XI-
CHƯƠNG PHỔ GIÁC
Lúc bấy giờ, Bồ tát Phổ Giác ở trong đại chúng,
liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba
vòng, quì dài chắp tay mà bạch Phật rằng: “Đại bi Thế Tôn! Ngài nói
đến bệnh của nhà Thiền nghe thật khoái thích, khiến cả đại chúng
được điều chưa từng có, làm cho tâm ý rỗng rang, được an ổn rất lớn.
Bạch Thế Tôn! Chúng sanh đời mạt pháp cách Phật dần dần càng xa,
Thánh Hiền ẩn khuất, tà pháp lại thịnh hành. Chúng sanh phải cầu học
ở những người nào? Phải nương vào những pháp nào? Phải thực hành
những hạnh gì? Phải trừ khử những bệnh gì? Phải phát tâm làm sao? Để
những kẻ mù tối khỏi rơi vào tà kiến?”
Nói
lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến
cuối như vậy ba lần.
Bấy
giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Phổ Giác rằng: “Lành thay! Lành thay!
Này Thiện nam tử! Các ông mới có thể thưa hỏi Như Lai việc tu hành
như thế, hay thí cho tất cả chúng sanh đời mạt được Đạo nhãn vô úy,
khiến chúng sanh được thành Thánh đạo. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì
ông mà nói”.
Khi
ấy, Bồ tát Phổ Giác rất đỗi vui mừng, vâng theo lời dạy, cùng đại
chúng lắng sâu tâm thức mà nghe.
“Này
Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp, người muốn tu hành sắp phát
đại tâm, cầu Thiện tri thức, phải cầu tất cả người chánh tri kiến.
Người ấy tâm không trụ tướng, không rơi vào cảnh giới Thinh văn,
Duyên Giác. Tuy hiện ở trần lao mà tâm vẫn thường thanh tịnh; thị
hiện các điều lỗi lầm mà vẫn tán thán phạm hạnh, không khiến chúng
sanh vào Bất luật nghi. Cầu người như thế, sẽ được thành tựu Vô
thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Chúng
sanh đời mạt pháp thấy người như thế cần phải cúng dường, không tiếc
thân mạng. Vị Thiện tri thức kia, trong bốn oai nghi thường hiện
thanh tịnh cho đến giả bày các thứ lỗi lầm mà tâm vẫn không kiêu
mạn, huống nữa là đoàn tài, vợ con, quyến thuộc! Nếu Thiện nam tử,
đối với người thiện hữu kia, không khởi ác niệm, cuối cùng được
thành tựu chánh giác, tâm hoa phát sáng chiếu mười phương cõi nước.
Này
Thiện nam tử! Vị Thiện tri thức kia muốn chứng được diệu pháp phải
lìa bốn bệnh. Thế nào là bốn?
Một
là Tác bệnh: Nếu có người nói như thế này: “Nơi bổn tâm ta làm nhiều
thứ công hạnh, muốn cầu Viên giác”. Nhưng vì tánh Viên giác ấy chẳng
phải do tạo tác mà được nên gọi đó là bệnh.
Hai
là Nhậm bệnh: Nếu lại có người nói như thế này: “Chúng ta hôm nay
không cần đoạn sanh tử, chẳng cầu Niết bàn; Niết bàn và sanh tử đều
không có niệm khởi diệt. Cứ mặc tất cả, tùy các pháp tánh, muốn cầu
Viên giác”. Nhưng vì tánh Viên giác ấy chẳng phải do phó mặc mà
được, nên gọi đó là bệnh.
Ba
là Chỉ bệnh: Nếu lại có người nói như thế này: “Nay tự tâm của ta
hằng dứt trừ các niệm, được tất cả tánh: Tịch diệt (Bất động), Bình
đẳng (Bất nhị), muốn cầu Viên giác”. Nhưng vì tánh Viên giác ấy
chẳng phải do hiệp với tâm chỉ mà được, nên gọi đó là bệnh.
Bốn
là Diệt bệnh: Nếu lại có người nói như thế này: “Ta nay hằng đoạn
tất cả phiền não, thân tâm hoàn toàn trống rỗng, không còn gì là của
mình, huống nữa là cảnh giới hư vọng của căn trần? Tất cả đều lặng
lẽ muốn cầu Viên giác”. Nhưng vì tánh Viên giác ấy chẳng phải là
tướng lặng lẽ, nên gọi đó là bệnh.
Người
lìa được bốn bệnh thì biết đã thanh tịnh. Người quán như thế này gọi
là Chánh quán, nếu quán khác đi gọi là tà quán.
Này
Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp muốn tu hành, cần hết lòng tận
mạng cúng dường thiện hữu, thờ thiện tri thức. Vị Thiện tri thức ấy
muốn thân cận với mình, mình phải dứt tâm kiêu mạn. Nếu vị ấy xa
lìa, mình phải dứt tâm sân hận. Khi hiện ra thuận cảnh hay nghịch
cảnh, cũng giống như hư không; rõ biết thân tâm thảy đều bình đẳng,
cùng các chúng sanh đồng thể không khác. Tu hành như thế mới nhập
được Viên giác.
Này
Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp, không được thành đạo là do
tất cả chủng tử “ta-người, thương-ghét...” có từ vô thủy nên chưa
được giải thoát. Nếu lại có người quán kẻ oan gia như cha mẹ mình,
tâm không có hai, liền trừ các bệnh. Đối với các pháp “ta-người,
thương-ghét...” cũng lại như vậy.
Này
Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp muốn cầu Viên giác phải phát
tâm như thế này: “Tất cả chúng sanh trong cùng khắp hư không ta đều
khiến vào hết trong Viên giác. Ở trong Viên giác, không có người thủ
giác, trừ tất cả tướng ta-người... Phát tâm như thế, mới khỏi lạc
vào tà kiến”.
Bấy
giờ, Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng :
Phổ Giác! Ông nên biết!
Những chúng sanh đời mạt
Muốn cầu Thiện tri thức
Phải cầu người chánh kiến,
Tâm xa pháp Nhị thừa.
Trong pháp trừ bốn bệnh,
Là: Tác, Chỉ, Nhậm, Diệt.
Gần gũi không kiêu mạn,
Xa lìa không giận hờn.
Thấy nhiều thứ cảnh giới,
Tâm phải sanh hi hữu,
Xem như Phật ra đời.
Không vi phạm giới luật
Giới căn hằng thanh tịnh
Độ tất cả chúng sanh
Rốt ráo nhập Viên giác.
Không tướng Ngã, Nhơn kia
Thường nương chánh trí huệ
Siêu vượt được tà kiến
Chánh giác nhập Niết bàn!”
Đại ý của bổn chương là, do 5 câu hỏi của Bồ tát Phổ Giác, Đức Phật
nêu ra những nguyên tắc căn bản trong việc tầm sư học đạo, để khỏi
rơi vào tà kiến. Phổ là cùng khắp, Giác là Giác ngộ. Có Giác ngộ
cùng khắp mới có sự thấy biết rõ ràng, mới phân biệt ai là thiện tri
thức, ai là tà sư. Ngài Phổ Giác có lòng thương xót chúng sanh, sợ
những kẻ mù tối vì thiết tha cầu đạo mà chọn thầy lựa bạn sai lầm,
suốt đời nương theo tà pháp tu hành, cuối cùng lạc vào đường ma lối
quỉ.
“Lúc
bấy giờ, Bồ tát Phổ Giác ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quì dài chắp
tay mà bạch Phật rằng: “Đại bi Thế Tôn! Ngài nói đến những bệnh của
nhà Thiền nghe thật khoái thích, khiến cả đại chúng được điều chưa
từng có, làm cho tâm ý rỗng rang, được an ổn rất lớn”: Ngài Phổ
Giác khi nghe Đức Phật giảng về bệnh chấp bốn tướng Ngã, Nhơn, Chúng
sanh và Thọ mạng là những điều quá mới mẻ và quá hay ho, từ trước
đến giờ chưa từng được nghe, nên Ngài thốt lên lời tán thán. Ở đây
dùng từ “Khoái thuyết Thiền bệnh” có thể lột tả được tâm lý
của đại chúng lúc bấy giờ. Người thuyết giảng là Đức Phật, khéo lý
luận thông suốt, chặt chẽ, khiến người nghe thấu triệt được tất cả
vấn đề, không còn thắc mắc điều gì, vì thế tâm ý được rỗng rang và
được an ổn lớn.
“Bạch
Thế Tôn! Chúng sanh đời mạt pháp cách Phật dần dần càng xa, Thánh
Hiền ẩn khuất, tà pháp lại thịnh hành. Chúng sanh phải cầu học ở
những người nào? Phải nương vào những pháp nào? Phải thực hành những
hạnh gì? Phải trừ khử những bệnh gì? Phải phát tâm làm sao? Để những
kẻ mù tối khỏi rơi vào tà kiến? ”
Nói
lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến
cuối như vậy ba lần”: Nghiệm lại thời đại của chúng ta, rõ ràng
lời nhận xét của Bồ tát Phổ Giác quá xác đáng. Trong Qui Sơn Cảnh
Sách, Tổ đã than rằng “Sở hận đồng sanh tượng quí, khứ Thánh thời
diêu, Phật pháp sanh sơ, nhân đa giải đãi” (Tủi vì sanh vào cuối
thời tượng pháp, cách Hiền Thánh đã xa, Phật pháp lưa thưa, người tu
đa số biếng nhác). Thời Tổ Qui Sơn là cuối thời Tượng Pháp, nhiều
người tinh tấn tu hành, chỉ một số ít trễ nãi mà Ngài còn thốt lên
những lời như vậy, huống gì ở thời đại chúng ta. Đức Phật đã nhập
diệt trên 2500 năm; các bậc Thánh là những người đã thoát ly sanh
tử, chúng ta chưa hề gặp; những người Hiền, tức những vị đã có sở
ngộ nhưng chưa rốt ráo cũng thật hiếm hoi. Ngược lại, những kẻ tà
kiến lại đầy dẫy, thích làm thầy thiên hạ, lại biết cách khuyến dụ
người đời, cho nên ngày càng thịnh hành. Tà pháp không những được
truyền bá ở những chỗ hẻo lánh, nơi ánh sáng văn minh chưa rọi đến,
mà còn bành trướng ở thành thị, thậm chí ngay trong chùa. Có thể
nói, nơi nào người tu không có chánh kiến thì tà pháp thịnh hành.
Cho nên, chúng ta phải nương vào giáo lý của Đức Phật, phải chịu khó
quán xuyến đời sống tu hành của mình, phải trau dồi chánh kiến để
khỏi rơi vào những ngã rẽ không lường trước được.
Trở lại câu hỏi của Bồ tát Phổ Giác. Do ở chương trước, trong bài kệ
trùng tụng, Đức Phật có nói “Người cầu Thiện tri thức, chẳng lạc
vào tà kiến”, nên Ngài vì những kẻ mù tối - tức chúng sanh đời
mạt pháp chưa mở được mắt trí huệ, mà đưa ra 5 câu hỏi. Chúng sanh
nương theo lời Phật chỉ dạy không bị rơi vào tà kiến :
1-
“Chúng sanh muốn cầu Thiện tri thức, phải cầu học ở những vị Thầy
như thế nào?”: Trong thời mạt pháp, chúng ta tu phải có thầy bạn,
không thể mò mẫm tu một mình.
2-
“Chúng sanh phải nương vào pháp nào của Thiện tri thức?”: Nếu Thầy
là người có chánh kiến, thầy sẽ truyền chánh pháp cho ta. Ngược lại,
nếu là tà sư thì sẽ dẫn dắt chúng ta vào đường tà.
3-
“Đối với Thiện tri thức, chúng sanh phải làm những hạnh gì?”: Chúng
ta đối với thầy lành bạn tốt phải biểu hiện lòng biết ơn của mình
bằng những hạnh như thế nào?
4-
“Chúng sanh khi tu hành theo chánh pháp, phải trừ khử những bệnh
gì?”: Trên đường tu, chúng ta phải luôn luôn xoay lại mình để tự
biết mình có bệnh gì cần diệt trừ.
5-
“Chúng sanh phải phát tâm ra sao để khỏi lạc vào tà kiến?”
“Bấy
giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Phổ Giác rằng: “Lành thay! Lành thay!
Này Thiện nam tử! Các ông mới có thể thưa hỏi Như Lai việc tu hành
như thế, hay thí cho tất cả chúng sanh đời mạt được Đạo nhãn vô úy,
khiến chúng sanh được thành Thánh đạo. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì
ông mà nói”.
Khi
ấy, Bồ tát Phổ Giác rất đỗi vui mừng, vâng theo lời dạy, cùng đại
chúng lắng sâu tâm thức mà nghe”: Trong lời hứa khả, Đức Phật
khen Bồ tát Phổ Giác đã vì chúng sanh đời mạt pháp mà thưa hỏi những
vấn đề như thế. Nhờ đó, chúng sanh sẽ có được Đạo nhãn vô úy, tức
con mắt thấy rõ đường đi, không còn sợ trở ngại phía trước. Ý Phật
muốn nói, có chánh tri kiến thì sẽ không sợ rơi vào tà đạo nữa. Từ
đó cứ tiến tu, rốt ráo sẽ thành tựu Thánh quả.
“Này
Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp, người muốn tu hành sắp phát
đại tâm, cầu Thiện tri thức, phải cầu tất cả người chánh tri kiến”:
Đại tâm là tâm của Bồ tát Đại thừa, phát tâm lớn-tu hạnh lớn - cầu
quả lớn. Chúng sanh đời mạt muốn tu hành sắp phát tâm lớn, điều tiên
quyết là phải cầu Thiện tri thức để chỉ cho mình con đường tu chân
chánh. Vị Thiện tri thức ấy phải là bậc Chánh-tri Chánh-kiến, cho
nên nói “phải cầu tất cả người chánh tri kiến”. Trong Bát
chánh đạo, Chánh kiến đi đầu. Người đầy đủ chánh kiến là ai? Đây là
một điều khó xét đoán nếu ta không có trí huệ, cứ tin theo một cách
mù quáng. Hãy xem lời nói và việc làm của người ấy có đi đôi với
nhau hay không; dĩ nhiên chúng ta không đòi hỏi sự hoàn hảo, nhưng
phải có sự khế hợp tương đối giữa lời nói và việc làm. Người có
chánh kiến rất khách quan, vô tư, không có thành kiến với ai, đối
với mọi người đều bình đẳng như ánh sáng mặt trời chiếu lên muôn vật
không phân biệt. Vị ấy luôn luôn mang đến cho người khác sự bình an,
thanh lương. Đôi khi không đợi nghe thuyết giảng, chỉ cần ở gần vị
ấy thôi, chúng ta cũng cảm nhận được một sự mát mẻ tươi vui trong
tâm hồn.
Có
ba bậc Thiện tri thức: Giáo thọ, Đồng hạnh và Ngoại hộ Thiện tri
thức, tức người dạy mình, người bạn đồng tu với mình và người hỗ trợ
tứ sự giúp mình có điều kiện tu hành. Ở đây, Đức Phật dạy về những
tiêu chuẩn để đánh giá một vị Thiện tri thức đầy đủ Chánh tri kiến.
“Người
ấy tâm không trụ tướng, không rơi vào cảnh giới Thanh văn, Duyên
giác”: Đây là hai tiêu chuẩn thuộc thuận hạnh của một Thiện tri
thức. Thứ nhất, vị ấy tâm không trụ tướng, tức tâm không chấp vào
tướng mà khởi niệm phân biệt. Thứ hai, vị ấy xa lìa được cảnh giới
Nhị thừa là Thanh văn, Duyên giác. Như vậy, một mặt vị ấy không có
tâm mong cầu phước báo nhơn thiên, mặt khác ly khai luôn các quả
chứng Nhị thừa. Chánh kiến này là của Bồ tát Đại thừa. Bồ tát lăn xả
vào các cõi để độ sanh, không còn tâm phân biệt thân-sơ, giàu-nghèo.
Các Ngài cứu vớt tất cả mọi loài mà không thấy mình là người ban ơn,
chúng sanh là kẻ chịu ơn.
“Tuy
hiện ở trần lao mà tâm vẫn thường thanh tịnh; thị hiện các điều lỗi
lầm mà vẫn tán thán phạm hạnh, không khiến chúng sanh vào Bất luật
nghi”: Đây là hai tiêu chuẩn thuộc nghịch hạnh. Thứ nhất, vị ấy
ở trong trần nhưng không bị nhiễm trần. Chúng ta là phàm phu, sống
trong cảnh bon chen của vòng danh lợi, rất nhiều khi thấy mỏi mệt vì
bị cuốn hút vào guồng máy của xã hội. Các Ngài thì không như thế, dù
thân vẫn làm tất cả mọi việc, thọ hưởng mọi dục lạc của thế gian,
nhưng tâm vẫn như hư không, luôn luôn thanh tịnh. Hình ảnh của Tuệ
Trung Thượng Sĩ, của các vị vua đời Trần như Thái Tông, Nhân
Tông.v.v... là những biểu tượng đẹp đẽ nhất của ý nghĩa hòa quang
đồng trần, hạnh tu của một vị Bồ tát.
Tiêu chuẩn thứ hai, các vị thị hiện các điều lỗi lầm mà vẫn tán thán
phạm hạnh, như trường hợp Hòa thượng Tế Điên. Ngài ăn thịt uống
rượu, la cà nơi trà đình tửu điếm để giáo hóa những hạng người ăn
chơi trụy lạc. Việc làm của các vị tuy trên hình thức thấy lỗi lầm,
nhưng bản thân lại ca ngợi hạnh tốt, khuyến khích người khác giữ gìn
giới luật. Đó là vì thực hành Đồng-sự-nhiếp mà phải giả bày những
hành động không tốt đó thôi. Hoặc cũng có thể, vì các vị vẫn còn
trên đường tu tập, nên đôi khi mắc phải vài sai sót. Tuy vậy, vị ấy
vẫn nhận biết mình có lỗi, sẵn sàng lãnh trách nhiệm và dạy bảo
người khác đừng phạm lỗi ấy. Cho nên, không khiến chúng sanh theo
mình làm những điều trái giới luật (Bất-luật-nghi).
“Cầu
người như thế, sẽ được thành tựu Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”:
Chúng ta tìm được người như thế làm Thầy, ở trong dòng pháp hóa
của vị ấy tu hành đúng chánh pháp, chắc chắn cũng sẽ có đầy đủ chánh
kiến. Như vậy, phát Đại tâm là chánh nhơn tu hành, cầu Thiện tri
thức là chánh duyên. Chánh nhơn và chánh duyên đầy đủ, cuối cùng
thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
“Chúng
sanh đời mạt pháp thấy người như thế, cần phải cúng dường không tiếc
thân mạng”: Khi đã thờ vị ấy làm Thầy, chúng ta cần phải có thái
độ biết ơn và đền ơn. Người tu luôn luôn lấy huệ mạng làm trọng và
xem nhẹ thân mạng, cho nên phải hầu hạ cúng dường vị Thầy thật hết
lòng hết sức. Nếu cần phải hy sinh cả tính mạng, chúng ta cũng không
ngại ngần. Đó là đạo tình của người tu hành chân chính.
“Vị Thiện tri thức kia, trong bốn oai nghi thường
hiện thanh tịnh, cho đến giả bày các thứ lỗi lầm mà tâm vẫn không
kiêu mạn, huống nữa là đoàn tài, vợ con, quyến thuộc !”:
Vì vị ấy đã quá thanh tịnh trong mọi lúc đi đứng nằm ngồi, nên dù
thị hiện bên ngoài những lỗi lầm giả tạo, tâm vị ấy vẫn không kiêu
mạn; huống nữa là thức ăn, tài sản, vợ con, quyến thuộc mà họ lại
tham đắm sao? Trong nhà Thiền thường nói đến “từ khước” và “xả ly”.
Không phải chối bỏ và xa lìa thế gian, mà là từ khước và xả ly mọi
đắm nhiễm đối với những thú vui trần tục. Vì không trốn tránh thế
gian nên các Ngài vẫn thọ dụng của cải, có khi thị hiện có vợ con
gia đình; nhưng các Ngài hoàn toàn thản nhiên tự tại trước mọi cám
dỗ vật chất. Cho nên, chúng ta tu cũng nên xem lại mình có bị đắm
nhiễm bởi ngũ dục hay không để biết trình độ tu tập của mình đến
đâu. Nếu định lực của mình đã sung mãn, thì mọi địa vị quyền hành,
mọi vật chất xa hoa đều chỉ như những giọt sương buổi sớm.
“Nếu
Thiện nam tử, đối với người Thiện hữu kia, không khởi ác niệm, cuối
cùng được thành tựu chánh giác, tâm hoa phát sáng chiếu mười phương
cõi nước”:Nếu đối với vị Thiện tri thức thị hiện những cảnh
nhiễm như vậy, mà mình vẫn không khởi một niệm xấu ác nào, thì chúng
ta biết rằng: Thứ nhất, do chúng ta có chánh kiến nên mới có lòng
tin vững chắc đối với vị Thầy, ta biết Thầy mình vì phương tiện nên
giả hiện những lầm lỗi. Thứ hai, do nội tâm chúng ta đã thanh tịnh,
nên dù thấy cảnh thuận nghịch của người khác, tâm ta vẫn bất động.
Đó là cái nhơn chiêu cảm quả lành. Từ đó tâm hoa bừng nở, khế hợp tự
tánh chiếu soi cùng khắp pháp giới. Đây là hình ảnh lung linh mà
kinh Di Đà đã mô tả “Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh”. Hoa ở
đây tức là hoa tâm, Phật cũng là Phật tâm của chính mình. Ngộ là ngộ
vô sanh pháp nhẫn. Tất cả chính là biểu hiện của tâm Viên giác.
“Này
Thiện nam tử! Vị Thiện tri thức kia, muốn chứng được diệu pháp phải
lìa bốn bệnh. Thế nào là bốn? ”: Phần trên, Đức Phật trả lời câu
thứ nhất về cách chọn thầy bạn. Đến đây, Phật giải đáp câu thứ hai
về cách chọn pháp tu. Nếu vị Thiện tri thức kia dùng pháp sở chứng
của mình để dạy bảo người khác, thì pháp tu của vị ấy phải xa lìa
bốn bệnh. Lấy bốn bệnh này làm thước đo, xem pháp của vị ấy có tùy
thuận Giác tánh hay không, cho nên nói “muốn chứng được diệu pháp
phải lìa bốn bệnh”. Thế nào là bốn? - Tác và Nhậm thuộc bệnh của
phàm phu, Chỉ và Diệt là bệnh của Nhị thừa. Chúng ta sẽ lần lượt
nghe Phật giản trạch sau đây:
“Một
là Tác bệnh: Nếu có người nói như thế này: “Nơi bổn tâm ta làm nhiều
thứ công hạnh, muốn cầu Viên giác”. Nhưng vì Viên giác ấy chẳng do
tạo tác mà được, nên gọi đó là bệnh”: Giả sử có vị Thầy nói
rằng, tôi tạo nhiều phước báo, làm nhiều công hạnh như xây chùa, tạo
tượng để cầu Viên giác. Vị ấy cũng dạy người khác nên tu phước thật
nhiều, mong sớm thành chánh quả. Đó chỉ là cái thấy hữu vi, chứng tỏ
vị ấy chưa đủ chánh kiến, bởi vì hễ có tạo tác là đã trái với Giác
tánh, nên gọi là Tác bệnh (bệnh làm).
Khi Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma sang Trung Hoa, gặp Lương Võ Đế. Đế hỏi Tổ: “Trẫm
từ lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép kinh... không biết bao
nhiêu, vậy có công đức gì chăng? ” Tổ trả lời thẳng: “Không
công đức”. Đế tức giận hỏi: “Đối Trẫm là ai?”. Tổ trả
lời: “Không biết”. Nếu ai hiểu được ý nghĩa của từ “Không
biết” này, sẽ rõ được ai là người không cùng muôn pháp làm bạn.
Nhưng vua chưa có đủ chánh kiến trong sự tu tập vô vi nên không hiểu
được Tổ đã quá từ bi, vì mình mà mấy phen trả lời cặn kẽ; vì vậy
không phải là người xứng đáng để Tổ truyền trao tâm ấn. Chúng ta
thấy, các cư sĩ tại gia có thể tu tập phước báo hữu vi, nhưng những
người xuất gia thì phải xem việc thoát ly tam giới, đạt đến sự giác
ngộ tối thượng làm mục đích tối hậu của đời mình.
“Hai
là Nhậm bệnh: Nếu lại có người nói như thế này: “Chúng ta hôm nay
không cần đoạn sanh tử, chẳng cầu Niết bàn; Niết bàn và sanh tử đều
không có niệm khởi diệt. Cứ mặc tất cả, tùy các pháp tánh, muốn cầu
Viên giác”.Nhưng vì tánh Viên giác ấy chẳng phải do phó mặc mà được,
nên gọi đó là bệnh”: Nhậm là mặc kệ. Nhậm bệnh trái ngược với
Tác bệnh ở trên. Một bên làm tất cả công hạnh, một bên lại phó mặc
chẳng làm gì cả, để mong cầu Viên giác. Cả hai đều là bệnh.
Nhiều người đọc sách Thiền, thấy nói phiền não tức Bồ đề, sanh tử
tức Niết bàn, Niết bàn và sanh tử đều là hoa đốm trong hư không, cứ
tùy duyên tiêu nghiệp cũ... Họ nghĩ như vậy là không cần làm gì cả,
đói ăn mệt ngủ, tọa thiền thì cứ mặc tình để loạn tưởng hoặc hôn
trầm chi phối, cho đó là tùy thuận Giác tánh. Đó chỉ là nói suông
chớ không phải lẽ thật. Nếu chưa nhận ra bản tâm thanh tịnh của
chính mình mà cứ phó mặc cho vọng khởi lẫy lừng, không tránh khỏi bị
nghiệp dẫn lôi, cuối cùng đọa ba đường ác.
Đối chiếu với pháp tu Tri vọng: Chúng ta nghe nói, niệm buông vọng
cũng là vọng, vậy cứ để mặc tình cho vọng chi phối. Tưởng vậy là tùy
duyên mà sống, không biết đó chính là bệnh. Chúng ta tu, phải hiểu
cho tường tận. Tạo tác hữu vi cầu Viên giác là lỗi, mà bỏ mặc không
công phu muốn cầu Viên giác là lầm. Nhất là những người mới vào đạo,
nghe ai nói những chỗ siêu tuyệt thì thường lấy đó làm chỗ y cứ,
muốn đi đường chim bay cho nhanh, không ngờ lạc vào ngã rẽ. Cho nên,
có khi Phật giảng đến chỗ rốt ráo, có khi chỉ bày phương tiện để phù
hợp với chúng sanh căn cơ thấp kém. Một vị Thầy có kinh nghiệm, chỉ
cần nhìn dáng điệu, cách sinh hoạt nói năng của học trò là đã biết
trình độ tu tập của người ấy đến đâu. Từ đó mới tùy cơ mà sử dụng
phương pháp dạy dỗ thích hợp.
“Ba
là Chỉ bệnh: Nếu lại có người nói như thế này: “Nay tự tâm của ta
hằng dứt trừ các niệm, được tất cả tánh: Tịch diệt (Bất động), Bình
đẳng (Bất nhị), muốn cầu Viên giác”. Nhưng vì tánh Viên giác ấy
chẳng phải do hiệp với tâm chỉ mà được, nên gọi đó là bệnh”: Chỉ
là dừng, là ngăn chặn vọng niệm. Dùng tâm dứt vọng là rơi vào đối
trị, đem tâm này dẹp cái tâm kia, tất cả đều là vọng, vì vậy không
hợp với Viên giác. Khi tọa thiền, có vọng khởi lên ta biết có vọng,
không vọng cũng vẫn biết không vọng, chỉ yêu cầu biết rõ vậy thôi.
Rõ ràng là không trừ không dứt niệm, vì nếu thấy có vọng niệm đáng
trừ là trái với Giác tâm vô niệm. Đây là chỗ tế nhị, chúng ta cần
nhận biết tường tận mới khỏi lầm lẫn lúc dụng công.
“Bốn
là Diệt bệnh: Nếu lại có người nói như thế này: “Ta nay hằng đoạn
tất cả phiền não, thân tâm hoàn toàn trống rỗng, không còn gì là của
mình, huống nữa là cảnh giới hư vọng của căn trần? Tất cả đều lặng
lẽ, muốn cầu Viên giác”. Nhưng vì tánh Viên giác ấy chẳng phải là
tướng lặng lẽ, nên gọi đó là bệnh”: Diệt là tận cùng, cả tâm và
cảnh đều không. Hành giả đoạn tận phiền não, thân tâm căn trần đều
tịch diệt. Những tưởng đạt đến trạng thái này đã là cứu cánh, an
thân lập mạng tại đây, đâu ngờ đó cũng còn là bệnh. Nhà Thiền có câu
“Mạc vị vô tâm vân thị đạo, Vô tâm du cách nhất trùng quan”
(Chớ nghĩ vô tâm chính là đạo, Vô tâm còn cách một lớp rào). Bởi vì,
tánh Viên giác vừa tịch vừa chiếu, nghĩa là lặng lẽ mà hằng tri. Ở
đây, hành giả mới chỉ được lặng lẽ mà chưa chiếu soi nên chưa hợp
với Giác thể. Có thể nói, Diệt bệnh đồng nghĩa với Thọ mạng tướng,
tức còn có cái huyễn trí biết mình đang lặng lẽ. Muốn đạt đến rốt
ráo, phải buông luôn cả huyễn trí này.
“Người
lìa được bốn bệnh thì biết đã thanh tịnh. Người quán như thế này gọi
là chánh quán, nếu quán khác đi gọi là tà quán”: Chúng ta dùng
bốn bệnh Tác, Nhậm, Chỉ, Diệt nêu trên để xem lại pháp của Thầy
mình, đồng thời cũng có thể dùng để đánh giá mức độ tu hành của mình
đến đâu. Vị Thiện tri thức chúng ta thờ làm Thầy, nếu lìa được bốn
bệnh thì pháp sở chứng của vị ấy quả là thanh tịnh, đáng cho mình
nương theo tu tập. Chính bốn bệnh này làm sáng tỏ thêm bốn tướng ở
chương trước. Khi hiểu rõ, chúng ta không còn lẫm lẫn khi tự tu và
hướng dẫn người khác tu hành. Nếu không y cứ theo lời Phật dạy,
chúng ta rất dễ lạc vào tà kiến, uổng cả đời tu. Lời Phật nhắc nhở
thật vô cùng tha thiết, “quán như thế này gọi là Chánh quán, nếu
quán khác đi gọi là tà quán”, chúng ta phải luôn luôn khắc cốt
ghi tâm!
“Này
Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp muốn tu hành, cần hết lòng tận
mạng cúng dường Thiện hữu, thờ Thiện tri thức”: Đây là câu trả
lời cho lời thưa hỏi thứ ba của Bồ tát Phổ Giác. Sau khi căn cứ vào
bốn bệnh để xác định một vị Thiện tri thức, thờ vị ấy làm Thầy,
chúng ta phải đối với vị ấy như thế nào để biểu hiện lòng biết ơn?
Đức Phật dạy rằng, đối với Thiện hữu là bạn tốt, phải thân cận cúng
dường không kể thân mạng; đối với Thầy lành, phải hết lòng phụng
thờ, giữ lễ thầy trò đúng mực.
“Vị
Thiện tri thức ấy muốn thân cận với mình, mình phải dứt tâm kiêu
mạn. Nếu vị ấy xa lìa, mình phải dứt tâm sân hận”: Kiêu mạn và
sân hận là bệnh thường gặp ở người tu, nhất là những người mới vào
đạo. Thường khi thấy Thầy muốn thân cận, tới lui dạy dỗ mình, mình
hay khởi niệm, có lẽ mình tu hay tu giỏi hơn người khác nên Thầy đặc
biệt chú ý đến mình; từ đó sanh tâm kiêu mạn. Ngược lại, nếu Thầy có
duyên phải đi xa, không còn lo lắng cho mình, mình lại có tâm giận
hờn Thầy. Cả hai đều làm chướng đạo, vì vậy phải dứt trừ.
“Khi
hiện ra thuận cảnh hay nghịch cảnh, cũng giống như hư không”: Dù
vị Thầy dành nhiều ưu đãi hay tỏ vẻ có cảm tình nhiều với mình
(thuận cảnh) hoặc ngược lại, gây cho mình nhiều khó khăn, đối xử
không tốt với mình (nghịch cảnh), thì tâm mình vẫn không bị xáo
trộn. Giống như hư không, dù trời nắng đẹp hay có giông bão, hư
không vẫn chẳng bị ảnh hưởng gì. Vì sao được như vậy? - Vì chúng ta
tin rằng vị Thiện tri thức ấy có đầy đủ chánh kiến, nên có rất nhiều
phương cách để dạy bảo học trò, lúc cương lúc nhu, lúc xa lìa lúc
gần gũi, tất cả đều nhằm mục đích làm sao cho việc giáo hóa đạt được
kết quả cao nhất.
“Rõ
biết thân tâm thảy đều bình đẳng, cùng các chúng sanh đồng thể không
khác. Tu hành như thế mới nhập được Viên giác”: Người tu phải
quét sạch hết mọi tâm niệm nhị biên phân biệt, phải dứt bỏ hết mọi
dây mơ rễ má trong tâm. Ngay đó, ta thấy muôn sự muôn vật đều bình
đẳng nơi Không tánh, phát khởi Đồng thể Đại bi, thâm nhập tinh thần
“Tất cả là một, một là tất cả”. Ngay đó là hội nhập Viên
giác.
Một điều cần nhấn mạnh về thái độ của người học Phật đối với thầy
lành bạn tốt cũng như với tất cả các bạn đồng tu. Bởi vì trong thời
mạt pháp, tà sư rất nhiều mà Thiện tri thức lại rất hiếm gặp. Nếu
chúng ta tìm được minh sư, được sinh hoạt trong đạo tràng với các
bạn tốt, đó là phước duyên nhiều đời của chúng ta. Đối với vị Thiện
tri thức ấy, chúng ta phải có tâm cung kính, hết lòng thờ phụng, tin
chắc rằng càng gần gũi vị ấy, mình sẽ càng thăng tiến trên đường tu.
Đã cung kính thì dĩ nhiên phải dứt trừ tâm kiêu mạn, phải hạ mình
cầu thị. Như vậy mới có thể học được nhiều điều hay qua ngôn thuyết,
qua tư cách, qua phong thái và những kinh nghiệm quí báu của Thầy.
Chúng ta phải mở toang cánh cửa nhận thức để sẵn sàng đón nhận những
kiến thức mới, những phát minh mới,những kinh nghiệm mới của Thầy và
của những người xung quanh. Chúng ta phải trải lòng ra, sống chan
hòa với mọi người, nhìn mọi người bằng đôi mắt không định kiến,
không phân biệt. Lúc ấy, ta sẽ thấy mình và người không hai không
khác, ta sẽ hoàn toàn cảm thông được với người, hoàn toàn thấu hiểu
tận ngõ ngách sâu kín của tâm hồn họ. Có hiểu mới có thương. Đó là
căn bản để phát sinh Đồng thể Đại bi như đã nói ở đoạn trước.
“Này
Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp, không được thành đạo là do
tất cả chủng tử “ta-người, thương-ghét...” có từ vô thủy nên chưa
được giải thoát”: Trả lời câu hỏi thứ tư của Bồ tát Phổ Giác,
Đức Phật dạy, chúng sanh từ vô thủy mãi trôi lăn trong luân hồi sanh
tử, đó là do tất cả chủng tử “ta-người, thương-ghét” tiềm
phục trong A-lại-da thức.
Ở
chương trước, Phật đã giảng về ý niệm thương ghét làm cản ngăn sự
thể nhập Viên giác. Đó là nói về Hiện-hạnh. Trong chương này, Phật
dạy phá một lớp sâu hơn, tức phá trừ chủng tử tiềm ẩn vi tế. Chủng
tử này là do không đủ chánh kiến, gặp duyên thì khởi ra ý niệm phân
biệt ta và người, thuận với mình thì thương, nghịch với mình sanh
ghét. Do có thương có ghét nên sanh phiền não, đau khổ không có ngày
cùng.
“Nếu
lại có người quán kẻ oan gia như cha mẹ mình, tâm không có hai liền
trừ các bệnh. Đối với các pháp “ta-người, thương-ghét...” cũng lại
như vậy”: Đây là phương pháp diệt trừ các chủng tử ấy. Phật dạy,
muốn trị được các bệnh “ta-người, thương-ghét” phải dùng tâm bình
đẳng để quán sát người và các pháp. Đối với người, chúng ta phải
quán thấy người mình ghét nhất (là oan gia) cũng không khác với
người mình thương nhất (là cha mẹ). Không còn phân biệt người thân
và kẻ thù, tức không còn ý niệm thương ghét. Ý niệm (hiện hạnh)
không còn thì chủng tử cũng bị diệt. Mắt xích Ái trong Thập Nhị Nhân
Duyên bị chặt đứt, mặc nhiên giải thoát khỏi vòng sanh tử.
Đối với các pháp, chúng ta cũng thấy bình đẳng không hai: Đẹp không
ưa, xấu không ghét; Ai khen không mừng, ai chê không giận; phiền não
và Bồ đề, sanh tử và Niết bàn cũng chỉ là mộng ảo. Thấy được như vậy
là mọi bệnh đều tiêu trừ.
“Này
Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp muốn cầu Viên giác, phải phát
tâm như thế này: “Tất cả chúng sanh trong cùng khắp hư không, ta đều
khiến vào hết trong Viên giác. Ở trong Viên giác, không có người thủ
giác, trừ tất cả tướng “ta-người...”. Phát tâm như thế, mới khỏi lạc
vào tà kiến”: Phật giải đáp câu hỏi cuối cùng: Chúng sanh đời
mạt pháp, muốn khỏi lạc vào tà kiến, phải phát Bồ đề tâm. Đây là tâm
của Bồ tát, nguyện độ tất cả chúng sanh, không phân biệt một ai. Lời
phát nguyện này có 4 ý nghĩa :
-
“Tất cả chúng sanh trong cùng khắp hư không”: Tâm nguyện độ
sanh không giới hạn, không phân biệt chủng loài, thân sơ. Đây là tâm
quảng đại hay tâm bình đẳng.
-
“Ta đều khiến vào hết trong Viên giác”: Nguyện độ tất cả đều
được thành Phật, tức quả vị cao tột, rốt ráo Niết bàn.
-
“Ở trong Viên giác không có người thủ giác”: Thể nhập Viên
giác nhưng không thấy có người năng thủ, Viên giác là pháp sở thủ.
Năng sở đều dứt, tâm cảnh không hai.
-
“Trừ tất cả tướng ta-người...”: Các tướng điên đảo Ngã, Nhơn,
Chúng sanh, Thọ mạng đều bị dẹp trừ, đó mới thật là Cứu-cánh-giác.
Hành giả phát đại tâm như thế, thì dù ở đời mạt pháp, cũng không sợ
rơi vào đường tà.
“Bấy
giờ, Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng :
Phổ Giác, ông nên biết!
Những chúng sanh đời mạt
Muốn cầu Thiện tri thức
Phải cầu người chánh kiến,
Tâm xa pháp Nhị thừa”.
Đức Phật tóm tắt câu trả lời thứ nhất. Muốn cầu Thiện tri thức chỉ
dạy chúng ta tu hành, phải chọn người có chánh kiến và tu theo Bồ
tát Đại thừa.
“Trong pháp trừ bốn bệnh
Là: Tác, Chỉ, Nhậm, Diệt”.
Câu trả lời thứ hai: Pháp tu của vị ấy phải xa lìa bốn bệnh
Tác-Chỉ-Nhậm-Diệt thì mới tùy thuận được Viên giác.
“Gần gũi không kiêu mạn
Xa lìa không giận hờn
Thấy nhiều thứ cảnh giới
Tâm phải sanh hy hữu,
Xem như Phật ra đời”.
Câu thứ ba: Gặp được Thiện tri thức có chánh kiến như vậy là một
điều hiếm có, cho nên phải cung kính thờ phụng hết lòng. Chúng ta
không được sanh tâm kiêu mạn khi được vị ấy gần gũi dạy dỗ, cũng
không giận hờn khi vị ấy rời xa. Vì Bồ tát có rất nhiều phương cách
để giáo hóa, để điều phục chúng sanh, nên các Ngài có thể biểu hiện
bằng nhiều hình thức, lúc gắt gỏng lúc nhu hòa, có khi thị hiện
nhiều cảnh điên đảo của một Bồ tát nghịch hạnh. Lúc ấy, chúng ta
phải vui mừng cho là điều hy hữu, phải xem vị ấy là đại diện Phật,
như Phật ra đời.
“Không vi phạm giới luật
Giới căn hằng thanh tịnh
Độ tất cả chúng sanh
Rốt ráo nhập Viên giác.
Không tướng Ngã, Nhơn kia
Thường nương chánh-trí-huệ
Siêu vượt được tà kiến
Chánh giác nhập Niết bàn !”
Đoạn này gồm chung hai câu trả lời thứ tư và năm. Hành giả phải tu
phạm hạnh, giữ gìn giới căn thanh tịnh. Khi phát đại nguyện, phải
nguyện độ tất cả chúng sanh đều thành Phật đạo, mà không thấy có
người chứng và cảnh chứng. Lìa xa bốn tướng điên đảo Ngã, Nhơn,
Chúng sanh, Thọ mạng; nương chánh kiến để diệt sạch các chủng tử
“ta-người...”, siêu vượt mọi tà kiến. Được như vậy, hành giả sẽ có
ngày thành tựu Viên giác, không có gì ngăn ngại.
Tóm lại, trong chương này, Đức Phật dạy chúng ta rất cặn kẽ về việc
chọn thầy lựa bạn khi phát tâm tu hành. Vì sao như thế? - Nếu không
chọn lựa cẩn thận thì cả đời tu của chúng ta sẽ chịu ảnh hưởng. Thật
sự, giữa thầy và trò có sự liên kết với nhau rất mật thiết, kế đó là
bạn đồng tu. Nếu gặp thầy lành bạn tốt, cuộc đời chúng ta sẽ được
thăng hoa. Nếu ngay từ đầu lại chọn nhầm thầy tà bạn ác, chúng ta sẽ
dần dần nhiễm phải tà kiến lúc nào không hay, rồi cả đời phải lạc
vào đường ma lối quỉ. Cho nên, chúng ta phải có trí huệ trong việc
tầm sư học đạo. Đáo cùng, mỗi người phải tự định đoạt lấy cuộc đời
của mình, tự trau dồi trình độ tâm linh của mình, tự phản tỉnh và tự
lo lắng cho mình. Người khác có nhắc nhở, có giúp đỡ mình thì cũng
chỉ một phần nào đó mà thôi.
Ở
thời đại chúng ta, phương tiện truyền thông hiện đại, phương tiện
giao thông phát triển, nên ngoài những tiêu chuẩn Phật dạy để đánh
giá một Thiện tri thức, chúng ta còn cần chú trọng hai điều: Thứ
nhất, ta xem hàng ngày vị ấy đọc loại sách gì; thứ hai, bạn bè và
những người thân cận của vị ấy là người như thế nào? Tục ngữ Tây
phương có câu “Hãy nói cho tôi biết anh đang chơi với ai, tôi sẽ
bảo anh là người như thế nào” (Dis-moi qui tu hantes, je te
dirai qui tu es).
Một điều quan trọng khác cần nhấn mạnh, đó là tu hành như thế nào để
diệt trừ bốn bệnh, thể nhập Viên giác? Đức Phật đã dạy về bốn bệnh:
Tác là có ý muốn tạo tác hữu vi; Nhậm là phó mặc không cần tu hành
gì cả; Chỉ là dứt hết mọi vọng niệm; Diệt là trừ sạch phiền não, tâm
hoàn toàn vắng lặng. Cả bốn đều là bệnh, không khế hợp với tự tánh.
Nhưng thử hỏi, Tác và Nhậm là quan niệm sai lầm của phàm phu, điều
này dễ hiểu; nhưng vì sao Chỉ và Diệt là cách tu của Nhị thừa, cũng
lại là bệnh?
Chúng ta biết rằng, hành giả lúc đầu phải dứt hết vọng niệm (Chỉ),
sau mới đạt đến trạng thái lặng lẽ trống không (Diệt). Nhưng nếu cho
đây là Niết bàn cứu cánh rồi an thân lập mạng ở đó, thì nhà Thiền
gọi là “tử thủy” hay “hang động của quỉ”. Bởi vì, tự tánh Viên giác
vốn vừa Tịch vừa Chiếu; Tịch là định, là tự tánh lặng lẽ; Chiếu là
huệ, là tự tánh chiếu soi. Tịch là thể, Chiếu là dụng. Tịch-Chiếu
của Giác tánh là vô vi, là vô công dụng hạnh, nếu dùng công hạnh hữu
vi thì làm sao thể nhập Viên giác? Lại nữa nếu đạt đến trạng thái
lặng lẽ không thôi, thì tự nhiên đánh mất diệu dụng của tự tánh. Cho
nên, trên đường tu, chúng ta phải luôn xoay lại mình, khéo nhận ra
bản tâm thanh tịnh của chính mình, và hằng sống với nó. Đó gọi là
ngộ rồi mới tu. Điều này đạt được dễ hay khó, là tùy phước duyên của
mỗi người đối với Phật pháp sâu hay cạn mà thôi.
Đã
cần cầu sự giác ngộ tối thượng (Đại trí), hành giả phải phát khởi
tâm Đại bi, nguyện độ tận chúng sanh tất cả đều viên thành Phật quả.
“Thượng cầu hạ hóa” là hạnh tu của Bồ tát Đại thừa.
“Thượng cầu” là chứng được toàn thể toàn dụng của tâm, tức chứng
đạt toàn thể toàn dụng của Pháp giới tánh. Từ đó, Bồ tát thấy mình
và chúng sanh bình đẳng, không hai không khác, nên tình thương bao
la, trang trải vô điều kiện cho chúng sanh muôn loài, thệ nguyện lăn
xả vào tam giới giáo hóa tất cả. Đó là ý nghĩa “hạ hóa”.
Chúng ta học kinh Viên giác, thấy ở chương nào Đức Phật cũng có
những lời dạy bảo tha thiết, chí tình chí nghĩa đối với chúng hội và
với tất cả chúng sanh đời mạt pháp. Cảm niệm ơn đức của Ngài và của
các vị Đại Bồ tát, vì chúng ta mà nhiều lần thưa thỉnh Phật, chúng
ta phải lập chí vững chắc, nguyện trọn đời vâng theo lời dạy của
Phật để phát triển đời sống tâm linh. Đồng thời, phải phát Đại bi
tâm, thệ nguyện lăn lộn vào ba cõi sáu đường để giáo hóa mọi chúng
sanh hữu duyên với mình. Có như thế, chúng ta mới xứng đáng là con
Phật, mới đáp đền trong muôn một công ơn của Ngài.
~~oOo~~