- Chín yếu tố phát triển
thiền quán
- Tác giả: Sayadaw U Kundalàbhivamsa
- Dịch giả: Tỳ kheo Thiện Minh
- Chương V I
- Yếu Tố Thứ Ba Giúp
Phát Triển Thiền Quán (Phần 2)
a. Lời chỉ dẫn tỉnh giác thứ tư
"Sanghàti patta cìvara dhàrane
sampajànakàrì-hoti"
Đức Phật dạy rằng:
"Khi cầm y nội, y vai trái, y
tăng-già-lê và bình bát, hành giả phải cầm với sự chú tâm trọn vẹn."
Khi sờ vào y trái, đưa về phía
mình và đắp lên người, tất cả những hành động đó phải được làm
với sự chú tâm trọn vẹn.
Khi đụng vào bình bát, đưa về phía
mình, cầm và giữ nó trong tay, tất cả những hành động đó phải được
làm với sự chú tâm trọn vẹn.
Khi chạm vào y tăng-già-lê, đưa về
phía mình và đắp lên người, tất cả những hành động đó phải được
làm với sự chú tâm trọn vẹn.
Khi chạm vào y nội, đưa về phía
mình và quấn lên người, tất cả những hành động đó phải được làm
với sự chú tâm trọn vẹn. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Y, bát, vật phụ tùng
Mỗi khi cầm nắm lấy
Phải chú tâm trọn vẹn
Đó chính là tỉnh giác.
Khi đưa tay lấy y, hành giả niệm
"đưa tay..., đưa tay..."
Khi đưa tay đụng vào y, niệm
"đụng..., đụng..."
Khi cầm y lên, niệm "cầm
lên..., cầm lên..."
Khi mặc y, niệm "mặc..., mặc..."
Khi đụng, cầm lên và mặc y, hành
giả đều làm với chánh niệm. Đó là dành cho chư tăng.
Các hành giả ở đây, tất cả
quý vị cũng vậy, phải làm tất cả mọi hành động với chánh niệm. Khi
cầm lấy quần áo và mặc vào, mọi hành động đều phải có chánh niệm.
Khi hành giả đã hình thành được thói quen làm mọi việc với chánh niệm,
hành giả có thể làm tất cả mọi thứ với sự chú tâm trọn vẹn. Chỉ
cần hình thành cho được thói quen thôi. Điều quan trọng nhất không phải
là nhìn thật xa, chỉ cần giữ tầm mắt trong một phạm vi ngắn và luôn
nhìn xuống, hành giả duy trì tâm của mình trên thân một cách chuyên chú.
Nếu làm được như vậy thì tỉnh
giác không phải là một việc khó. Nhưng nếu hành giả vẫn cứ nhìn xa như
trước đây và không duy trì chánh niệm trên thân một cách liên tục thì
tỉnh giác là một công việc rất khó khăn. Một khi hành giả đã thành
công trong chánh niệm tỉnh giác, chắc chắn hành giả cũng thành công trong
thiền quán. Do đó hành giả phải cố gắng chánh niệm tỉnh giác.
b. Lời chỉ dẫn tỉnh giác thứ năm
"Asite pìte khàyite sàyita
sampajànakàrì hoti".
Đức Phật dạy rằng:
"Khi ăn, khi uống, khi nhai,
khi nuốt, tất cả phải được thực hiện với sự chú tâm trọn vẹn".
Khi ăn cơm, uống nước, nhai thức
ăn hay nuốt xuống, tất cả phải được làm với chánh niệm, các hành giả
muốn hành thiền để chứng đắc đạo quả thì phải chú niệm hết thảy
mọi hành động không bỏ xót. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Khi ăn hoặc khi uống
Đều chú tâm trọn vẹn
Đó chính là tỉnh giác.
Có 3 cách ăn có ích và thành tựu
thiện pháp:
1. Ăn với giới
2. Ăn với định
3. Ăn với tuệ
1. Ăn với giới: Khi ăn
hành giả phải quán xét với trí tuệ.
Tỳ kheo và Sa di khi ăn phải quán
xét như vầy:
- Ta ăn không phải để vui đùa như
trẻ con.
- Ta ăn không phải để tăng thêm sức mạnh và tự hào về sức mạnh của
mình như các lực sĩ, võ sĩ.
- Ta ăn không phải để làm đẹp thân mình như các nghệ sĩ, vũ nữ...
Tỳ kheo và sa di ăn để:
- Thân được mạnh khỏe
- Sự mệt nhọc giảm bớt
- Có thể tu tập Tứ Niệm Xứ để chứng đắc đạo quả.
Nếu có thể được, thì mỗi miếng
cơm đều phải quán xét như vậy. Nếu không, mỗi ngày phải quán xét ít
nhất là một lần. Cách ăn với sự quán xét như vậy gọi là Quán tưởng
vật dụng giới (paccaya sannissita sìla). Các hành giả ở đây khi hành thiền
với mục đích đạt được các tầng tuệ giác đều cần phải quán tưởng
như vậy.
Ngay khi hành giả quán tưởng rằng
mình ăn vật thực này là để hành thiền, để tu tập Tứ Niệm Xứ, thì
hành giả đã tạo được thiện pháp.
Khi đã quen quán tưởng thì không
còn thấy khó khăn nữa. Hành giả có thể làm được điều này. Quán tưởng
như vậy, hành giả có được quán tưởng vật dụng giới (paccaya
sannissita sìla) và thiện giới (sìla kusala). Đó gọi là ăn với giới. Xin
hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Hành thiền, có quán tưởng
Gọi là "ăn với giới".
2. Ăn với định: Khi
ăn, hành giả nên quán xét với tâm từ rằng: Cầu chúc cho những người
đã bố thí vật thực này, những người đã nấu nướng những thức ăn
này và các hành giả đồng tu được mạnh khỏe, an vui. Cầu cho tất cả
chúng sanh trong mười phương được mạnh khỏe, an vui.
Đề mục tâm từ là một trong nhiều
đề mục của thiền định. Ăn với sự quán tưởng như vậy, hành giả
đạt được thiện pháp hành thiền định. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Ăn với tâm từ ái
Gọi là ăn với định.
Ăn với tâm từ là một đề mục
thiền định, vì vậy trong khi ăn hành giả đạt được Định thiện
(Samatha kusala).
3. Ăn với tuệ: Hành giả
phải hành thiền quán trong khi ăn. Chú niệm tất cả các cử động của
thân trong khi ăn chính là ăn với tuệ.
Ngay khi hành giả thấy bàn ăn, hành
giả phải làm gì? Hành giả niệm "thấy..., thấy..."
Khi đưa tay đến thức ăn, niệm:đưa
tay...,đưa tay..."
Khi đưa tay đụng vào thức ăn, niệm"đụng...,đụng..."
Khi nắm một nắm cơm để đưa lên
miệng, niệm "nắm...,nắm..."
Khi đưa thức ăn lên miệng, niệm
"đưa...,đưa..."
Khi đầu cúi xuống gần thức ăn,
niệm "cúi...,cúi..."
Khi há miệng, niệm
"há...,há..."
Khi đút thức ăn vào miệng, niệm
"đút...,đút..."
Khi ngẩng đầu lên, niệm "ngẩng...,
ngẩng..."
Khi nhai niệm
"nhai...,nhai..."
Khi nhận ra mùi vị, niệm "biết...,
biết..."
Khi nuốt thức ăn, niệm "nuốt
...,nuốt..."
Đó là cách mà Ngài Thiền sư Mahàsi
chú niệm trong khi ăn một miếng cơm. Nó cũng rất có ích cho các hành giả
muốn chú niệm cẩn thận và thấu đáo để cho chánh niệm được duy trì
liên tục.
Ban đầu, hành giả không thể chú
niệm được tất cả, nhưng đừng có nản lòng. Khi định tâm mạnh hơn,
hành giả sẽ có thể ghi nhận hết thảy. Khi định tâm còn yếu, hành giả
nên chú tâm vào động tác nào nổi bật nhất. Động tác nào nổi bật nhất
đối với hành giả?
Nếu động tác "đưa tay" là
nổi bật, hành giả nên chú niệm các động tác đưa tay, không bỏ sót.
Nếu động tác "cúi đầu"
là nổi bật nhất, hành giả nên chú niệm các động tác cúi đầu, không
bỏ sót.
Nếu động tác "nhai" là nổi
bật nhất, hành giả nên cố gắng chú niệm tất cả các động tác nhai,
không bỏ sót.
Ngài Thiền sư Mahàsi thường hỏi
các hành giả xem họ chú niệm động tác nhai như thế nào. Ngài hỏi để
biết rằng hành giả có biết các chú niệm hay không. Ngài hỏi hành giả
là khi chú niệm động tác nhai, là hàm trên hay hàm dưới, hàm nào chuyển
động. Quý vị ở đây có biết hàm nào chuyển động hay không? Vâng, hàm
dưới.
Vài hành giả trả lời rằng cả
hai hàm đều chuyển động. Họ bảo tôi rằng cả hàm trên và hàm dưới
đều chuyển động? có thật vậy không? Không. Vì hàm trên gắn liền với
đầu, nên nó không chuyển động. Chỉ khi hành giả nhai với sự chú tâm
trọn vẹn thì mới nhận ra được chuyển động của hàm dưới.
Ngài Thiền sư Mahàsi nhận ra điều
đó vì Ngài đã chú niệm với sự chú tâm trọn vẹn. Nếu một người chỉ
quan sát thân một cách hời hợt bề ngoài thì không thể biết được điều
đó, vì tâm của người đó chỉ nghĩ tới hương vị của thức ăn. Chuyển
động của hàm dưới nên được hành giả chú niệm là "nhai...,
nhai..." Điều chủ yếu là hành giả biết được chuyển động đó
nên được chú niệm là "đưa lên, đưa xuống..." hay "chỉ là
chuyển động..." Điều quan trọng nhất là biết được tính cách chuyển
động.
Khi hành giả có thể chú niệm
tính cách của các chuyển động một cách rõ ràng, thì hành giả đó bắt
đầu có Định phát sinh do sức chú niệm, và Định vẫn tiếp tục trong các
động tác khác. Ban đầu hành giả phải chú niệm để có Định. Khi Định
tăng dần thì Tuệ sẽ tự động phát sinh. Ngay khi Định phát sinh do chú
niệm các động tác của thân, minh sát tuệ sẽ soi chiếu các động tác
đó ngay lập tức .
Tiếp tục chú niệm, Định càng mạnh
mẽ thì Tuệ càng thấu suốt , hành giả nhận ra rằng các động tác đưa
tay, đụng, nắm cơm, đưa cơm lên, cúi đầu xuống, há miệng, đút cơm,
ngẩng đầu lên, nhai thức ăn, biết hương vị hay nuốt thức ăn là một
việc, còn tâm chú niệm các động tác đó là một việc khác. Lúc nào cũng
tồn tại hai thứ khác nhau như vậy.
Các động tác khi ăn, thể cách
chuyển động là những pháp vô tri gọi là sắc pháp.
Tâm chú niệm cũng như thức nhận
biết gọi là danh pháp.
Quý vị có thể phân biệt hai pháp
này không? Vâng, có thể. Khả năng phân biệt danh pháp và sắc pháp là một
trí tuệ gọi là danh sắc phân tích trí. Khi Định tăng dần, hành giả sẽ
thấy rằng minh sát tuệ tự động xuất hiện.
Thậm chí nếu hành giả không thấy
rõ kinh nghiệm của mình trong trí tuệ đó, thì khi Thiền sư giải thích như
vậy, quý vị cũng có thể hiểu rõ, phải không? Vâng. Tất cả các động
tác đều là sắc pháp vô tri. Tâm chú niệm đi theo sau các động tác để
chú niệm là danh pháp. Tùy theo mức độ định tâm mà sự nhận thức cũng
khác nhau.
Đến những giai đoạn sau, hành giả
sẽ thấy được nhiều biểu hiện khác nhau của trí tuệ đó. Vài hành giả
có thể chú niệm cả tác ý. Khi tôi hỏi đó là động tác gì, cô trả lời
không có tác ý khi nuốt thức ăn vì thức ăn nó tự trôi thẳng xuống dạ
dày rồi.
Tôi (Thiền sư) bảo cô ta: "Thật
vậy sao? Có thể như vậy sao? Hành giả hãy cố gắng chú niệm lại đi.
Không có tác ý muốn nuốt thì蠬àm sao có thể
nuốt được. Hãy cố gắng chú niệm lần nữa đi."
Hôm sau, hành giả đó đến thưa rằng:
"Bạch Ngài, Ngài nói đúng rồi ạ, chỉ khi con có tác ý muốn nuốt
thì con có mới có thể nuốt được .
Quý vị có thể nuốt nếu không
có tác ý muốn nuốt không? Vâng, không thể. Quý vị chú niệm tác ý muốn
nuốt là "muốn nuốt..., muốn nuốt..." và sau đó quý vị chú niệm
động tác nuốt "nuốt...,nuốt...". Dần dần, tùy theo mức độ của
Định tâm, quý vị có thể chú niệm bất cứ cái gì nổi bật nhất khi
nó phát sinh. Vài hành giả còn có thể chú niệm nhiều hơn nữa.
Có một hành giả thường hay nghe
băng giảng của Ngài Thiền sư Mahasi về các tầng tuệ giác. Cô vẫn thường
đến trường thiền để giúp đở một số công việc. Trong suốt thời
gian hành thiền, cô hành rất tốt. Vì là một hành giả lâu năm và quen biết
với tôi, nên cô rất hay trình pháp. Khi tôi hỏi cô có chú niệm trong khi
ăn không, cô bảo là cô có thể làm được, nhưng thực sự cô chỉ chú
niệm khi nào thức ăn không ngon thôi. Khi nào thức ăn ngon thì cô không
chú niệm. Như vậy có đúng không? Tôi hỏi cô tại sao cô không chú niệm
khi thức ăn ngon. Cô trả lởi rằng khi thức ăn không ngon thì cô không muốn
ăn, do vậy khi cô chú niệm, trước khi cô nhận ra thì bụng đã no rồi.
Tôi nghĩ rằng ý kiến cô ta cũng lạ
khi thức ăn ngon thì có tham khởi lên trong chúng ta. Khi thức ăn không ngon
thì có sân và ưu khởi, nhưng lại cho phép tham sinh khởi. Cách của cô ta
có vẻ như vậy, phải không? Vâng.
Phương pháp cô ta không phải là một
điển hình tốt để noi theo. Các hành giả phải chú niệm cả khi thức
ăn ngon lẫn thức ăn không ngon. Dù ngon hay dở thì hành giả vẫn phải
chú niệm, tức là có tham. Khi thức ăn giở mà không chú niệm, thì sân
và ưu khởi lên trong hành giả. Tuy nhiên nếu hành giả có thể chú niệm
trong khi ăn, dù thức ăn ngon hay giở, thì hành giả có thể đắc pháp ngay
đây và bây giờ. Đã có nhiều người đắc pháp bằng cách như vậy.
Có một vị tỳ kheo lớn tuổi và
một vị sa di sống chung với nhau trong một tu viện. Vị tỳ kheo đó là
chú của vị sa di, tên là Sangha Rakkhita. Vào giờ đi khất thực, khoảng
8:30 đến 9:00 sáng, vị sa di đi khất thực. Trở về lúc 10:30 hay 11:00, vị
sa di đi độ ngọ.
Khi vị sa di đang độ ngọ thì vị
tỳ kheo chú đến và nhắc nhở rằng: "Này con đừng để cho lưỡi
con bị bỏng vì cơm nóng và cà ri nóng".
Nghe lời khuyên của chú, vị sa di
suy nghĩ: "Sao thế nhỉ? Lúc 11:00 thì thức ăn đã nguội lạnh hết rồi,
Tại sao chú mình lại khuyên như vậy khi mình đang ăn cơm nguội và cà ri
nguội nhỉ? Tại sao chú mình lại khuyên mình đừng để bị bỏng bởi
cơm nóng và cà ri nóng? Lời khuyên đó có ý nghĩa gì?"
Vị sa di có nên suy nghĩ như vậy
không? Vâng, rất nên. Vị sa di này đã chín chắn trong các pháp ba-la-mật
nên mới cân nhắc như vậy. Vị ấy nhận ra rằng không phải lưỡi bị bỏng
do cơm nóng và cà ri nóng, mà là do lửa tham và lửa sân, và vị trưởng lão
đã khuyên mình đừng để bị bỏng những ngọn lửa này. Lời khuyên đó
chính là để nhắc nhở vị sa di phải ăn với sự quán tưởng, với sự
chú niệm, và vị sa di đó phải làm như vậy.
Khi thức ăn ngon thì các vị tỳ
kheo và sa di đôi lúc cũng thấy dính mắc với nó. Họ muốn có thức ăn
đó vào ngày hôm sau. Họ có thể kiếm nó ở đâu? Ngày mai nhà nào sẽ
dâng cúng thức ăn loại đó? Và những hôm sau nữa, thức ăn đó có hay
không? Khởi lên những mong muốn như vậy thì điều gì đang xảy ra cho vị
tỳ kheo? Vâng đó chính là sự sinh khởi của tham. Đối với người tại
gia, thì hôm sau họ có thể nấu món ăn đó để thưởng thức thêm một lần
nữa, đó cũng chính là sự sinh khởi của tham. Vì thức ăn ngon mà tham
sinh khởi nên có thể nói rằnglưỡi đã bắt lửa, lửa đó chính là
Tham.
Khi thức ăn dở, họ cảm thấy bực
mình và khiển trách người nấu ăn đó, phải vậy không? Những người thích
ăn ngon thậm chí sẽ nổi giận. Có người thấy thức ăn bèn đứng dậy
và bỏ đi khỏi phòng ăn. Đôi lúc họ nghĩ ra cớ gì đó để đứng dậy
và bỏ đi. Lửa gì đang thiêu đốt họ vậy? Vâng, đó là lửa sân. Có
lý do cho tham khi thức ăn ngon hay có lý do cho sân khi thức ăn dở, tất cả
những điều đó xảy ra là do hành giả không ăn với chánh niệm. Thiếu
chánh niệm, hành giả có thể bị bỏng do lửa tham và lửa sân thiêu đốt.
Vị sa di kia, đến cuối bửa ăn,
đã chứng đắc bốn đạo và trở thành một vị A-la-hán. Rõ ràng là ngũ
quyền của vị ấy đã trở nên mạnh mẽ và pháp của vị ấy đã tiến
xa rồi, phải vậy không? Vâng điều đó rất rõ ràng.
Không nên nói rằng nếu căn cứ trên
các pháp ba-la-mật thì các hành giả ở đây không thể đắc pháp được.
Nếu hoàn cảnh thuận tiện, nếu sự chú niệm đúng mức và liên tục,
và nếu ba-la-mật đã chín chắn thì ngay trong khi ăn, hành giả có thể đắc
pháp. Vì vậy trong khi ăn chúng ta cần phải chú niệm, Ăn trong chánh niệm
một mặt đem lại lợi ích và phước đức cho thí chủ, mặt khác chính
hành giả cũng có được sự chú niệm liên tục và do vậy có thể đắc
pháp ngay đây và bây giờ.
"Ratthapitopi tena bhutto
mahapphalo". Các Luận sư giải thích rằng: "Người nào cúng dường
vật thực đến những người hành thiền liên tục và có chánh niệm trọn
vẹn, sự cúng dường đó sẽ đem lại phước báu to lớn đến cho thí chủ."
Các hành giả ở đây đã quán niệm
liên tục với sự chú tâm trọn vẹn khi được dâng vật thực, nên sẽ
đem lại phước báu lớn lao cho những người đã dâng cúng cho mình. Bởi
vì, ngay khi chú niệm, hành giả không còn, tham, sân, si, ngã mạn, đố kỵ
và bỏn sẻn. Thời điểm đó, sự cúng dường ví như gieo hạt giống tốt
trên mảnh đất màu mỡ. Thật vậy, lợi ích vô cùng! Lợi ích cho cả người
thọ dụng lẫn bố thí, vì đó là lúc không còn có mặt của tham, sân,
si.
Một lần nữa, vua nước Kosala đến
gặp Đức Phật và hỏi về lợi ích của việc bố thí. Đức vua là người
cùng tuổi với Đức Phật và hỏi về lợi ích của việc bố thí. Hai người
là bạn thời còn thơ ấu và Đức vua rất tôn kính Đức Phật và thường
đến đàm đạo với Ngài. Vua nước Kosala đặt câu hỏi như sau:
"Bạch Đức Thế Tôn, khi trẫm
muốn bố thí, thì nên bố thí cho ai?"
Đức Phật trả lời:
"Đại vương nên bố thí đến
người nào mà Đại vương tôn kính với tâm hoan hỷ, việc làm đó rất
có nhiều quả lành, phải không?"
"Dạ vâng, bạch Đức Thế Tôn."
Rất hài lòng với câu trả lời của Đức Phật, vua hỏi tiếp:
"Bạch Đức Thế Tôn, để có
nhiều phước báu hơn, con nên bố thí như thế nào?"
Đức Phật hỏi lại:
"Này Đại vương! Đại vương
thấy rằng câu hỏi trước và câu hỏi này khác nhau sao? Nếu Đại vương
muốn có nhiều phước báu thì nên chọn một vị A-la-hán là những người
đã đoạn trừ tất cả lậu hoặc phiền não (kilesa Ăsavo)."
Nếu không gặp được một vị
A-la-hán thì nên cúng dường ai? Nên tìm đến những người đang tu tập để
trở thành một vị A-la-hán. Các hành giả ở đây, mặc dầu không thể
nói là quý vị đang hành trình tinh tấn để trở thành một vị A-la-hán,
nhưng ít nhất quý vị cũng đang cố gắng để đạt đến quả Nhập Lưu,
phải vậy không? Trong khi tinh tấn để chứng đắc quả Nhập Lưu, ngay
trong mỗi chú niệm, quý vị đã thoát khỏi tham, sân, si. Cúng dường ở
thời điểm đó là cao thượng nhất. Đức phật dạy rằng điều đó cũng
giống như những hạt giống tốt vải trên mãnh đất màu mỡ. Bắt đầu
từ kiếp này và trong những kiếp về sau, nó sẽ mang lại những kết quả
không lường được.
Trong khi niệm "nhai...,
nhai..." hành giả không thể ao ước hay mong muốn điều gì Tâm không
thể cùng một lúc làm hai công việc. Vì vậy ngay khi chú niệm, Tham bị
đoạn diệt. Cũng không thể có trường hợp quý vị đang chú niệm mà lại
thấy những cảnh hấp dẫn và ham thích nó. Hai tâm không thể xảy ra cùng
một lúc. Khi chú niệm sân và ưu không thể phát sinh.
Khi chú niệm, hành giả cũng thoát
khỏi si . Khi niệm "nhai..., nhai..." hành giả biết rằng động tác
nhai thức ăn là sắc pháp, tâm chú niệm là danh pháp. Tâm hành giả hoàn
toàn chỉ nhận thức trên đối tượng là danh pháp và sắc pháp nên si
không có mặt nơi hành giả. Si có nghĩa là mê mờ. Nghĩ rằng "tôi
đang ăn..., tôi đang ăn...," là si hay vô minh. mà không ý thức được
động tác nhai thức ăn cũng là si. Ăn với chánh niệm tỉnh giác là thoát
khỏi Si hay Vô minh. Cúng dường vào thời điểm giải thoát đó sẽ mang lại
phước báu lớn lao. Lúc nào hành giả có được vô tham, vô sân, vô si,
lúc đó dâng cúng sẽ có nhiều lợi ích. Vì vậy, nếu hành giả muốn
đem lại phước đức cho thí chủ, hành giả chỉ cần duy trì chánh niệm.
Các vị trưởng lão vẫn thường
chia phước cho thí chủ bằng cách này. Khi có ai đến cúng dường cho Ngài
Thiền sư Mahàsi, Ngài nhận bằng chánh niệm. Rồi Ngài đặt vật đó xuống
trong khi vẫn duy trì chánh niệm. Nếu vật đó là một tấm vải, một bộ
y hay một cái khăn, thì lập tức ngài chú niệm vào đó.
Theo giới luật thì khi chú nguyện
vào vật thí như vậy. Ngài mới không phạm giới. Nếu một vị tỳ kheo
nhận một bộ y mà trong vòng 10 ngày quên chú nguyện thì khi đụng vào bộ
y đó, vị tỳ kheo đã phạm giới. Ngài Thiền sư Mahàsi luôn luôn rất thận
trọng trong chuyện này nên ngay khi người ta mới cúng dường Ngài liền
chú nguyện để cho giới của Ngài luôn trong sạch.
Dĩ nhiên Ngài thiền sư Mahàsi là một
vị tỳ kheo có uy tín, có rất nhiều đệ tử và thọ nhận nhiều sự
cúng dường. Nếu Ngài không chú nguyện ngay khi nhận, sau đó có thể Ngài
sẽ quên. Biết vậy Ngài thường chú nguyện ngay lập tức. Đó thật là tấm
gương cho chúng ta phải không?
Đối với đệ tử, một vị tỳ
kheo có thể chia phước bằng sự tu tập, sự hành trì giới luật của
mình. Các Ngài không thể chia phước bằng cách biếu tặng họ vật chất.
Ngày xưa, các vị Trưởng Lão cũng cư xử như vậy. Ngài Xá-lợi-phất, mỗi
khi đi vào thành thị hay làng xóm để khất thực, thường nhập vào Diệt
tận định, và với tâm đó Ngài đi khất thực. Một vị khác tên là
Subbu, thường nhập thiền với đề mục tâm từ để đi vào thành hay vào
làng khất thực. Lý do vì các ngài muốn chia phước đến cho các thí chủ.
Đối với những vị Thánh A-la-hán, bản thân các Ngài dĩ nhiên không cần
phải tích lũy thiện pháp nữa.
Các hành giả ở đây, nếu muốn
theo gương các Ngài để chia phước đến cho các thí chủ, mặc dù quý vị
chưa đắc thiền định, thì với chánh niệm tỉnh giác, quý vị vẫn có
thể nhận sự cúng dường. Các thí chủ có được phước đức là do quý
vị không còn tham, sân, si. Đồng thời sự chú niệm của quý vị cũng tiến
bộ, ngũ quyền tăng trưởng và pháp được thành tựu. Như vậy một người
có nền tảng Tứ Niệm Xứ chẳng phải là kỳ diệu lắm sao?
Trong 9 yếu tố phát triển ngũ quyền
của hành giả, chúng ta đang bàn đến yếu tố thứ ba, là chánh niệm tỉnh
giác.
c. Lời chỉ dẫn tỉnh giác thứ sáu
Hành chánh niệm tỉnh giác, hành giả
không chỉ phải chú niệm những hành vi thanh nhã, mà còn phải chú niệm
những động tác bình thường nhất.
"Uccàra passàva kamme
sampajànakàrì hoti."
Đức Phật dạy rằng:
"Ngay cả khi đại tiện, tiểu
tiện hành giả cũng phải chú tâm trọn vẹn."
Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Đại tiện hay tiểu tiện
Đều chú tâm trọn vẹn
Đó chính là tỉnh giác.
Đức Phật dạy rằng các hành giả
nên bắt đầu chú niệm từ những đặc điểm nổi bật nhất. Vì vậy,
khi hành giả đã có định tâm làm nền tảng, mỗi khi sắp đại tiểu tiện,
trước hết tác ý nổi bật nhất. hành giả nên niệm "muốn đại tiểu
tiện..., muốn đại tiểu tiện..."
Sau đó luồng khí phát sinh do tác
ý sẽ đẩy chất thải xuống dần dần. hành giả chú niệm chuyển động
đó, và niệm "thải ra..., thải ra...,"
Trong lúc đó nếu cảm thấy đau, hành
giả niệm "đau..., đau...,".
Nếu hành giả thực hành theo lời
chỉ dẫn của Đức Phật một cách nghiêm túc, trong khi đại tiểu tiện vẫn
chú tâm trọn vẹn, thì sự chú niệm của hành giả đã tiến bộ rất nhiều.
Ngược lại, nếu hành giả không chú niệm khi đại tiểu tiện, thì sự
chú niệm không liên tục và bị gián đoạn. Hành giả sẽ có một giờ
thiếu chú niệm trong một ngày. Càng lớn tuổi thì thời gian càng bị
gián đoạn càng dài hơn vì họ phải đại tiểu tiện dài nhiều lần hơn.
Khi đại tiểu tiện, hành giả có
bao nhiêu loại phước báu? Vâng, 3 loại. Do chú niệm tác ý, hành giả có
phước báu của việc niệm, tâm.
Do chú niệm động tác đại tiểu
tiện của thân, hành giả có phước báu của việc niệm thân. Do chú niệm
của giác đau, hành giả có phước báu của việc niệm thọ. Thực hành
theo lời dạy của Đức phật thì sẽ có nhiều phước báu và thoát khỏi
bốn đường ác đạo.
Thật là tuyệt vời và thú vị phải
không? Nếu người nào có nền tảng định tâm như các hành giả ở đây,
người đó có thể chú niệm rất tốt ngay cả khi đại tiểu tiện.
d. Lời chỉ dẫn tỉnh giác thứ bảy
"Gate thite nisinne sutte jàgatite
bhàsite tunhibhàve sampajànakàrì hoti."
Đức Phật dạy rằng:
"Khi đi, khi đứng, khi ngồi,
khi nằm, khi ngủ, khi thức, khi nói năng, khi im lặng, tất cả phải được
làm với sự chú tâm trọn vẹn".
Khi Đức Phật sắp thuyết pháp cho
người nào, trước hết Ngài vận dụng tâm bi. Sau đó Ngài thuyết pháp bằng
trí tuệ, chỉ dẫn phương pháp chánh niệm tỉnh giác, Ngài tóm tắt rằng
bất cứ làm việc gì cũng phải có tâm chú niệm đi kèm.
1. Khi đi (gate)
Khi hành giả đi kinh hành, nếu
hành giả định ra rằng định tâm phát triển thì điều đó cũng giúp cho
sự chú niệm tất cả sự và sự chú niệm cho động tác ngồi.
Có 4 loại kinh hành:
- Một sự chú niệm trong mỗi bước:
niệm "chân trái bước..., chân phải bước..."
- Hai sự chú niệm trong mỗi bước: niệm "giở...,đạp."
- Ba chú niệm trong mỗi bước đi: niệm "giở... bước...,đạp."
- Sáu chú niệm trong mỗi bước đi: niệm " bắt đầu..., giở...,đạp...,dứt
giở...,bắt đầu bước..., chấm dứt bước..., bắt đầu đạp..., chấm
dứt đạp."
Các nhà chỉ dẫn có một phương
pháp khác, niệm "bắt đầu giở..., giở..., bước..., đạp..., đụng..,
ấn...".
Phương pháp này hình như khó hơn một
chút. Chỉ khi hành giả thuộc lòng các bước đó thì mới có thể chú niệm
dễ dàng.
Bắt đầu giở là khi chỉ có gót
chân giở lên. Giở là cả bàn chân kể cả các ngón chân đều nâng lên.Bước
chỉ được chú niệm trong một niệm.Đạp là bắt đầu đạp xuống. Đụng
là khi lòng bàn chân chạm đất hay nền nhà. Ấn là chân này ấn mạnh xuống
để蠣hân kia giở lên, và hành giả cảm nhận
được chuyển động đạp khi ấn mạnh hơn.
Ở giai đoạn cuối gọi là "ấn",
nếu hành giả thấy được cảm giác nặng, thì chắc chắn là định tâm
của hành giả đã tăng trưởng. Những giai đoạn tiếp theo sẽ giúp định
tâm vững vàng thêm, và hành giả thấy việc chú niệm dễ dàng và thú vị
hơn.
Nhờ phương pháp này nhiều hành giả
đã tiến bộ rất nhanh. Các Thiền sư thời nay đã sửa đổi đôi chút để
người thời nay có thể hiểu dể dàng hơn.
Khi định tâm do kinh hành được hành,
hành giả cũng có thể chú niệm tất cả sự và khi ngồi thiền, tâm chú
niệm của hành giả mạnh mẽ hơn, hành giả có thể ngồi dể dàng và thoải
mái, không cần phải thay đổi tư thế trong suốt cả giờ. Xin hãy đọc 3
lần:
Yếu Pháp:
- Có thể đi xa
-Mạnh khỏe
- Không đau ốm
- Dễ tiêu hóa
- Định không gián đoạn
Cả 5 điều này là lợi ích của
việc đi kinh hành.
- Có thể đi xa: hành giả nào đạt
được định tâm khi đi kinh hành thì có thể đi đường xa mà không cảm
thấy mệt.
- Mạnh khỏe: khi mới hành thiền,
hành giả thường phải thay đổi tư thế một hoặc hai lần mỗi khi ngồi.
Khi định tâm trong kinh hànhđã tốt, hành giả có thể ngồi suốt cả giờ
đồng hồ không cần thay đổi tư thế. Năng lực và sự tinh tấn của
hành giả ngày càng mạnh hơn.
- Không đau ốm: Có định tâm khi
đi kinh hành, hành giả có thể chữa khỏi các bệnh như đau đầu gối,
đau lưng , đau đầu,v.v...
- Dễ tiêu hóa: Tất cả các loại
thức ăn đều có thể tiêu hoá dễ dàng.
- Định đạt được do kinh hành rất
lâu dài: Do định đạt được trong khi đi nên nó rất lâu dài và khó bị
hoại diệt. Định đạt được trong khi ngồi trong trạng thái tĩnh dễ bị
phá vỡ nếu hành giả đứng dậy hay bước đi. Định đạt được trong
khi nằm hay đứng cũng dễ bị mất khi hành giả đứng dậy hay bước đi.
Còn định đạt được khi đi kinh hành, trong trạngthái động thì dù hành
giả có đứng lại hay ngồi hoặc nằm xuống thì định vẫn có thể duy
trì tiếp tục, nó không dễ bị phá vỡ.
Hành giả nào đạt được định
trong khi kinh hành sẽ có tiến bộ trong sự chú niệm. Vì vậy các hành giả
nên cố gắng hết sức để đi kinh hành cho tốt. Trong thời gian đầu, khi
chưa có định trong khi kinh hành hổ trợ, thì ngồi thiền cũng như chú niệm
tất cả mọi sự đều rất khó khăn, vì sự chú niệm không bắt kịp với
hiện tại. Vì vậy nên chú trọng đến việc đi kinh hành để đạt được
định tâm ấy.
2. Trong khi đứng (Thite)
Nếu hành giả thật sự chú tâm,
thì gần cuối đường đi, khi chỉ còn một hay hai ba bước, hành giả sẽ
chú ý đến tác ý muốn dừng lại và đứng yên. Vì vậy hành giả niệm
"muốn đứng..., muốn đứng..." Nếu đã đắc định, hành giả sẽ
thấy rằng khi chú niệm từ đầu đến chân, có cảm giác như mình càng
lúc càng thấp xuống. Ngược lại, nếu niệm từ chân lên đầu, thì lại
có cảm giác người mình càng lúc càng cao hơn. Tùy theo mức độ định tâm
mà hành giả sẽ thấy được nhiều thứ.
3. Trong khi ngồi (Nisinne)
Khi đang đứng mà định ngồi xuống
tác ý muốn ngồi rất nổi bật, hành giả niệm "muốn ngồi..., muốn
ngồi...." Quý vị không làm được điều đó sao? Vâng, quý vị có thể
chú niệm được. Vì quý vị chú tâm trọn vẹn, nên quý vị có thể thấy
được điều đó. Khi oai nghi ngồi của thân diễn ra, hành giả niệm
"ngồi..., ngồi..." Hành giả không nên chú ý đến hình dáng và tư
thế của đầu, thân, tay, chân mà phải chú niệm để thấy bản chất của
động tác ngồi xuống thật rõ.
Hình dáng của đầu, thân, tay,
chân là Pannatti, không nên chú niệm. Thiền quán không liên quan gì đến
Pannatti, Nếu hành giả quan sát Pannatti, thì còn lâu mới thấy pháp.
Ai cũng có nhiều công việc để làm
phải cố gắng lắm ᣦ#225;c hành giả mới có thể đến đây và ở lại
dự khóa thiền 10 ngày. Cho nên lẽ tự nhiên là ai cũng muốn mau đắc pháp.
Muốn vậy, hành giả phải tách tâm chú niệm khỏi Pannatti, và cố gắng
để thấy thực tánh thật thấu suốt. Khi niệm "ngồi..., ngồi..."
hành giả phải thấy paramattha là tính cách động tác ngồi xuống dần dần.
Pannatti, và Paranattha có phải là
hai thứ tách biệt nhau phải không? Không, chúng cũng tồn tại và Paramattha
chìm xuống dưới hình dáng Pannatti. Mới đầu, khi định tâm còn yếu,
hành giả nên ngồi và nhắm mắt lại để thấy được Paramattha. Sau đó
hành giả có thể thấy được thực tánh của pháp rất rõ ràng.
Định tâm bị mất phần lớn là
do mắt. Ngồi thiền mà mở to mắt thì không thể thấy thực tánh rõ
ràng. Nhìn xuống hay nhắm mắt khi ngồi thiền mới đúng cách. Tính cách của
động tác ngồi xuống dần dần nên được niệm là "ngồi xuống...,
ngồi xuống..."
Khi đã tách khỏi hình dáng của đầu,
thân, tay, chân, khi đã có thể quan sát thấu đáo tính cách chuyển động,
khi đó có thể chú niệm bắt kịp với hiện tại, thì mỗi lần niệm
"ngồi..., ngồi...", hành giả không thể thấy chuyển động dần dần
mà còn thấy cảm giác nặng gia tăng đi kèm với chuyển động đó.
Khi định tâm mạnh hơn nữa, ngay lúc
niệm "muốn ngồi..., muốn ngồi..." hành giả thấy tác ý muốn ngồi
phát sinh nhiều lần. Khi niệm "ngồi..., ngồi...", hành giả thấy
động tác ngồi xuống một cách chi tiết rõ ràng hơn. Nếu định tâm tiến
xa hơn nữa, thì khi niệm "muốn ngồi..., muốn ngồi..."tác ý muốn
ngồi không phải là một thực thể đơn lẻ, mà là nhiều tác ý cách
quãng.
Một tác ý sinh lên rồi diệt, một
tác ý khác sinh lên rồi diệt, đến một tác ý khác cũng sinh lên rồi diệt,
v.v... rất nhiều giai đoạn. Những giai đoạn đó gọi là gì? Đó là sự
sinh và diệt của tác ý.
Khi niệm "ngồi..., ngồi...",
các giai đoạn đó không phải nối tiếp nhau mà luôn có khoảng cách. Khoảng
cách xuất hiện giữa sự sinh diệt của tác ý trước với sự sinh diệt
của tác ý sau.
Khi ngồi xuống và đụng nền nhà,
hành giả niệm "đụng.., đụng..". Tiếp theo, hành giả niệm
"Phồng..., xẹp..., ngồi..., đụng...,".
Do giữa tác ý có những khoảng
cách, nên dần dần hành giả thấy rõ đó chính là những sinh diệt. Khi định
tâm phát triển hơn nữa, sự sinh trở nên không rõ ràng mà chỉ có sự diệt
mới nổi bật.
Nếu hành giả đạt đến Diệt trí,
thì khi niệm "muốn ngồi..., muốn ngồi...", hành giả không chỉ
thấy sự diệt của tác ý muốn ngồi mà còn thấy sự diệt của tâm chú
niệm ; khi niệm "ngồi..., ngồi...", hành giả thấy sự diệt của
oai nghi ngồi và sự diệt của tâm chú niệm. Cả đối tượng và tâm chú
niệm đều diệt. Hành giả thấy ra rằng đối tượng, hay sắc pháp, và
tâm chú niệm, hay danh pháp, đều không thường hằng. Hành giả đó nhận
ra điều đó頢ằng chính sự thể nghiệm của
mình không? Trạng thái vô thường đó tiếng Pàli gọi là "Anicca".
Hành giả tha6"y rằng sự hoại
diệt này diễn ra quá nhanh, làm cho mình khó chịu, như bị áp bức, đau khổ,
và do đó thể nghiệm được trạng thái Khổ, tiếng Pàli gọi là
"Dukkha".
Trạng thái hoại diệt, bức bách
đó, làm sao có thể ngăn cản được? Hành giả không có cách nào ngăn cản,
mà chúng xảy ra theo cách riêng của chúng. Hành giả hoàn toàn không thể
làm chủ trong vấn đề này. Tình trạng không thể làm chủ đó, tiếng
Pàli gọi là "Anatta".
Do thấy sự diệt mà trong khi chú
niệm oai nghi ngồi, hành giả thấy rõ thực tánh vô thường, khổ, và vô
ngã. Ngay khi ngồi, cũng như ngay khi đứng, hành giả đều có thấy pháp.
4. Trong khi nằm xuống để ngủ
(Sutte).
Khi nằm xuống, hành giả phải nằm
với sự chú tâm trọn vẹn. Từ tư thế ngồi, muốn nằm xuống, hành giả
phải chú niệm. Với các hành giả đã có định tâm làm nền tảng, thì
khi nằm xuống, quý vị đều thấy tác ý muốn nằm nổi bật nhất, phải
không? Vâng. Vì vậy hành giả niệm "muốn nằm..., muốn nằm..."
Do tác ý muốn nằm đó, khí phát
sinh đầy thân hướng xuống giường từ từ từng chút một. Và hành giả
niệm "nằm xuống..., nằm xuống..."
Khi niệm như vậy, hành giả không
nên chú ý đến hình dáng của đầu, thân, tay, chân mà chỉ nên cố gắng
chú niệm thật rõ ràng tính cách chuyển động nằm xuống. Hành giả có
thể niệm gì cũng được "chuyển động..., chuyển động...", hay
"nằm ..., nằm ...", hoặc "ngủ..., ngủ". Điều chủ yếu
là phải biết thực tánh của chuyển động đó.
Khi thân hạ xuống thấp hơn, và
khi đầu đụng gối, hành giả niệm "đụng..., đụng".
Khi lưng đụng mặt giường, niệm
"đụng..., đụng...".
Khi trở mình, hành giả niệm
"trở..., trở...".
Khi đã nằm thoải mái, hành giả
niệm "phồng..., xẹp..., nằm..., đụng...," và với sự chú niệm
đó hành giả đi vào giấc ngủ.
5. Khi ngủ (Jàgarite)
Người đã quen chú niệm thường dễ
ngủ phải không? Vâng, rất dễ. Có người trước đây vẫn thường phải
uống thuốc ngủ, khi đã chú niệm tốt, thì không cần uống thuốc ngủ nữa.
Khi định tâm phát triển thì ngủ
rất dễ. Người chú niệm đứng đắn và vững vàng, thậm chí không cần
phải ngủ, nhưng nếu khi buồn ngủ thì họ ngủ rất nhanh.
Các hành giả ở đây, đã hành thiền
liên tục suốt ngày, khi niệm "muốn ngủ..., muốn ngủ...", và
"ngủ..., ngủ..." chẳng bao lâu sau là ngủ ngay. Khi đầu đã đụng
gối, hành giả khó lòng mà niệm "phồng..., xẹp..., nằm..., đụng..."
thật lâu hành giả sẽ ngủ liền. Thật là khỏe, phải không? Chẳng cần
uống thuốc ngủ làm gì.
Khi niệm "ngủ..." đừng chú
ý đến hình dáng của đầu, thân, tay, chân và chỉ chuyên chú tâm trên
tính chất của chuyển động để bắt kịp với hiện tại, thì khi nằm
xuống, hành giả thấy được chuyển động cũng như tính chất nặng rất
rõ ràng.
Nếu định tâm mạnh hơn nữa, thì
khi niệm "muốn ngủ..., muốn ngủ..." hành giả thấy rõ diễn biến
từ từ của tác ý muốn ngủ, và khi niệm "ngủ..., ngủ", hành giả
thấy rõ diễn biến từ từ của động tác nằm xuống. Và nếu định tâm
phát triển vững vàng hơn, thì khi niệm "muốn ngủ.., muốn ngủ"
tâm muốn ngủ cũng có nhiều khoảng ngưng ở giữa.
Một tác ý nảy sinh lên rồi diệt,
đến một tác ý khác sinh lên rồi diệt, và một tác ý khác nữa cũng
sinh lên rồi diệt, v.v.... Chúng là cái gì vậy? Chúng được gọi là sinh
và diệt. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Chỉ khi thấy thực tánh
Mới thấy được sinh diệt
Khi đã thấy được thực tánh của
nặng, thì dần dần, diễn biến từ từ của nặng cũng trở nên sinh và
diệt. Thấy được tính cách của chuyển động nằm xuống dần dần của
thân đi kèm với cảm giác nặng gia tăng tức là thấy được thực tánh.
Khi đã thấy được thực tánh, mới thấy được sinh diệt. Do đó muốn
thấy được sinh diệt và diệt của các pháp, trước hết phải thấy được
thực tánh.
Khi hành giả đả thấy được sinh
và diệt, thì với định tâm tăng trưởng sự sinh khởi của các pháp
đang còn mà chỉ có sự diệt mới nổi bật.
Khi niệm "muốn ngủ..., muốn
ngủ", tất cả những gì hành giả thấy được đó là một chuổi sự
diệt của tác ý muốn ngủ.
Khi niệm "ngủ..., ngủ..."
hành giả thấy sự diệt của oai nghi nằm xuống hay tư thế ngủ. Hình
dáng của đầu, thân, tay, chân không còn rõ ràng nữa. Ở giai đoạn này,
hành giả không cần phải cố ý tách tâm khỏi những hình dáng Pannatti.
Khi minh sát tuệ đã mạnh mẽ thì tất cả tướng Pannatti đều tự biến
mất. Thiền quán và Pannatti hoàn toàn đối lập nhau.
Khi minh sát tuệ còn yếu, Pannatti rất
rõ ràng đối với hành giả phải tách tâm ra khỏi chúng. Nhưng nếu minh sát
tuệ vững vàng hơn, và khi hành giả đạt đến Diệt trí, thì Pannatti tự
động biến mất. Nếu hành giả muốn biết xem minh sát tuệ của mình đã
mạnh mẽ chưa, nên dùng Pannatti như một cái cân để đo lường.
Nếu vẫn còn hình dáng của
Pannatti , hành giả có thể tự biết rằng minh sát tuệ của mình còn yếu
kém lắm. Hành giả có cần phải đi hỏi thiền sư không? Không cần, phải
vậy không? Tuy nhiên các hành giả muốn hỏi và rất hay hỏi. "Bạch
Ngài, con có thể biết được con đang ở tầng tuệ giác nào không? "
Thiền sư có thể bảo cho họ biết điều đó, nhưng hành giả chỉ muốn
nghe bảo rằng mức độ tuệ giác của mình là cao. Nếu thiền sư nói rằng
tuệ giác của họ vẫn còn thấp lắm, thì họ nản lòng. Nhưng dĩ nhiên
thiền sư phải nói sự thật thôi. Dù gì chúng ta cũng phải chân thật.
Do vậy, nếu hành giả muốn biết
tuệ giác của mình chín chắn tới đâu, thì phải xét đến Pannatti.
Pannatti còn quá nhiều, và còn phải cố gắng tách khỏi chúng, tức là
minh sát tuệ vẫn còn quá thấp. Nó được gọi là Taruna Vipassanà - minh
sát tuệ non nớt và yếu ớt.
Ngay khi định tâm tăng trưởng,
Pannatti chìm dần và biến mất, hành giả chỉ còn chú niệm trên thực
tánh, tức là minh sát tuệ đã chín chắn, vững vàng - gọi là Balavant
Vipassanà. Đến giai đoạn này, hành giả chú niệm rất dễ dàng. Hành giả
niệm cái gì, cái đó liền diệt. Sự diệt này nối tiếp sự diệt khác
khiến hành giả nhận ra thực tánh vô thường rất rõ ràng. Sự diệt đó
quá nhanh, như là một sự bức bách đó chính là khổ não. Hành giả không
thể làm chủ được, không thể ngăn chặn được. Chúng cứ diệt theo
cách riêng của chúng. Đó là vô ngã. Trí tuệ thấy vô thường, khổ não,
vô ngã đã được hành giả chứng nghiệm có thể nói rằng hành giả đã
thấy pháp.
Ngay khi nằm xuống với chánh niệm
tỉnh giác, hành giả có thể đạt được pháp bảo cao thượng. Ngài
Ănanda một ví dụ điển hình nhất.
Khi Ngài Mahàkassapa (Maha Ca-diếp)
lãnh đạo tăng đoàn chọn ra một hội đồng để kết tập Tam Tạng lần
thứ nhất, gồm 500 vị có 2 điều kiện mới được chọn vào trong Đại
hội:
- Phải thuộc lòng Tam Tạng
- Phải là bậc A-la-hán có tứ vô ngại giải.
Ngài Mahàkassapa đã tìm được 499
vị. Ngài không thể tìm thêm được một vị sau cùng, vì đó là vị trí
của Ngài Ănanda. Ngài Ănanda là người đã nghe được toàn bộ mọi lời
giảng dạy của Đức Phật, Đại Hội này không thể thiếu được Ngài.
Lúc bấy giờ, Ngài Ănanda chỉ mới
là bậc Thánh Nhập
Lưu. Ngài thuộc lòng Tam Tạng, nhưng
Ngài chưa phải là bậc A-la-hán, nên Ngài không thể được chọn, thì mọi
người sẽ cho rằng Ngài Mahàkassapa chọn Ngài Ănanda do thiên vị. Tuy vậy,
sau cùng, chư tăng cùng biểu quyết và nhất trí chọn Ngài Ănanda.
Được chọn là một thành viên của
Đại hội, ngài Ănanda hết sức tinh tấn để chứng quả A-la-hán trước
khi Đại hội bắt
đầu. Nhưng chỉ còn một ngày nữa,
mà ngài vẫn chưa thành công. Vì vậy, đêm cuối cùng trước khi Đại hội
bắt đầu, ngài đã hành thiền liên tục không gián đoạn, hết ngồi thiền
lại đi kinh hành, nhưng vẫn không kết quả.
Ngài thấy rằng mình đã tinh tấn
quá mức. Ngài bèn bước vào phòng ngủ. Từ tư thế ngồi trên giường,
ngài chầm chậm nghiêng người xuống trong tư thế nằm, niệm "nằm xuống...,
nằm xuống..." Ngay khi hai chân ngài vừa nhắc khỏi mặt đất, trước
khi đầu chạm gối, từ một vị thánh Nhập Lưu, ngài tiến qua cả ba đạo,
ba quả, chứng đắc đạo và quả A-la-hán.
Có phải ngài Ănanda đạt được
đạo quả A-la-hán do ngồi thiền không? Không. Có phải ngài đạt được
đạo quả A-la-hán do đi kinh hành không? Không. Ngài đạt được đạo quả
A-la-hán là do tu tập chú niệm tất cả sự, bằng cách niệm "nằm xuống...,
nằm xuống...". Vì vậy các hành giả phải tinh tấn thực hành chú niệm
tất cả sự.
Chúng ta đã thảo luận xong yếu tố
thứ ba giúp phát triển thiền quán và bốn lời chỉ dẫn chánh niệm tỉnh
giác.
Giới thiệu
| I |
II | III | IV | V
| VI | VII
| VIII |
IX | X | XI | Lời bạt
| Từ vựng