, tức là niệm
"đau..., đau..." hay không? Vâng. Đó là loại niệm xứ nào? Đó
chính là Quán Thọ Niệm Xứ. Khi cảm nhận đau, hành giả thật sự đang
chú niệm thọ khổ. Do thực hành Quán Thọ Niệm Xứ, hành giả có nhiều
thiện nghiệp.
Khi hành giả đang lạy Phật, có thể
có những người khác cũng đang lạy ở gần đó tạo nên tiếng động lớn.
Ngay lúc đang nghe như vậy, nếu hành giả có thể chú tâm vào việc niệm
"nghe..., nghe...", đó chính là Quán Pháp Niệm xứ. Làm như vậy hành
giả có thiện nghiệp không?Vâng, có. Một người đã có nền tảng thiền
quán, thì bất cứ cái gì phát sanh lên cũng đều có thể chú niệm và thấu
hiểu thực tánh của chúng, do vậy mà tích lũy được thiện nghiệp.
Mỗi lần lạy Phật, có bao nhiêu
thiện pháp màmột người có nền tảng Tứ Niệm Xứ thu thập được? Bốn
hay năm? Người nào muốn có nhiều thiện pháp sẽ bảo là "năm".
Vâng, bảo là có năm thiện pháp thì cũng đúng.
1. Niệm "muốn cúi lạy..., muốn
cúi lạy...", hành giả có được thiện pháp do thực hành Quán Tâm Niệm
Xứ.
2. Niệm "cúi lạy..., cúi lạy..."
hành giả có được thiện pháp do thực hành Quán Thân Niệm Xứ.
3. Niệm "an tịnh" hay
"thư thái" hành giả có được thiện pháp do thực hành Quán Thọ
Niệm Xứ. Nếu trong khi lạy mà bị đau ở ngực hay ở lưng, hành giả niệm
"đau..., đau...", thì hành giả cũng có được thiện pháp do thực
hành Quán Thọ Niệm Xứ.
4. Khi lạy Phật, nghe nhiều người
khác đang lạy gây tiếng động lớn, hành giả chỉ nhận kịp thời với
pháp hiện tại bằng cách niệm "nghe..., nghe..." nên hành giả có
được thiện pháp do thực hành Quán Pháp Niệm Xứ.
5. Do hướng tâm về Đức Phật, nên
khi lạy hành giả còn có thiện pháp do đảnh lễ Phật.
Như vậy cả thảy có năm loại thiện
pháp: bốn thiện pháp do Tứ Niệm Xứ và một thiện pháp do niệm Phật.
Một người có nền tảng Niệm Xứ
sẽ tạo được rất nhiều thiện pháp; thật là tuyệt vời phải không?
Quý vị ở đây nếu biết được bản chất của thiện pháp thì sẽ muốn
tạo thêm nhiều thiện pháp nữa, phải vậy không?
Bản chất của thiện pháp được
giải thích như sau:
"Kusala anavajja sukha vipàka
lakkhanà".
"Thiện pháp là vô tội và trong sạch. Tướng của nó là đem lại quả
an vui".
Khi thực hành thiện pháp thì không
có tội lỗi. Như khi một người đang bố thí của cải để cho người khác
được an vui, lẽ nào người đó lại bị trừng phạt do đã bố thí tài
sản của mình? Dĩ nhiên là không.
Một người luôn thu thúc, kiểm
soát các hành động thân và khẩu rất tốt, lấy giới luật để giữ cho
thân và khẩu luôn trong sạch, làm sao người ấy có thể bị kết án là
có tội do đã thu thúc mọi hành vi cử chỉ của mình? Không có một tội
lỗi nào có thể gán cho người đó được.
Một người đang thực hành thiền
quán để làm cho tâm được an tịnh, định tĩnh, để thấy ra sự thật và
để đoạn tận tham, sân, si, làm sao chúng ta có thể chống lại người đó
chỉ vì họ đang tự thanh lọc tâm mình? Vâng, chúng ta không thể chống
được.
Làm việc thiện thì không bao giờ
có tội lỗi. Khi đã làm được rồi, thì đời này, đời sau, và nhiều
đời sau nữã trong vòng sanh tử luân hồi, những thiện pháp này sẽ đi
theo quý vị để cho quả phước. Do đó người nào đã hiểu được điều
này đều muốn làm việc thiện càng nhiều càng tốt.
Muốn làm nhiều việc thiện, hành
giả nên hành pháp gì? Vâng, pháp Tứ Niệm Xứ. Một hành động lạy Phật
sẽ đem lại bao nhiêu thiện pháp? Vâng, năm loại thiện pháp. Xin hãy đọc
3 lần:
Yếu Pháp:
Thực hành Tứ Niệm Xứ
Đạt được nhiều phước thiện
Những người đã đạt được nhiều
phước thiện do thực hành Tứ Niệm Xứ sẽ có an lạc và hạnh phúc trong
mọi hoàn cảnh.
Khi đi tới và quay lui, hành giả phải
hành động bằng sự chú tâm trọn vẹn. Vậy là tôi đã nói xong về lời
chỉ dẫn tỉnh giác thứ nhất, bây giờ tôi sẽ giải thích lời chỉ dẫ宠thứ hai.
c. Lời chỉ dẫn tỉnh giác thứ hai.
"Àlokite vilokite sampajànakàrì
hoti".
"Khi nhìn thẳng hay nhìn ngang, hành giả phải nhìn với sự chú tâm trọn
vẹn".
Đang thực hành thiền quán, tất cả
cái nhìn dù thẳng hay ngang đều phải có chánh niệm. Vì Đức Phật chỉ
nói đến hai tư thế này (là hướng thẳng và hướng ngang) nên các vị trưởng
lão và các thiền sư hướng dẫn hành giả không nên nhìn lên hay nhìn lui
trong lúc hành thiền, nếu không sự chú niệm sẽ dễ bị rối loạn.
Các hành giả đang cố gắng để
thành tựu các tuệ giác và đạt đến giáo pháp cao thượng, nên mỗi một
sự chú niệm đều rất quan trọng. Chỉ cần bỏ lỡ một sự chú niệm
có thể khiến cho hành giả bỏ lỡ Thánh đạo tuệ và Thánh quả tuệ.
Vì vậy hành giả phải hành trì tinh tấn để không bỏ lỡ dù một hoặc
hai sự chú niệm.
Khi nhìn thẳng hay khi nhìn ngang,
hành giả đều phải có chánh niệm. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Nhìn thẳng hay nhìn ngang
Đều chú tâm trọn vẹn
Đó chính là tỉnh giác.
Trước hết hành giả phải tập
chú niệm ngay lúc vừa mới nhìn. Đừng để cho cái nhìn đi hoang, hoặc nhìn
xa hơn nữa để xem người đó là đàn ông hay đàn bà, cao hay thấp, mặt
mày thế nào v.v... Hành giả không nên biết những điều này. Ngay khi vừa
mới nhìn, hành giả phải chú niệm ngay lập tức.
"Ditthe dittha mattaư
bhavissati"
"Bất cứ sắc nào vừa mới khởi lên, phải chú niệm ngay khi vừa mới
tiếp xúc"
Điều đó nghĩa là gì và bằng
cách nào mà chúng ta có thể làm được? Hành giả chú niệm ngay khi vừa mới
nhìn để tâm không tiếp tục phân biệt đó là đàn ông hay đàn bà, cao
hay thấp, mặt mày thế nào; tâm hành giả chú niệm ngay khi cảnh sắc vừa
xuất hiện để không nhìn trong thất niệm.
Các hành giả ở đây đều đã có
định tâm nên chẳng có khó khăn gì khi làm như vậy, phải không? Người
không có chánh niệm và ít định tâm có thể thấy điều này rất khó khăn.
Thậm chí họ không thể hiểu nổi ý nghĩa của nó.
Có vài người lý luận rằng:
"Khi nhìn một người nào, làm sao chúng ta có thể đặt tâm mình vào
ngay lúc mới nhìn, vì chúng ta đã thấy mọi thứ rồi mà! Ngay khi nhìn,
chúng ta đã nhìn thấy mọi thứ, vậy làm sao có thể chú niệm kịp thời
được?
Điều đó chỉ xảy ra với những
người có quá ít hoặc không có định tâm, những người chưa có chánh niệm.
Quý vị ở đây có thể tập trung để chú niệm ngay khi vừa mới nhìn, phải
vậy không?
Trong khi đi, hành giả với định tâm
cao luôn chú niệm "giở, bước, đạp":
- Khi niệm "giở...", hành
giả thấy cảm giác nhẹ càng lúc càng tăng kèm theo động tác giở.
- Khi niệm "bước...", hành
giả thấy cảm giác nặng càng lúc càng tăng kèm theo động tác bước.
- Khi niệm "đạp...", hành
giả thấy cảm giác nặng càng lúc càng tăng kèm theo động tác đạp.
Với hành giả đó, vì mắt họ
luôn nhìn xuống, nên nếu quý vị hỏi ai đang đi trước mặt họ, họ sẽ
trả lời rằng họ không biết đó là ai, họ chỉ thấy có người nào đó
đi trước mặt. Họ có thể chú tâm ngay khi nhìn. Họ chỉ tập trung vào sự
chú niệm, và tâm của họ có thể chú niệm ngay khi đối tượng xuất hiện.
Nếu các hành giả ở đây có thể chú niệm như vậy, định tâm sẽ tăng
trưởng nhiều hơn và tuệ giác sẽ chín muồi hơn.
Đã giải thích xong về lời chỉ dẫn
thứ hai, bây giờ tôi sẽ nói tiếp về lời chỉ dẫn thứ ba.
d. Lời chỉ dẫn tỉnh giác thứ ba
"Samminjite pasàrite
sampajànakàrì hoti"
"Tất cả cử động co, duỗi, hành giả phải thực hiện với sự chú
tâm trọn vẹn"
Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Khi co và khi duỗi
Đều chú tâm trọn vẹn
Đó chính là tỉnh giác.
Khi co hay duỗi tay chân, hành giả
phải làm với chánh niệm. Khi duỗi, hành giả niệm "duỗi..., duỗi...".
Khi co tay hành giả niệm "co..., co...". Đó chính là Quán Thân Niệm
Xứ.
Định tâm đã chín chắn thì tác
ý muốn co và tác ý muốn duỗi đều trở nên rõ ràng, nên hành giả có
thể chú niệm kịp thời.
Đức Phật dạy rằng, hành giả
nên bắt đầu chú niệm đến tác ý nếu chúng nổi bật, Khi sắp sửa co
tay, nếu hành giả quan sát thấu đáo, sẽ thấy rằng tác ý muốn co xảy
ra đầu tiên, do đó hành giả niệm "muốn co..., muốn co...", phải
vậy không? Và sau đó, động tác co xảy ra. Hành giả niệm "co...,
co...". Hình dáng và tư thế của tay phải bị loại ra khỏi sự chú niệm.
Hành giả không nên quan sát bằng mắt, mà tốt hơn nên nhắm mắt lại.
Chuyển động hướng vào từ từ của tay được gọi là "co". Nếu
hành giả có thể bắt kịp chuyển động từ từ của động tác co, thì
hình dáng và tư thế của tay sẽ không xen vào trong sự chú niệm.
Khi tay co dần và đụng đến phần
trên của thân (tức là đầu hay vai), hành giả biết rằng tay đang nâng
lên dần dần và càng lúc càng nhẹ hơn khi nâng lên.
Tay đụng đến đầu hay vai thì
hành giả bắt đầu muốn duỗi tay ra. Nếu chú tâm, hành giả sẽ thấy
tác ý muốn duỗi nổi bật nhất. Vì vậy hành giả niệm "muốn duỗi...,
muốn duỗi...". Nếu tập trung tốt, hành giả thấy tác ý rất nổi bật.
Vì vậy hành giả tiếp tục chú niệm. Sau đó, do tác ý muốn duỗi làm
phát sinh một luồng khí đẩy xuống, khiến cho động tác duỗi phát sinh,
và hành giả niệm "duỗi..., duỗi..."
Khi chú niệm như vậy, hành giả
không nên để ý đến hình dáng và tư thế của tay. Vì sao vậy? Vì đó
là Pannatti.
Tính cách của chuyển động đưa
xuống từ từ và tính cách của chuyển động hướng ra xa thân dần dần
cần phải được quan sát thật cẩn trọng và thấu đáo.
Nếu hành giả có thể loại hẳn
hình dáng, tư thế của tay và chú niệm bắt kịp các chuyển động của
tay, thì khi niệm "duỗi..., duỗi..." hành giả thấy rằng tay từ từ
hướng ra về phía phần dưới của thân và cảm giác nặng tăng dần đi kèm
với chuyển động đó.
Khi niệm "muốn co..., muốn
co...", "co..., co..."hành giả thấy cảm giác nhẹ tăng dần đi
kèm với chuyển động nâng lên.
Khi niệm "muốn duỗi..., muốn
duỗi...", "duỗi..., duỗi..." hành giả thấy cảm giác nặng tăng
dần đi kèm với chuyển động hạ xuống.
Hành giả phải chú niệm thật
miên mật và cẩn trọng. Không nên chú niệm một cách cẩu thả. Bằng sự
chú niệm cẩn trọng, hành giả sẽ tự mình chứng nghiệm. Hành giả bắt
đầu thấy pháp do thấy được tính chất nhẹ khi co lên và tính chất nặng
khi duỗi xuống, phải vậy không? Vâng.
Tính chất nặng là gì? Vâng, đó
là Địa đại và Thủy đại.
Tính chất nhẹ - đó là Hỏa đại
và Phong đại.
Khi hành giả cảm nhận được những
tính chất đó, hành giả thấy pháp. Từ đó, hành giả sẽ thấy pháp
càng ngày càng rõ hơn. Thấy pháp là điều quan trọng nhất. Nhờ thấy pháp
như vậy, mà hành giả sẽ nhiệt tâm hơn, và do định tâm tăng trưởng, mà
hành giả chú niệm tốt hơn. Hành giả sẽ đạt được tiến bộ rõ rệt.
Nếu hành giả đã có thể chú niệm động tác co duỗi tay chân, thì các
động tác khác rất dễ chú niệm.
Tuy vậy, trong quá khứ, đã có vô
số lần hành giả co duỗi mà không có chú niệm. Từ khi còn nhỏ, từ khi
hành giả bắt đầu biết co duỗi, không biết bao nhiêu triệu lần hành giả
đã co duỗi trong thất niệm.
Do thói quen thất niệm đó, bây giờ
nếu chỉ với mức độ chánh niệm bình thường, các động tác sẽ không
rõ ràng để chú niệm. Hành giả phải hết sức chuyên chú. Hành giả phải
quyết tâm rằng sẽ không bao giờ co duỗi trong thất niệm. Tuy nhiên, như
một vị thiền sư ngày xưa từng làm dù đã quyết tâm như vậy mà có lỡ
quên và co duỗi trong thất niệm, thì hành giả phải co duỗi lại với
chánh niệm.
Ngày xưa, có vị thiền sư già quyết
tâm hành thiền để chứng đắc đạo quả. Vị ấy không làm gì khác
ngoài việc chú niệm. Mọi việc, mọi lúc, khi ngồi, khi đứng, khi co, khi
duỗi, khi cầm, khi nắm, vị ấy đều chánh niệm. Vị ấy thực sự đang
hành trì hết sức tinh tấn để sớm chứng đắc đạo quả. Một hôm có
mấy người đệ tử cũ đến đảnh lễ. Gặp lại các đệ tử trước đây
đã từng sống với mình, vị ấy rất vui mừng. Trong khi nói chuyện, vị
ấy quên và co tay hơi nhanh. Phản tỉnh lại, vị ấy nhận ra lỗi của mình.
Vị ấy nhận ra rằng mình đã co tay mà không chú niệm. Vị ấy duỗi tay
ra, và với chánh niệm bắt đầu co tay lại. Những người đệ tử thấy
thầy co tay nhanh, sau đó lại thấy thầy duỗi tay và co tay chậm rãi, bèn
hỏi rằng: "Thưa Thầy, tại sao ban đầu Thầy co tay nhanh, sau đó Thầy
duỗi ra chậm và co vào cũng chậm?".
Vị thiền sư trả lời: "Này
các con, từ khi Thầy bắt đầu hành thiền, Thầy không bao giờ làm động
tác thiếu chánh niệm. Hôm nay có các con ở đây nói chuyện vui vẻ, Thầy
đã quên và co tay thiếu chánh niệm. Vì vậy Thầy duỗi tay ra lại và co
vào với chánh niệm."
Đó là một tấm gương cho các
hành giả ở đây.
Hành giả nào muốn chú niệm liên
tục không gián đoạn để có thể chứng đắc đạo quả, nên lặp lại bất
cứ hành động nào mình đã quên không làm với chánh niệm. Bằng cách đó,
sự chú niệm trở nên liên tục, ngũ quyền được củng cố và hành giả
sẽ thấy pháp rất nhanh.
Giới thiệu
| I |
II | III | IV | V
| VI | VII
| VIII |
IX | X | XI | Lời bạt
| Từ vựng