- Chín yếu tố phát triển
thiền quán
- Tác giả: Sayadaw U Kundalàbhivamsa
- Dịch giả: Tỳ kheo Thiện Minh
- Chương VIII
- Yếu Tố Thứ Sáu
Nhờ có thất giác chi mà ngũ quyền
của hành giả được phát triển.
Thiền quán không phải thực hành bằng
thân và khẩu, mà chỉ được thực hành bằng tâm. Cơ chế hoạt động của
tâm rất vi tế, khi thì u sầu chán nản, khi thì phấn khởi kích thích. Cả
hai trạng thái này đều không tốt cho việc phát triển ngũ quyền. Nhờ tu
tập thất giác chi tâm của hành giả mới thích hợp cho việc phát triển
ngũ quyền. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu pháp:
Để quân bình, hài hòa
Phải không ngừng quán niệm
Tu tập thất giác chi.
a. Chế ngự tâm trạo cử:
Tâm trạo cử là tâm không ổn định
mà luôn tán loạn, dao động. Tâm này có thể được chế ngự bởi ba chi
trong thất giác chi là: Xả, Định và Khinh an.
Yếu Pháp:
Khi phóng tâm, trạo cử
Niệm Xả, Định, Khinh an.
Tâm trạo cử có khuynh hướng vọng
tưởng những sự kiện trong quá khứ cũng như những sự kiện sẽ xảy ra
trong tương lai. Khi tâm bắt đầu trạo cử, hành giả phải quán niệm ngay
trên pháp hiện tại để cho mọi phóng tâm đều được chế ngự. Lúc đó
ngũ quyền sẽ được tăng trưởng.
Tâm trạo cử thường đi kèm với
lo âu và sợ hãi. Người ta lo sợ rằng không biết những tài sản, địa
vị, danh vọng mà mình đã phấn đấu đạt được có thể giữ được lâu
dài không hay sẽ bị mất mát, huỷ hoại. Hành giả phải loại bỏ sự lo
sợ này trong tâm. Hành giả phải chấp nhận mọi thực tế của cuộc sống,
cái gì rồi cũng có đến có đi. Biết như vậy, hành giả chỉ quan tâm đến
sự thanh thản bình an của thân và tâm. Với sự quán niệm như vậy, Khinh
an sẽ phát sinh và ngũ quyền được tăng trưởng.
b. Chế ngự tâm chán nản:
Tâm chán nản phát sinh khi người
ta chỉ chú trọng đến thọ lạc mà không thích thọ khổ. Sự chú tâm phải
cân bằng trên hai phương diện khổ và lạc thì tâm mới quân bình và tĩnh
lặng, thoát khỏi mọi sự tán loạn và do đó ngũ quyền được tăng trưởng.
Hành giả thường có khuynh hướng
chán nản khi sự chú tâm bị phân tán. Sau một thời gian dài hành thiền
và chẳng tìm thấy sự hứng thú nào hành giả dễ cảm thấy thất vọng.
Tất cả những trạng thái tiêu cực này là do thiếu Tinh tấn và Hỷ, dẫn
đến ghi nhận thiếu chính xác và hôn trầm. Khi cảm thấy hôn trầm, hành
giả nên quán niệm ba chi trong thất giác chi là Tinh tấn, Hỷ vàTrạch
pháp. Ba chi này là để đối trị lại hôn trầm và chán nản. Xin hãy đọc
3 lần:
Yếu Pháp:
Khi thiền bị yếu đi
Hãy quán niệm ngay đến
Tinh tấn, Hỷ, Trạch pháp.
c. Hôn trầm dẫn đến sự uể oải, thụ động:
Hôn trầm là hậu quả của trạng
thái chán nản và dẫn đến sự thụ động trong cả hai lĩnh vực đời và
đạo. Bộ Loka-nìti, một bộ sách đạo đức của Phật giáo có minh họa
điều này như sau: "Một người hôn trầm không thể có kiến thức, người
không có kiến thức, không thể làm ra của cải, người không có của cải
thì không có bạn bè, người không có bạn bè thì không có an lạc, người
không có an lạc thìkhông có phước thiện, người không có phước thiện
thì không thể chứng đắc Niết -bàn ". Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Khi phóng tâm, trạo cử
Niệm Xả, Định, Khinh an.
Tâm trạo cử có khuynh hướng vọng
tưởng những sự kiện trong quá khứ cũng như những sự kiện sẽ xảy ra
trong tương lai. Khi tâm bắt đầu trạo cử, hành giả phải quán niệm ngay
trên pháp hiện tại để cho mọi phóng tâm đều được chế ngự. Lúc đó
ngũ quyền sẽ được tăng trưởng.
Tâm trạo cử thường đi kèm với
lo âu và sợ hãi. Người ta lo sợ rằng không biết những tài sản, địa
vị, danh vọng mà mình đã phấn đấu đạt được có thể giữ được lâu
dài không hay sẽ bị mất mát, huỷ hoại. Hành giả phải loại bỏ sự lo
sợ này trong tâm. Hành giả phải chấp nhận mọi thực tế của cuộc sống,
cái gì rồi cũng có đến có đi. Biết như vậy, hành giả chỉ quan tâm đến
sự thanh thản bình an của thân và tâm. Với sự quán niệm như vậy, Khinh
an sẽ phát sinh và ngũ quyền được tăng trưởng.
b. Chế ngự tâm chán nản:
Tâm chán nản phát sinh khi người
ta chỉ chú trọng đến thọ lạc mà không thích thọ khổ. Sự chú tâm phải
cân bằng trên hai phương diện khổ và lạc thì tâm mới quân bình và tĩnh
lặng, thoát khỏi mọi sự tán loạn và do đó ngũ quyền được tăng trưởng.
Hành giả thường có khuynh hướng
chán nản khi sự chú tâm bị phân tán. Sau một thời gian dài hành thiền
và chẳng tìm thấy sự hứng thú nào hành giả dễ cảm thấy thất vọng.
Tất cả những trạng thái tiêu cực này là do thiếu Tinh tấn và Hỷ, dẫn
đến ghi nhận thiếu chính xác và hôn trầm.Khi cảm thấy hôn trầm, hành
giả nên quán niệm ba chi trong thất giác chi là Tinh tấn, Hỷ vàTrạch
pháp. Ba chi này là để đối trị lại hôn trầm và chán nản. Xin hãy đọc
3 lần:
Yếu Pháp:
Khi thiền bị yếu đi
Hãy quán niệm ngay đến
Tinh tấn, Hỷ, Trạch pháp.
c. Hôn trầm dẫn đến sự uể oải, thụ động:
Hôn trầm là hậu quả của trạng
thái chán nản và dẫn đến sự thụ động trong cả hai lĩnh vực đời và
đạo. Bộ Loka-nìti, một bộ sách đạo đức của phật giáo có minh họa
điều này như sau: "Một người hôn trầm không thể có kiến thức, người
không có kiến thức, không thể làm ra của cải, người không có của cải
thì không có bạn bè, người không có bạn bè thì không có an lạc, người
không có an lạc thì không có phước thiện, người không có phước thiện
thì không thể chứng đắc Niết -bàn ". Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Người có nhiều hôn trầm
Không thể có kiến thức
Người không có kiến thức
Không làm ra của cải
Người không làm ra của cải
Sẽ không có bạn bè
Người không có bạn bè
Thì không có an lạc
Nếu không có an lạc
Cũng không có phước thiện
Và không có phước thiện
Không đạt đến Niết -Bàn
Hành giả phải ghi nhớ rằng dù
chúng ta đang có sẵn cuộc đời để mà tu tập, để mà chứng đắc đạo
quả nhưng nếu lười biếng và thiếu tinh tấn thì chúng ta còn quá cách
xa với mục tiêu của mình là Niết-Bàn. Vì vậy hành giả phải phát huy sự
tinh tấn và để loại trừ hôn trầm thụ động.
Hôn trầm dẫn đến sự suy yếu còn
tinh tấn thì đưa đến thà讨 công. Vì vậy
các hành giả nên kiên trì tinh tấn.
d. Tu tập tinh tấn giác chi:
Hành giả tâm niệm rằng được làm
người không phải là dễ, nay được sinh làm người thì phải chuyên tâm
hành thiền Tứ Niệm Xứ để có thể đóng lại cánh cửa địa ngục.
Hơn nữa, hành giả cũng nên biết rằng được gặp Phật pháp, một giáo
pháp dẫn đến Đạo, Quả, Niết -Bàn, là một cơ hội hiếm hoi rất khó
gặp. Các hành giả không nên bỏ lỡ dịp may lớn lao này, nếu không quí
vị chỉ gặp toàn những điều trở ngại.
Mặc dầu Đạo, Quả, Niết - Bàn
có thể chứng đắc ngay trong hiện tại, nhưng nếu quí vị không tinh tấn
thực hành giáo pháp, thì rất có thể khi từ giã cõi này, quí vị vẫn chỉ
là một phàm nhân, hay tệ hơn nữa là phải đọa vào ác đạo.
Vì vậy quí vị nên tinh tấn tu
hành để khỏi phải ân hận khi đọa vào cảnh khổ, để khỏi phải khóc
lóc than vãn rằng: "Ta đã phạm một sai lầm nghiêm trọng. Do không chịu
hành thiền mà giờ đây ta phải chịu nhiều đau khổ!". Hành giả phải
nội quán như vậy để đối trị sự lười biếng bằng cách quán niệm sự
tinh tấn.
Hành giả phải ghi nhớ rằng mình
đang được sống trong thời Phật Pháp, rằng mình đang được ở Miến
Điện là nơi có sự thực hành giáo pháp, rằng mình là người có chánh
kiến, rằng mình đang có lục căn cụ túc. Đó là bốn túc duyên mà quí vị
may mắn có được.
Nếu chiều theo sự chán nản, lười
biếng, và thiếu nỗ nực tinh cần,thì các hành giả đã đánh mất bốn
túc duyên trên mà kết quả là chẳng có thể chứng đắc một Đạo, Quả
nào, và phải chịu khổ đau trong vòng sinh tử luân hồi. Vì vậy hành giả
phải luôn quán niệm tinh tấn.
e. Nếu không tinh tấn sự ưu sầu phát sinh:
Điều này được Đức Phật kể lại
trong Kinh Bổn Sanh.
Ngày xưa, khi Đức Phật ngự tại
tịnh xá Jetavana ở thành Savathi, một vị tỳ kheo nổi tiếng là lười biếng
được các vị tỳ kheo đưa đến gặp Đức Phật và Ngài đã kể câu
chuyện này.
"Này các tỳ kheo! Nếu các con
không tinh tấn tu tập để giải thoát khỏi đau khổ và chứng đắc Đạo,
Quả thì các con còn phải chịu ưu sầu thêm trong nhiều kiếp nữa, giống
như ông lái buôn chuỗi hạt bị mất chiếc tách vàng trị giá cả trăm
nghìn đồng. Ông lái buôn Thariva kia vì đánh mất chiếc tách vàng mà phải
buồn rầu chán nản suốt một thời gian dài".
Nghe vậy, các tỳ kheo thỉnh cầu
Đức Phật kể cho nghe câu chuyện về ông lái buôn Thariva, và Đức Phật
kể như sau:
Cách đây năm kiếp trái đất, tiền
thân của Đức Phật là một người lái buôn chuỗi hạt ở trong thành
Thayriva. Bồ tát đi chung chuyến buôn với một người lái buôn chuỗi hạt
khác tên là Thariva, một người rất tham lam. Họ đi đến thành phố Arita.
Sau khi vượt qua sông Nilawah. Đến thành phố, hai người chia nhau mỗi người
mỗi ngả để lo công việc buôn bán riêng của mình.
Người lái buôn tham lam vừa đi khắp
thành phố vừa rao hàng "Chuổi hạt đây! Chuổi hạt đây!" Ông
đi đến gần nhà của hai bà cháu nọ. Hai bà cháu này trước đây giàu
có nhưng nay đã bị sa sút, phải đi làm mướn để sống qua ngày.
Khi người lái buôn đi đến cửa
ngõ nhà họ, đứa cháu xin bà mua cho nó một chuổi hạt, nhưng bà bảo là
không còn đồng nào để mua. Đứa cháu bèn bảo bà là có một cái tách cũ
mà hồi xưa người cha giàu có của nó để lại, có thể đem đổi lấy
chuổi hạt.
Vì vậy, họ gọi người lái buôn
tham lam vào, đề nghị ông ta đổi cái tách để lấy một chuổi hạt.
Người lái buôn thử và biết ngay là cái tách đó bằng vàng. Nhưng ông lại
khởi lên lòng tham muốn chiếm đoạt cái tách mà không cho hai bà cháu cái
gì cả. Thế là ông bảo họ rằng cái tách đó không đáng giá hai xu, rồi
quăng nó xuống đất rồi bỏ đi.
Ngay sau đó, người lái buôn kia tức
là tiền thân của Đức Phật, đi ngang qua nhà họ và rao " Chuỗi hạt
đây! Chuỗi hạt đây!", giọng rao rất hiền từ. Đứa cháu lại xin
bà đem cái tách ra đổi chuỗi hạt, nhưng bà bảo rằng ông lái buôn hồi
nãy chẳng đã nói rằng cái tách kia chỉ đáng giá hai xu đó sao.
Đứa cháu cố thuyết phục bà là
ông lái buôn hồi nãy có vẻ lừa đảo còn ông lái buôn đang đứng trước
cổng nhà họ trông lương thiện và ăn nói tử tế, có lẽ ông ta sẽ chịu
đổi cái tách cho cô.
Bà già đồng ý và gọi ông lái
buôn vào nhà. Khi xem xét cái tách và nhận ra nó làm bằng vàng, ông thật
thà bảo bà già:"Thưa bà, cái tách này bằng vàng, trị giá tới cả
trăm ngàn đồng. Chắc chắn là tôi chẳng có chuỗi hạt nào giá trị
ngang bằng với nó được."
Bà già nói:"Ôi dào, ông ơi! Vậy
mà anh lái buôn kia bảo bà nó không đáng giá hai xu và quăng nó xuống đất.
Có lẽ do vận may của ông mà nó biến thành vàng đó. Tôi sẽ cho ông cái
tách này và chỉ đổi lấy một chuỗi hạt thôi."
Nhưng người lái buôn tiền thân của
Đức Phật không chịu, mà đưa cho hai bà cháu số tiền năm trăm đồng mà
ông đang có, cộng thêm với số chuỗi hạt còn lại trị giá năm trăm đồng.
Ông chỉ giữ lại cái túi xách, cái cân và tám đồng để trả tiền đò.
Sau đó ông vội vã đi ra bến đò để sang sông.
Lát sau người lái buôn độc ác trở
lại ngôi nhà của hai bà cháu, và bảo rằng ông chịu đổi cái tách cho họ
bằng một thứ đồ giả nào đó. Hai bà cháu liền mắng ông là đồ bất
lương, rằng ông muốn chiếm đoạt cái tách trị giá cả trăm ngàn của họ
mà không cho họ xu nào. Rồi họ bảo ông rằng một người lái buôn tốt
bụng đã đổi cái tách cho họ với giá một ngàn đồng và nhiều chuỗi
hạt nữa.
Nghe vậy, người lái buôn độc ác
tham lam kia cảm thấy tức tối và đau đớn vì đã đánh mất cái tách trị
giá cả trăm ngàn. Giận điên lên ông quăng tất cả tiền bạc và chuỗi
hạt vung vãi khắp nhà. Ông cởi phăng áo quần rồi chụp lấy thanh sắt
chạy theo định giết Bồ Tát. Ông chạy như điên về phía bến đò.
Đến bờ sông, ông thấy Bồ Tát
đã sắp đến bờ bên kia. Ông lớn tiếng gọi người chèo đò quay trở lại
nhưng Bồ tát bảo cứ tiếp tục chèo sang bên kia để tránh xa người lái
buôn độc ác.
Thấy chiếc đò chạy mất hút, người
lái buôn độc ác giận quá đến nỗi vỡ tim, hộc máu và lăn ra chết
ngay trên bờ sông, đem theo cả mối căm thù oán hận với đức Bồ - tát.
Người lái buôn độc ác đó là tiền thân của Devadatta, và sự kiện này
là mối thù đầu tiên của Devadatta với Đức Phật. Còn người lái buôn
lương thiện là tiền thân của Đức Phật, do thiện nghiệp của mình mà
kiếp nào cũng được có những phước báu tốt đẹp. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Từ chối không chịu đổi
Một cái tách bằng vàng
Trị giá đến trăm ngàn
Như người buôn chuỗi hạt
Mất của vì tham lam
Nên đau khổ vô vàn
Cũng tương tư 隷àn toàn
Nếu ai bỏ giáo pháp
Không thể nào chứng đạt
Đạo, Quả và Niết bàn
Chỉ một điều rõ ràng
Là luôn luôn đau khổ
Nhưng nếu luôn luôn cố
Thực hành pháp cao siêu
Sẽ chắc chắn một điều
Trở thành A - la - hán.
Tiền thân của Devadatta chết một
cách thê thảm vì ông muốn chiếm đoạt tài sản của người khác một
cách tự phụ và bất công. Lòng tham đó là nguyên nhân đầu tiên của
đau khổ. Nguyên nhân thứ hai là ý đồ giết chết đức Bồ - tát do ganh
tức, mà ông phải nhận chịu cái chết thê thảm.
Các hành giả nên suy nghĩ về điều
này.
f. Tu tập Hỷ giác chi:
Nếu hành giả cảm thấy buồn rầu
và chán nản khi làm việc thiện thì nên tu tập giác chi để tự vui mừng
với thành tựu của mình trau dồi tâm.
Hành giả nên tưởng niệm đến Phật,
Pháp, Tăng, cha mẹ và thầy tổ. Nhờ quán tưởng đến công ơn của các vị
ấy mà hành giả phát sinh niềm vui, sự hài lòng và hoan hỷ.
Khi hỷ phát sinh, tâm của hành giả
trở nên bén nhạy, không còn buồn chán, nên rất thích hợp cho các thiện
nghiệp. Nhiều Phật tử đôi lúc niệm tưởng ân đức Phật, Pháp, Tăng mỗi
khi ngồi thiền. Có thể quan sát thấy rằng nhiều người trong số họ đã
thoát khỏi rủi rovà đời sống hàng ngày của họ cũng trở nên dễ chịu.
Chỉ khi quan sát một cách tinh tế và suy tư một cách chín chắn mới thấy
rõ những điều ích lợi này.
Nhờ oai lực của Phật Pháp Tăng cộng
với Ba-la-mật của hành giả một trong năm loại hỷ sẽ phát sinh cùng với
sự vắng bóng của tâm buồn chán.
Năm loại hỷ gồm có:
1. Tiểu hỷ
2. Sát na hỷ
3. Hải triều hỷ
4. Thăng thượng hỷ
5. Sung mãn hỷ.
1. Tiểu hỷ: là cảm giác bỗng
nhiên nổi gai ốc cùng mình, không dưng hành giả cảm thấy hơi run, bất
giác chảy nước mắt và dường như hơi lành lạnh như có một sự sợ
hãi nào đó trùm lên mình.
Có hai loại nước mắt: một loại
nước mắt khóc vì sự cảm mến, tôn kính giáo pháp, và một loại nước
mắt khóc vì cái chết của cha mẹ, bà con thân thích hay khóc vì mất mát
của cải. Loại nước mắt thứ hai thì mặn, nóng và chứa đầy phiền não
nên không thể nào giúp cho người ta hết đau khổ. Loại nước mắt thứ
nhất thì không mặn, mà lại trong trẻo và xoa dịu. Những giọt nước mắt
này có thể giúp cho người ta thoát khỏi phiền não làm cho tâm họ trở
thành mảnh đất tốt cho thiện nghiệp phát sinh.
2. Sát na hỷ: là cảm giác thấy
các thớ thịt khắp cơ thể đều rung động, người nóng lên, nước mắt
chảy, lồng ngực vừa như đầy ắp vừa như trống rỗng. Cảm giác này
có thể ví như một đàn cá đang bơi lội trong hồ thỉnh thoảng lại nổi
lên mặt hồ như để đớp lấy không khí.
3. Hải triều hỷ: là cảm giác lắng
dịu dần dần, có thể bắt đầu từ phần trên thân lên đến đầu, hoặc
từ phần dưới thân lên đến phần trên thân, và toàn thân trở nên lâng
lâng mát dịu. Khi quan sát sẽ thấy cảm giác đó từ từ biến mất.
4. Thăng thượng hỷ: là cảm giác
bay bổng dễ chịu, thậm chí khiến hành giả quên hẳn là mình đang đứng
hay đang ngồi. Khi Hỷ này phát sinh, hành giả có thể bay toàn thân hay chỉ
một bộ phận của cơ thể, như một cánh tay bay lên chẳng hạn. Hành giả
cũng có thể lắc lư đong đưa qua lại trong khi cảm nhận trạng thái cực
kỳ hoan hỷ. Điều này có thể xảy ra trong khi ngồi thiền hay trong khi đi
kinh hành.
Những người có thăng thượng hỷ
hơi yếu thì tay chân bất giác duỗi ra có vẻ như là người đó cố tình
duỗi tay chân ra vậy. Còn những người có thăng thượng hỷ mạnh thì có
thể bay cao lên trời và có thể điều khiển theo hướng mình muốn.
Các nhà chú giải ghi rằng ngày xưa
ở Tích Lan có một cô gái đã đến dự lể cúng dường tháp bằng cách
bay lên trời nhờ có thăng thượng hỷ rất mạnh.
Chuyện xảy ra ở tỉnh Wuttakalaka
nước Tích Lan. Hôm đó có một buổi lể cúng dường tháp ở trên đỉnh
núi. Cô gái ở chung với cha mẹ và từ ngôi nhà họ ở có thể thấy rõ
buổi lể đang diễn ra.
Đêm đến, cha mẹ cô gái chuẩn bị
đi nghe pháp ở buổi lễ và bảo cô nên ở nhà vì trời tối mà cô lại
đang có thai. Rồi họ đi lên đỉnh núi để dự lễ.
Mặc dù cô gái rất thích đi dự lễ
nhưng cô vẫn nghe lời cha mẹ và ở nhà. Khi cha mẹ đi rồi, cô đứng tựa
cửa nhìn lên đỉnh núi . Dưới ánh trăng sáng vằng vặc, cô có thể thấy
rất rõ ràng quan cảnh của buổi lễ. Cô thấy đèn đuốc thắp quanh tháp
sáng rực như pha lê, soi rõ những người hành hương đang cúng dường
hương hoa. Cô còn có thể nghe tiếng chư tăng đang tụng kinh nữa.
Trong khi thành kính chiêm ngưỡng tòa
tháp cao quý và sáng ngời như pha lê đó, một loại thăng thượng hỷ lâng
lâng mát dịu phát sinh trong cô và nâng cô bay lên đến tận chân tòa
tháp, trước cả cha mẹ cô. Cô đảnh lể bảo tháp và ngồi xuống chăm
chú nghe pháp.
Khi cha mẹ cô đến nơi, họ sửng
sốt khi nhìn thấy cô và hỏi cô đã đi đường nào mà nhanh vậy. Cô trả
lời là cô không đi trên đất liền mà bay đến đây. Cha mẹ cô bực tức
bảo cô nên nói thật, vì chỉ có các bậc thánh A-la-hán mới bay được.
Cô gái thành thật kể rằng trong khi cô đang đứng ở nhà để chiêm bái
bảo tháp thì cảm thấy rất lắng dịu, hoan hỷ; khi đó cô không biết
là mình đang đứng hay đang ngồi, và bổng thấy mình đang bay lên rồi đáp
xuống ở chân tháp.
Những người có thăng thượng hỷ
mạnh đều có thể bay như cô gái. Ngày xưa có nhiều vị A-la-hán biết
bay như vậy.
5. Sung mãn hỷ: là cảm giác như có
cơn sóng mát lạnh dịu dàng thấm nhuần toàn thân, giống như miếng bông
gòn được tẩm dầu. Khi có cảm giác này, hầu như hành giả không thể
có một cử động nào, dù chỉ là nháy mắt bởi vì thân và tâm đều quá
lắng dịu.
g. Tu tập Trạch pháp giác chi:
Khi hành giả thấy không còn hứng
thú với việc hành thiền và làm việc phước thiện nữa, thì nên tu tập
trạch pháp giác chi tức là quán niệm một cách uyên thâm nghĩa lí của
giáo pháp, nhờ đó sự chán nản tiêu cực sẽ không còn nữa mà sự ưa
thích hành pháp sẽ phát sinh trở lại.
Hành giả nên quán niệm rằng tiến
trình tự nhiên già bệnh chết là một thực tế không ai có thể tránh khỏi.
Chắc chắn là hành giả sẽ già yếu, một ngày kia hành giả sẽ quá già
yếu đến nổi không thể tự mình chăm lo cho những nhu cầu của chính bản
thân mình. Dù đi hay ngồi, hành giả đều thấy rằng thân của mình thật
sự là gánh nặng quá lớn đến nỗi khiến cho tâm không thể bắt kịp
pháp. Trí nhớ suy giảm, tinh thần tán loạn, hành giả không thể hành thiền
hay chú tâm trên pháp. Hành giả trở thành người không có chút pháp hành
nào.
Hành giả tu tập trạch pháp giác
chi nên suy xét và tâm niệm rằng mình phải tinh tấn trên đường đạo
trước khi trở nên già yếu. Với lối quán niệm như vậy, sự biếng nhác
sẽ được loại trừ. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Hãy thường xuyên suy niệm,
Tất cả đều nguy hiểm.
Gây ra bởi tuổi già,
Khi nó còn chưa đến.
Hãy an trú chánh pháp
Trước khi đến tuổi già
Để tâm khỏi u sầu
Mà bình an, tỉnh lặng.
Người không hành chánh pháp
Thì khi phải sống lâu
Chỉ chuốc lấy u sầu
Và lỗi lầm chồng chất.
Hành giả cũng phải tâm niệm rằng
mình chắc chắn phải chịu đau ốm bệnh tật. Đau ốm và bịnh tật làm
cho hành giả đau khổ và từ nổi khổ đau này hành giả nhận ra rằng
không có một lối nào để thoát khỏi sự thật phũ phàng. Đến một lúc
nào đó, hành giả phải chịu cảnh ốm liệt giường, không thể nào gượng
dậy nổi.
Người không có định tâm thì khi
bị bệnh, sự đau đớn của thân và tâm làm cho họ không thể suy niệm về
giáo pháp và lúc đó họ chỉ còn biết lo âu than khóc mà thôi.
Vì vậy hành giả phải tâm niệm rằng
mình tinh tấn trên đường đạo trước khi bị ốm đau bệnh tật hành hạ,
bằng cách tu tập trạch pháp giác chi. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Hãy thường xuyên suy niệm
Tất cả đều nguy hiểm
Gây ra bởi ốm đau
Khi nó còn chưa đến
Hãy an trú chánh pháp
Trước khi bị ốm đau
Để tâm khỏi u sầu
Mà bình an tĩnh lặng.
Người không hành chánh pháp
Thì khi bị ốm đau
Chỉ chuốc lấy u sầu
Và lỗi lầm chồng chất.
Hành giả còn phải thường xuyên
niệm tưởng đến sự chết. Một chân lý muôn đời là không ai thoát khỏi
cái chết. Khi cận kề với cái chết, Khi chịu đựng khổ đau của giờ
phút lâm chung, nếu hành giả không thể chú tâm trên pháp và chết không
có tỉnh thức thì sẽ bị sa vào ác đạo.
Vì vậy hành giả phải tâm niệm rằng
mình tinh tấn trên đường đạo trước khi cái chết đến. Hành giả phải
tu tập trạch pháp giác chi và tinh tấn hành thiền Tứ Niệm Xứ suốt cả
cuộc đời cho đến khi cánh cửa dẫn đến ác đạo hoàn toàn bị khép lại.
Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Hãy thường xuyên suy niệm
Tất cả đều nguy hiểm
Gây ra bởi cái chết
Khi nó còn chưa đến
Hãy an trú chánh pháp
Trước khi chết đến tìm
Để tâm khỏi u sầu
Mà bình an tĩnh lặng
Người không hành chánh pháp
Khi cái chết đến tìm
Thiếu sáng suốt tĩnh tâm
Và lỗi lầm chồng chất.
Như vậy đã giải thích xong yếu tố
thứ sáu để phát triển ngũ quyền của hành giả.
Giới thiệu
| I |
II | III | IV | V
| VI | VII
| VIII |
IX | X | XI | Lời bạt
| Từ vựng