VI-
CHƯƠNG DI LẶC
Trong chương này, Bồ
tát Di Lặc là nhân vật chính. Theo truyền thuyết của nhà Phật, Bồ
tát Di Lặc đang cư ngụ trong nội viện cung trời Đâu Suất. Khi giáo
pháp của Phật Thích Ca không còn hiện diện trên cõi Ta Bà này, Ngài
sẽ được bổ xứ về đây, thị hiện thành Phật dưới cội cây Long Hoa và
tuyên dương chánh pháp. Là một vị Đại Bồ tát, chỉ sinh về cõi Ta Bà
lần cuối cùng rồi thành Phật, nên Ngài được gọi là “Bồ tát Nhất
sanh bổ xứ”.
Nụ cười của Bồ tát
Di Lặc là một điều tâm đắc cho nhiều người học Phật. Hình thức khác
với nụ cười mỉm bí ẩn của Ngài Ca Diếp khi Đức Phật đưa cành hoa tại
hội Linh Sơn, nụ cười của Ngài Di Lặc rất hồn nhiên, rất vui tươi và
rất phóng khoáng. Vì sao Ngài có được nụ cười đó? - Vì Ngài đã đạt
đến mức độ thường hỷ và thường xả. Bồ tát là vị Tổ của Duy thức học,
chủ trương “Vạn pháp duy thức biến”, tất cả pháp đều do thức
mà biến hiện. Khi liễu ngộ được mọi sự mọi vật đều sinh khởi từ thức
tâm phân biệt, thì ra tất cả đều là huyễn ảo không thực. Đối với mọi
cảnh ngộ thịnh suy thăng trầm của cuộc đời, Ngài tự tại với tất cả.
Nhờ vui (Hỷ) mà Ngài thường Xả, và nhờ Xả nên Ngài thường vui; Hỷ và
Xả vừa làm nhân vừa làm quả cho nhau.
Một nét đặc biệt
khác của hình tượng Bồ tát Di Lặc là cái bụng rất to, tượng trưng
tâm hồn Ngài bao dung độ lượng vô bờ. Thường thì có hiểu mới có
thương, có thông cảm với người thì mới
thương được người đó. Ở đây, Ngài chuyển cái hiểu phàm tục thành trí
huệ siêu việt, và chuyển cái thương phàm tục thành tình thương bao
la, nên Ngài có cuộc sống vui tươi cởi mở. Dù ai sầu bi khổ não đến
đâu, nhìn hình tượng Ngài cũng có thể sanh tâm hoan hỷ. Cho nên,
người ta gọi mùa xuân bất diệt là “Xuân Di Lặc”.
Lúc bấy giờ, Bồ
tát Di Lặc ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quỳ dài chắp tay mà bạch
Phật rằng: “Đức Đại bi Thế Tôn! Ngài đã rộng vì hàng Bồ tát mà mở ra
cái kho tàng bí mật, khiến cho cả đại chúng thâm ngộ được luân hồi,
phân biệt được tà chánh; hay thí cho chúng sanh đời mạt pháp được
Đạo-nhãn-vô-úy, đối với Đại Niết-bàn sanh lòng tin quyết định, không
còn trở lại theo cảnh giới luân hồi mà khởi lên kiến chấp điên đảo
nữa.
Bạch Đức Thế Tôn!
Nếu các Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp muốn dạo chơi nơi biển Đại
tịch diệt của Như Lai, phải làm sao đoạn trừ được căn bản luân hồi?
Trong các cõi luân hồi có bao nhiêu loài chúng sanh? Có bao nhiêu
cấp bậc tu theo đạo Bồ đề của Phật? Các Bồ tát khi vào trần lao độ
chúng sanh, phải thiết lập bao nhiêu phương tiện giáo hóa?
Cúi mong Đức
Bất-xả-cứu-thế-đại-bi khiến tất cả Bồ tát và chúng sanh đời mạt
pháp, những người tu hành được con mắt trí huệ trang nghiêm thanh
tịnh, chiếu diệu nơi tâm và cảnh, viên ngộ được tri kiến vô thượng
của Như Lai !”
Nói lời ấy rồi,
năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến cuối như vậy
ba lần.
Bấy giờ, Đức Thế
Tôn bảo Bồ tát Di Lặc rằng: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử!
Các ông mới có thể vì Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp mà thỉnh hỏi
Như Lai về ý nghĩa thâm áo bí mật vi diệu, khiến cho các Bồ tát mắt
huệ được sáng tỏ, và cho các chúng sanh đời mạt pháp hằng đoạn được
luân hồi, tâm ngộ được thật tướng, đủ Vô sanh nhẫn. Ông hãy lắng
nghe, ta sẽ vì ông mà nói”.
Khi ấy, Bồ tát Di
Lặc vui mừng vâng theo lời dạy của Phật, cùng cả đại chúng lắng sâu
tâm thức mà nghe.
“Này Thiện nam
tử! Tất cả chúng sanh từ mé vô thỉ,do có các thứ ân ái và tham dục,
nên mới có luân hồi. Tất cả chúng sanh trong thế giới như Noãn sanh,
Thai sanh, Thấp sanh, Hóa sanh đều nhơn nơi dâm dục mà thành tánh
mạng. Phải biết, Ái là căn bản của luân hồi. Do có các Dục trợ giúp
Ái phát sinh, thế nên khiến cho sanh tử nối tiếp nhau. Dục nhơn Ái
mà sanh, Mạng nhơn Dục mà có. Chúng sanh ái luyến mạng sống, rồi trở
lại nương Dục làm gốc. Ái dục là nhơn, Ái mạng là quả.
Do nơi cảnh dục
khởi lên các điều thuận nghịch. Cảnh trái với tâm ưa thích thì sanh
chán ghét, tạo nhiều thứ nghiệp, nên sanh ra Địa ngục, Ngạ quỉ. Biết
Dục đáng chán, mới thích cái Đạo-chán-nghiệp, bỏ ác vui với thiện,
nên hiện ra cõi Trời và Người. Lại vì biết các Ái đáng chán ghét,
nên bỏ Ái ưa Xả; rồi lại tươi nhuận gốc Ái, mới lần lần hiện ra quả
lành tăng thượng hữu vi. Đó đều là luân hồi, không thành được Thánh
đạo. Thế nên, chúng sanh muốn thoát khỏi sanh tử, tránh khỏi vòng
luân hồi, trước tiên phải đoạn tham dục và khát ái.
Này Thiện nam tử!
Bồ tát biến hóa thị hiện ở thế gian chẳng phải do gốc Ái, chỉ vì
lòng từ bi muốn chúng sanh bỏ Ái, nên mượn các sự tham dục mà vào
nơi sanh tử.
Nếu tất cả chúng
sanh đời mạt pháp bỏ được các dục và trừ đi khát ái, hằng đoạn luân
hồi, cần cầu cảnh giới Viên Giác của Như Lai, thì ở nơi tâm thanh
tịnh liền được khai ngộ.
Này Thiện nam tử!
Tất cả chúng sanh do gốc tham dục mà phát huy vô minh, hiện ra năm
tánh sai biệt, rồi nương vào hai thứ chướng mà hiện ra có sâu cạn.
Hai chướng là gì? - Một là Lý chướng, ngăn ngại Chánh-tri-kiến; hai
là Sự chướng, làm tiếp tục sanh tử luân hồi. Năm tánh là gì? - Này
thiện nam tử! Nếu hai chướng ấy chưa đoạn trừ, thì chưa thành Phật.
Nếu các chúng sanh bỏ được tham dục, trước trừ được Sự chướng mà còn
chưa đoạn được Lý chướng, thì chỉ có thể ngộ nhập được cảnh giới
Thanh văn và Duyên giác, chứ chưa thể an trụ trong cảnh giới Bồ tát.
Này Thiện nam tử!
Nếu tất cả chúng sanh đời mạt pháp, muốn dạo chơi nơi biển Đại Viên
Giác của Như Lai, trước tiên phải phát nguyện siêng đoạn được hai
chướng. Hai chướng đã nép phục rồi, liền được ngộ nhập cảnh giới Bồ
tát. Nếu Sự-Lý chướng hằng đoạn dứt, liền ngộ nhập Viên Giác nhiệm
mầu của Như Lai, đầy đủ đạo Bồ đề và Đại Niết-bàn.
Này Thiện nam tử!
Tất cả chúng sanh đều chứng Viên Giác, gặp thiện tri thức rồi, y nơi
Nhơn địa pháp hạnh của vị đó đã thực hành mà tu tập, liền có Đốn và
Tiệm. Nếu gặp được con đường tu hành chơn chánh Vô Thượng Bồ đề của
Như Lai, căn cơ của họ vốn không lớn nhỏ, đều thành Phật quả. Nếu
chúng sanh tuy cầu bạn tốt mà gặp người tà kiến, chưa được chánh
ngộ, như thế gọi là Ngoại đạo chủng tánh. Sự lỗi lầm ấy là do thầy
tà, không phải lỗi ở chúng sanh. Đó gọi là năm tánh sai biệt của
chúng sanh.
Này Thiện nam tử!
Bồ tát chỉ dùng sức đại bi phương tiện mà vào thế gian, dạy bảo cho
người chưa ngộ, cho đến thị hiện nhiều thứ hình tướng, cảnh giới
thuận nghịch, cùng họ đồng sự, khiến họ được thành Phật, ấy đều do
nguyện lực thanh tịnh từ vô thỉ.
Nếu tất cả chúng
sanh đời mạt pháp đối với Đại Viên Giác mà khởi tâm tăng thượng,
phải phát đại nguyện thanh tịnh của Bồ tát. Khi phát đại nguyện, nên
nói như vầy: Con nguyện ngày nay trụ nơi Viên Giác của Phật, cầu
Thiện tri thức, không gặp ngoại đạo và hàng Nhị thừa, y nguyện tu
hành, đoạn dần các chướng. Các chướng đã hết, nguyện được
viên mãn, được lên Pháp điện thanh tịnh
giải thoát, và chứng Đại Viên Giác thành diệu trang nghiêm”.
Bấy giờ, Đức Thế
Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa trên nên nói kệ rằng :
“Di Lặc, ông
nên biết!
Tất cả các chúng
sinh
Không được Đại
giải thoát
Đều do nơi tham
dục
Đọa lạc trong
sanh tử.
Nếu đoạn được ái
dục
Và cả tham, sân,
si,
Không nhơn tánh
sai biệt,
Đều được thành
Phật đạo.
Hai chướng hằng
tiêu diệt
Cầu thầy được
chánh ngộ,
Tùy thuận nguyện
Bồ tát,
Nương nhờ đại
Niết-bàn.
Các Bồ tát mười
phương
Đều vì nguyện
Đại-bi
Thị hiện vào sanh
tử.
Người hiện tại tu
hành
Và chúng sanh đời
mạt
Siêng đoạn các ái
kiến
Liền về Đại Viên
Giác”.
Bồ tát Di Lặc vì
lòng từ bi, muốn chúng sanh thâm ngộ căn nguyên của luân hồi, cũng
như phương cách giải thoát sinh tử, nên đặt ra bốn câu hỏi, thỉnh
Phật chỉ dạy.
“Lúc bấy giờ, Bồ
tát Di Lặc ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quỳ dài chắp tay mà bạch
Phật rằng: “Đức Đại bi Thế Tôn! Ngài đã rộng vì hàng Bồ tát mà mở ra
kho tàng bí mật, khiến cho cả đại chúng thâm ngộ được luân hồi, phân
biệt được tà chánh; hay thí cho chúng sanh đời mạt pháp được
Đạo-nhãn-vô-úy, đối với Đại Niết-bàn sanh lòng tin quyết định, không
còn trở lại theo cảnh giới luân hồi mà khởi lên kiến chấp điên đảo
nữa”: Kho tàng bí mật chính là tâm Viên Giác Đức Phật đã giảng ở
những chương trước. Đạo-nhãn-vô-úy là con mắt thấy được đạo, không
còn cái gì làm cho sợ hãi nữa. Đại Niết-bàn ở đây, phân biệt với
Niết-bàn Hóa thành của Nhị thừa, chỉ cho tâm Viên Giác. Trong lời mở
đầu, Bồ tát Di Lặc tán thán Đức Phật đã vì các hàng Bồ tát mà khai
thị về tâm Viên Giác của Như Lai, cùng những phương tiện thâm nhập
tự tâm ấy. Khi đại chúng đã thông hiểu về tự tánh thanh tịnh sẵn đủ
của chính mình, tự nhiên mọi pháp đều thông; từ đó thâm ngộ luân
hồi, phân biệt được tà chánh, đạt đến quả vị Tu-đạo, có được
Đạo-nhãn-vô-úy. Một khi nhận ra tự tâm, đại chúng có niềm tin vững
chắc đối với Đại Niết-bàn, không còn rơi vào vòng luân hồi sanh tử
và có kiến chấp điên đảo về tất cả các pháp nữa.
“Bạch Đức Thế
Tôn! Nếu các Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp muốn dạo chơi nơi
biển Đại-tịch-diệt của Như Lai, phải làm sao đoạn trừ được căn bản
luân hồi? ”: Đây là câu hỏi thứ nhất. Vì trong chương Kim Cang
Tạng ở trước, Đức Phật dạy muốn thoát khỏi luân hồi, trước tiên phải
đoạn trừ căn bản luân hồi, nên Bồ tát Di Lặc thỉnh Phật dạy cho
phương pháp đoạn trừ. “Biển Đại-tịch-diệt” chỉ cho tâm Viên
Giác. Khi hằng sống với tự tâm, ý niệm Luân hồi hay Giải thoát đều
không còn, nên vào cõi sinh tử như dạo hoa viên. Bồ tát ở trong
chánh định dạo chơi khắp chốn - gọi là Du hí tam muội - nơi
nào cũng là biển Đại-tịch-diệt của Như Lai.
“Trong các cõi
luân hồi có bao nhiêu loài chúng sanh? ”: Câu thứ hai, Bồ tát
hỏi có bao nhiêu loài chúng sanh đang ở trong các cõi luân hồi, và
cảnh giới tương ứng của các loài ấy như thế nào?
“Có bao nhiêu cấp
bậc tu theo đạo Bồ đề của Phật”: Đây là câu hỏi thứ ba, những vị
tu hành theo đạo Bồ đề của Phật có mấy bậc khác nhau?
“Các Bồ tát khi
vào trần lao độ chúng sanh, phải thiết lập bao nhiêu phương tiện
giáo hóa?”: Câu hỏi thứ tư nhắm vào việc lợi sanh. Bồ tát khi đã
thâm ngộ Viên Giác, phải lập hạnh vào các cõi trần giáo hóa chúng
sanh. Với mục đích ấy, Bồ tát phải thiết lập bao nhiêu phương tiện?
“Cúi mong Đức
Bất-xả-cứu-thế-đại-bi khiến tất cả Bồ tát và chúng sanh đời mạt
pháp, những người tu hành được con mắt trí huệ trang nghiêm thanh
tịnh, chiếu diệu nơi tâm và cảnh, viên ngộ được tri kiến vô thượng
của Như Lai !”: Khi có mắt trí huệ, tâm và cảnh được chiếu soi
thông suốt. Ta không còn nhận giặc làm con, tức nhận vọng tâm là
mình; ta thấy rõ sự sanh khởi, tồn tại và hủy diệt của từng tâm niệm
và liễu ngộ tự thể của chúng. Đối với cảnh, ta biết rõ tất cả đều
“duy thức sở biến, duy tâm sở hiện”, không có gì là thật có. Từ đó
viên ngộ tri kiến vô thượng của Như Lai.
“Nói lời ấy rồi,
năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến cuối như vậy
ba lần.
Bấy giờ, Đức Thế
Tôn bảo Bồ tát Di Lặc rằng: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử!
Các ông mới có thể vì Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp mà thỉnh hỏi
Như Lai về ý nghĩa thâm áo bí mật vi diệu, khiến cho các Bồ tát mắt
huệ được sáng tỏ và các chúng sanh đời mạt pháp hằng đoạn được luân
hồi, tâm ngộ được thật tướng, đủ Vô-sanh-nhẫn. Ông hãy lắng nghe, Ta
sẽ vì ông mà nói”.
Khi ấy, Bồ tát Di
Lặc vui mừng vâng theo lời dạy của Phật, cùng cả đại chúng lắng sâu
tâm thức mà nghe”: Khi chúng sanh đời mạt pháp đoạn được luân
hồi, e rằng sẽ rơi vào cảnh giới Niết-bàn trầm không thủ tịch của
Nhị thừa, nên Phật nói thêm “tâm ngộ được thật tướng”. Theo
Pháp Bảo Đàn Kinh, Thật tướng là Vô tướng. Vì không có tướng nên
không sinh không diệt, không đến không đi. Đó là tâm Viên Giác, cũng
là Như Lai trong tinh thần “Vô sở tùng lai diệc vô sở khứ”
(không từ đâu đến cũng không đi về đâu).
“Vô sanh nhẫn”
nói cho đủ là Vô-sanh-pháp-nhẫn. Tiếp xúc với sáu trần mà tâm còn
khởi phân biệt đẹp-xấu hay-dở, là chưa nhẫn được đối với trần cảnh.
Vô sanh pháp nhẫn là khi nội tâm bất động đối với tất cả các pháp.
Theo Giáo tông, phải từ Bồ tát Sơ-địa trở lên mới đạt được điều này.
Ở đây Phật muốn nói,
không phải từ bỏ phiền não mới được Niết-bàn, mà chỉ cần giác ngộ
thật tướng, tức tự tâm Viên Giác, là trong sanh tử mà thấy Niết-bàn.
Thật ra, người tu chúng ta cũng phải đối diện với tất cả các pháp.
Nhưng khi đạo lực chưa mạnh, định lực chưa vững, tâm còn biến động,
thì phải tránh bớt duyên. Khi nào ngay trong động mà vẫn bất biến,
ta sẽ tùy duyên mà sống.
“Này Thiện nam
tử! Tất cả chúng sanh từ mé vô thỉ, do có các thứ ân ái và tham dục,
nên mới có
luân hồi”:
Ân ái chỉ riêng tình yêu nam nữ. Tham dục là nói chung ngũ dục: Tài,
sắc, danh, thực, thùy (tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ
nghỉ) hoặc Sắc, thinh, hương, vị, xúc (hình tướng, âm thanh, mùi
hương, cảm giác ở lưỡi, xúc chạm ở thân). Trong đó, tình cảm nam nữ
là mãnh liệt nhất; nó có thể giúp con người tự hoàn thiện hay thành
công trong cuộc sống nếu gặp tình yêu chân chính. Ngược lại, con
người cũng có thể bị sa đọa, thân bại danh liệt nếu vướng mắc vào
một tình yêu tội lỗi. Nhưng dù tình cảm ấy tốt đẹp, cao thượng cách
mấy, nó cũng là một ràng buộc, ngăn ngại và có thể làm bít lấp con
đường giải thoát.
“Từ mé vô thỉ”:
có nghĩa là đã từ lâu xa, từ bao giờ cho đến bây giờ. Đức Phật bảo,
từ xưa đến nay, chúng sanh vì các thứ ân ái và tham dục nên mãi lăn
lộn trong vòng luân hồi sinh tử. Đây là lời mở đầu cho câu trả lời
phần thứ nhất.
“Tất cả chúng
sanh trong thế giới như Noãn sanh, Thai sanh, Thấp sanh, Hóa sanh
đều nhơn nơi dâm dục mà thành tánh mạng. Phải biết, Ái là căn bản
của luân hồi”: Phật đề cập đến bốn loài chúng sanh là Noãn,
Thai, Thấp, Hóa, chúng ta có thể hiểu theo hai cách, tùy biểu hiện
bên ngoài hay bên trong. Biểu hiện bên ngoài gồm có :
- Noãn sanh:
Loài sanh bằng trứng như gà, vịt, chim...
- Thai sanh:
Loài sanh ra con như người, chó, mèo...
- Thấp sanh:
Loài sanh chỗ ẩm thấp như trùn đất, rít...
- Hóa sanh:
Loài sanh bằng biến hóa như tằm biến thành bướm, lăng quăng thành
muỗi... Cả các loài chúng sanh ở cõi Trời, Ngạ quỉ, Địa ngục cũng
thuộc Hóa sanh.
Biểu hiện bên trong
tức bốn cách sinh khởi của tâm niệm, nhà Thiền gọi là Chúng sanh
tâm:
- Noãn sanh:
Những hạt giống tâm thức còn ẩn sâu trong A-lại-da thức, chưa có tác
dụng hiện thời. Cũng có thể coi đây là những ý niệm bâng quơ, chưa
có hình thù rõ rệt.
- Thai sanh:
Những niệm khởi có hình tướng rõ rệt, biểu hiện nơi tâm thức. Đây là
những tư tưởng phân biệt đẹp xấu hay dở, hoặc những tình cảm buồn
vui thương ghét, mà chúng ta thường cho là tâm của mình.
- Thấp sanh:
Sự ẩm ướt ở đây chỉ cho nước tham ái. Khi tình cảm nổi lên sẽ kích
thích các tuyến dịch tương ứng tiết ra nước (nước mắt, nước mũi,
tinh dịch…). Loài thấp sanh ở đây chỉ những niệm phát sanh từ tham
ái, chúng gây nên sự ray rứt, quằn quại trong tâm hồn.
- Hóa sanh:
Những tâm niệm biến hóa sanh diệt, từ niệm này tiếp nối sang niệm
khác không dừng. Chúng bất chợt biến hiện tùy duyên, không có tính
chất nhất định.
Chúng ta có khi tự
hỏi, con người nhiều tình cảm có tư tưởng vọng động đã đành, vì sao
những chúng sanh khác, kể cả loài hạ đẳng, cũng bị chi phối bởi dục
tính? - Đó là do nghiệp lực thúc đẩy. Tùy nghiệp lực nặng nhẹ mà
phải mang thân tướng xấu tốt, ở trong cảnh giới ác hay lành; và cũng
do nghiệp lực nên có tánh âm-dương, phát sanh dâm dục. Không phải
chỉ có loài hữu tình mà cả vô tình cũng có âm-dương. Từ sự kết hợp
giữa âm và dương của từng loài chúng sanh mới thành chủng tánh và
sanh mạng của loài ấy. Như vậy, hễ còn nằm trong vòng hiện tượng
sinh diệt mà quên đi bản giác, thì hữu tình và vô tình đều không
thoát khỏi luật âm dương. Khi liễu ngộ tự tâm Viên Giác, thì mới hay
âm-dương đều là tương đối, tất cả đều không ngoài tâm; và chính vọng
tâm điên đảo đã tạo nghiệp thành có thân nam hay nữ, còn Phật tánh
sẵn đủ thì đâu có hình tướng sai thù. Do vậy, các Bồ tát khi vào các
cõi để độ sanh, đâu ngại gì hình tướng xuất gia hay tại gia, nam hay
nữ, cứ tùy duyên mà thị hiện.
Hai chữ “Dục” và
“Ái” ở đoạn này có ý nghĩa khác ở trên. Dục có nghĩa hẹp hơn, là
lòng ưa thích kết hợp nam nữ. Ái có nghĩa rộng, yêu mến cái ta và
những cái thuộc về ta, danh từ Phật pháp gọi là Ái
ngã và ngã sở. Ái là một trong mười hai
nhân duyên, từ Ái mới có Thủ, Thủ lại làm duyên cho Hữu. Từ Hữu mới
có Sanh, Lão, Tử tiếp nối lưu chuyển không dừng. Cho nên Phật nói
“Ái là căn bản của luân hồi”.
Không những Ái chi
phối cõi Dục giới (tức sáu cõi Trời Dục và các cõi Người, A-tu-la,
Súc sanh, Ngạ quỉ, Địa ngục), mà còn ảnh hưởng cả hai cõi Trời Sắc
và Vô Sắc. Từ Sơ thiền trở lên, các vị đã có niềm vui do thiền định,
không còn dục tính nam nữ nên gọi là Ly dục-ly bất thiện pháp,
tức lìa mọi thứ dục và mọi pháp ác. Tuy nhiên, các vị lại đắm luyến
vào cảnh giới sở chứng của mình, đó cũng là một dạng tế vi của Ái,
vì vậy chưa thoát khỏi luân hồi.
“Do có các Dục
trợ giúp Ái phát sinh, thế nên khiến cho sanh tử nối tiếp nhau. Dục
nhơn Ái mà sanh, Mạng nhơn Dục mà có. Chúng sanh ái luyến mạng sống,
rồi trở lại nương Dục làm gốc. Ái dục là nhơn, Ái mạng là quả”:
Trong câu đầu, các Dục có nghĩa là Ngũ dục, khiến chúng sanh tham
ái. Đây là chất kích thích làm Ái sinh khởi, nên bảo Dục trợ giúp
cho Ái phát sinh, từ đó tạo nên vòng luân hồi nối tiếp mãi, không
bao giờ dừng.
Trong câu kế,
“Dục nhơn Ái mà sanh, Mạng nhơn Dục mà có”, Dục lại có ý nghĩa
là sự dâm dục của nam nữ. Nam nữ thương yêu nhau mới phát sanh việc
dâm dục, từ đó thọ thai thành thân mạng khác. Khi có thân mạng, sẽ
có sự ái luyến đối với mạng sống, ái luyến thân mình và yêu người
khác phái, trở lại có dục vọng tiếp nối, đời đời không cùng. Như
vậy, vì có Ái mới có Dục, do có Dục mới có Mạng, có Mạng rồi sẽ có
sự yêu mến thân mạng, cho nên nói “Ái dục là nhơn, Ái mạng là
quả”. Ta thấy, Đức Phật đã trực tiếp giải đáp câu thứ nhất của
Bồ tát Di Lặc, chính Ái là căn bản luân hồi.
“Do nơi cảnh Dục
khởi lên các điều thuận nghịch. Cảnh trái với tâm ưa thích thì sanh
chán ghét, tạo nhiều thứ nghiệp, nên sanh ra Địa ngục, Ngạ quỉ. Biết
Dục đáng chán, mới thích cái Đạo-chán-nghiệp, bỏ ác vui với cái
thiện, nên hiện ra cõi Trời và Người”: Đến đây bắt đầu trả lời
câu thứ hai, Phật bảo, trong các cõi luân hồi, có ba thứ chủng tánh:
Ác chủng tánh, Thiện chủng tánh và Bất động tánh. Những cảnh dục hợp
với tâm ưa thích gọi là “điều thuận”, trái với tâm ưa thích
là “điều nghịch”, nên nói, do nơi cảnh dục mà khởi lên những
điều thuận nghịch. Cảnh trái với tâm ưa thích thì sanh chán ghét, từ
đó tạo thành nghiệp ác, bị đọa vào các đường khổ như Địa ngục, Ngạ
quỉ - Ác chủng tánh hình thành và gây hậu quả. Nếu biết các dục đáng
chán, một lòng tu theo Đạo chán bỏ ác nghiệp và siêng tu Thiện
nghiệp, đó là Thiện chủng tánh, sẽ sanh về những cõi lành như Trời,
Người.
“Lại vì biết các
Ái đáng chán ghét, nên bỏ Ái ưa Xả; rồi lại tươi nhuận gốc Ái, mới
lần lần hiện ra quả lành tăng thượng hữu vi”: Đây nói đến Bất
động tánh, do Thiền định mà đạt được, thuộc các cảnh giới Sắc và Vô
sắc, nghĩa là từ Sơ thiền, Nhị thiền trở lên, đến Phi Phi tưởng xứ.
Các vị bỏ luôn nghiệp lành mà ưa trạng thái buông xả, nội tâm bất
động, an lạc trong thiền định. Nhưng ở cõi Sắc giới vẫn còn có thân,
cõi Vô sắc giới còn có tâm; mà đã còn thân và tâm thì vẫn còn Ái,
nên quả lành hiện ra đó vẫn còn thuộc pháp hữu vi.
“Đó đều là luân
hồi, không thành được Thánh đạo”: Tất cả các chủng tánh nêu trên
đều chưa xuất ly tam giới nên vẫn còn trong vòng luân hồi sanh tử,
không phải là Thánh đạo.
“Thế nên, chúng
sanh muốn thoát khỏi sanh tử, tránh khỏi vòng luân hồi, trước tiên
phải đoạn tham dục và khát ái”: Đức Phật đúc kết hai câu trả lời
ở trên để chỉ rõ, muốn giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, điều tiên
quyết là phải tận trừ tham dục và khát ái. Tham dục là trợ duyên,
khát ái là cội gốc. Tâm tham ái giống như người đang khát mà thèm
nước, nên gọi là “khát ái”.
Học đến đây, chúng
ta thấy thấm thía vô cùng. Tất cả chúng ta, ai cũng do ân ái tham
dục nên mới sanh ra trên cõi đời này, phải chịu nhiều sầu bi khổ
não. Do trùng trùng duyên khởi từ tinh cha huyết mẹ cùng thần thức
tạo ra kiếp người, đó là vì nghiệp lực đời trước. Trót tạo nghiệp
nên phải chịu quả khổ luân hồi, bây giờ có duyên biết được chánh
pháp, chúng ta phải làm sao chuyển được cái nhân ân ái tham dục ở
kiếp này. Vì có duyên nên chúng ta đã biết mình có bản thể thanh
tịnh thường nhiên, giờ phải gắng công tu tập để hồi phục lại bản thể
ấy. Người xuất gia nguyện thường độc hành thường độc bộ, hy sinh
những thú vui trần tục, bỏ hết những tình cảm hạn hẹp gia đình, hiến
trọn đời mình cho Phật pháp. Muốn làm tròn bản nguyện, chúng ta phải
có một ý chí kim cương và luôn luôn cầm trong tay thanh gươm trí
huệ, lấy định lực làm thức ăn, lấy an lạc nội tâm làm sức sống, họa
may mới thoát khỏi lưới ái dục. Nếu chúng ta sống tầm thường như
người đời, buông mình theo những thú vui vật chất, thì ái dục sẽ
thừa cơ hội trổi dậy, chúng ta dễ bị thối chí ngã lòng, uổng một đời
tu.
Kinh Niết-Bàn có
nói: “Nhơn ái sanh ưu, nhơn ưu sanh bố. Nhược ly tham ái, hà ưu
hà bố”. (Nhơn ái sanh lo, vì lo sanh sợ. Nếu lìa được tham ái
thì còn gì lo và sợ). Khi có yêu thích thì lo không được, khi được
rồi lại sợ mất. Nếu tham ái đoạn trừ thì có gì khiến ta lo sợ, ta sẽ
giải thoát khỏi phiền não và giải thoát luôn vòng sanh tử luân hồi.
Tuy nhiên, chúng ta
cũng đừng hiểu lầm rằng Ái dục là nguyên nhân đầu tiên của luân hồi
sanh tử. Nếu nói có nguyên nhân đầu tiên thì tự nhiên sẽ có câu hỏi,
trước nguyên nhân ấy là gì? Trong kinh, Phật bao giờ cũng nói “vô
thỉ vô chung”, không có bắt đầu cũng không có kết thúc. Khi liễu
ngộ được tự tánh, chúng ta mới hiểu thì ra cái gọi là đầu tiên hay
cuối cùng chỉ có trong ảo tưởng điên đảo, thấy mọi vật qua lăng kính
lưỡng phân. Ở đây cũng vậy, chúng ta cũng chỉ cần biết nguyên nhân
chính của luân hồi là ái dục, và phải đoạn trừ nguyên nhân ấy nếu
muốn được giải thoát.
“Này Thiện nam
tử! Bồ tát biến hóa thị hiện ở thế gian chẳng phải do gốc Ái, chỉ vì
lòng từ bi muốn chúng sanh bỏ Ái, nên mượn các sự tham dục mà vào
nơi sanh tử”: Đức Phật giải nghi cho chúng ta: Nhiều người thấy
Bồ tát cũng có cha mẹ, gia đình nên nghĩ các Ngài vẫn còn ái dục,
còn trong vòng sinh tử. Thật ra, các Ngài thị hiện vào các cõi là do
nguyện lực độ sanh, chớ không phải vì nghiệp lực như chúng sanh mà
thọ tinh cha huyết mẹ.
“Nếu tất cả chúng
sanh đời mạt pháp bỏ được các dục và trừ đi khát ái, hằng đoạn luân
hồi, cần cầu cảnh giới Viên Giác của Như Lai, thì ở nơi tâm thanh
tịnh liền được khai ngộ”: Đức Phật bắt đầu trả lời câu hỏi thứ
ba của Bồ tát Di Lặc: Tu theo đạo Bồ đề của Phật có bao nhiêu đẳng
cấp? Ở đoạn này nói về các hàng thượng thượng căn đốn đoạn đốn ngộ,
một mặt đoạn trừ ái dục là căn bản luân hồi,
mặt khác mong cầu cảnh giới Viên Giác, thì
từ nơi tâm thanh tịnh ấy liền được khai ngộ mà không qua đẳng cấp
nào cả. Đây cũng là tinh thần Đốn giáo Đại thừa của kinh. Tuy nhiên,
phần nhiều chúng sanh đời mạt pháp đều thuộc hàng trung-hạ căn, nên
từ hai chướng mà biểu hiện ra năm tánh sau đây:
“Này Thiện nam
tử! Tất cả chúng sanh do gốc tham dục mà phát huy vô minh, hiện ra
năm tánh sai biệt, rồi nương vào hai thứ chướng mà hiện ra có sâu
cạn”: Năm tánh của chúng sanh là Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát,
Bất định và Ngoại đạo tánh. Từ gốc tham dục sẵn có mà phát huy vô
minh, hiện ra năm tánh. Năm tánh này sai biệt không đồng nhau do hai
thứ chướng là Phiền não chướng và Sở tri chướng.
Có thể chúng ta sẽ
thắc mắc: Vì sao Phật cũng gọi Bồ tát là “chúng sanh”? Thật ra,
chúng sanh có ba ý nghĩa:
- Phàm phu còn vô
minh, lưu chuyển trong luân hồi sanh tử.
- Các hàng Bồ tát
còn biến dịch sanh tử, nên đối với Phật quả, các vị này vẫn còn là
chúng sanh.
- Các hình tướng do
nhiều pháp hợp lại mà có. Trong ý nghĩa này, Báo thân và Ứng hóa
thân của Phật cũng được gọi là chúng sanh, vì do công đức và trí huệ
tập hợp lại mà thành.
“Hai chướng là
gì? - Một là Lý chướng, ngăn ngại Chánh tri kiến; hai là Sự chướng,
làm tiếp tục sanh tử luân hồi”: Lý chướng là chỉ cho Sở tri
chướng, do chấp pháp mà có. Chấp có sanh tử thật, có Niết-bàn thật,
nên sự thấy biết chưa thấu triệt, tột cùng, làm chướng ngại Chân
trí, nên Phật bảo “Lý chướng ngăn ngại Chánh tri kiến”. Sự
chướng tức Phiền não chướng, do chấp ngã mà có. Chấp ngã là Si, do
Si mới có Tham, nếu lòng tham không được thỏa mãn thì sanh Sân.
Tham-Sân-Si dấy khởi gây chướng ngại sự giải thoát, làm sanh tử tiếp
nối không cùng.
“Năm tánh là gì?
- Này Thiện nam tử! Nếu hai chướng ấy chưa đoạn trừ, thì chưa thành
Phật. Nếu các chúng sanh bỏ được tham dục, trước trừ được Sự chướng
mà chưa đoạn được Lý chướng, thì chỉ có thể ngộ nhập được cảnh giới
Thinh văn và Duyên giác, chứ chưa thể an trụ trong cảnh giới Bồ tát”:
Trước tiên nói về hai tánh Thinh văn và Duyên giác, thường được gọi
là Nhị thừa tánh. Các vị ấy xả được tham dục do đã phá ngã chấp, rồi
khởi tưởng Niết-bàn. Nhưng kỳ thực, đó chỉ là Hóa thành chớ chưa
phải Niết-bàn rốt ráo, vì chưa phá được pháp chấp; nên nói trừ được
Sự chướng mà chưa đoạn Lý chướng. Cảnh giới của các vị, nếu tu theo
Tứ đế là Thinh văn tánh, nếu tu theo Mười hai nhân duyên là Duyên
giác tánh, cả hai đều chưa thể an trụ trong cảnh giới Bồ tát.
“Này Thiện nam
tử! Nếu tất cả chúng sanh đời mạt pháp, muốn dạo chơi trong biển Đại
Viên Giác của Như Lai, trước tiên phải phát nguyện siêng đoạn được
hai chướng. Hai chướng đã nép phục rồi, liền được ngộ nhập cảnh giới
Bồ tát”: Đây nói đến Bồ tát tánh, là tánh thứ ba trong năm tánh
của chúng sanh. Muốn dạo chơi nơi biển Đại Viên Giác của Như Lai,
tức muốn cầu Viên Giác, chúng sanh phải qua hai giai đoạn: Giai đoạn
đầu là phát nguyện siêng đoạn phiền não chướng và sở tri chướng,
nhưng hai chướng chỉ mới nép phục chứ chưa đoạn tận. Đây là quá
trình từ chúng sanh tiến lên Phật vị, nên gọi là ngộ nhập cảnh giới
Bồ tát.
“Nếu Sự - Lý
chướng hằng đoạn dứt, liền ngộ nhập Viên Giác nhiệm mầu của Như Lai,
đầy đủ Đạo Bồ đề và Đại Niết-bàn”: Giai đoạn thứ hai, cả Sự
chướng và Lý chướng đã đoạn diệt. Sự chướng tức Phiền não chướng
đoạn trừ thì giải thoát khỏi sanh tử, đầy đủ Đại Niết-bàn tức
Niết-bàn tối thượng. Lý chướng tức Sở tri chướng đoạn tận nghĩa là
đầy đủ Đạo Bồ đề. Bồ tát tu hành viên mãn đến chỗ cứu cánh, gọi là
ngộ nhập Viên Giác nhiệm mầu của Như Lai.
“Này Thiện nam
tử! Tất cả chúng sanh đều chứng Viên Giác, gặp Thiện tri thức, rồi y
nơi Nhơn địa pháp hạnh của vị đó đã thực hành mà tu tập, liền có đốn
và tiệm.Nếu gặp được con đường tu hành chơn chánh Vô thượng Bồ đề
của Như Lai, căn cơ của họ vốn không lớn nhỏ, đều thành Phật quả”:
Đức Phật nói về tánh thứ tư là Bất định tánh. Những chúng sanh này
đã biết mình có sẵn tánh Viên Giác, muốn cầu Thiện tri thức chỉ dạy
con đường tu tập để ngộ nhập tự tánh. Tùy theo sự giáo hóa của thầy
mà căn cơ của họ trở thành lớn hay nhỏ, đốn hay tiệm. Nếu gặp con
đường chơn chánh Vô thượng Bồ đề, thì đều được viên thành Phật quả.
Điều này cho thấy vị thầy rất quan trọng, cho nên những người phát
tâm cầu Phật đạo, phải thật cẩn trọng khi lựa chọn thầy bạn.
“Nếu chúng sanh
tuy cầu bạn tốt mà gặp người tà kiến, chưa được chánh ngộ, như thế
gọi là Ngoại-đạo-chủng-tánh. Sự lỗi lầm ấy là do thầy tà, không phải
lỗi ở chúng sanh”: Tánh thứ năm là Ngoại đạo chủng tánh, chỉ cho
những chúng sanh muốn tu hành mà không may gặp người tà kiến. Bao
nhiêu công phu tu tập lại theo tà pháp nên không thể vào được chánh
đạo.
Chúng ta thấy, các
hạng thuộc Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát tánh, tuy căn cơ không
đồng nhưng đều là chánh ngộ, nên vẫn có ngày viên mãn Phật quả.
Ngược lại, hạng Ngoại đạo chủng tánh lại trái ngược với chánh nhơn
thành Phật, nên càng tu càng xa rời chánh đạo. Trên thế giới hiện
nay có rất nhiều giáo phái, nhiều người lãnh đạo tự
xưng mình là Phật, là Bồ tát để lôi kéo
tín đồ, đưa họ vào đường tà, không biết ngày nào thoát ra được. Đó
là do người có tâm cầu đạo nhưng không có chánh kiến, gặp phải tà sư
nên đi lầm vào con đường hiểm ác, chứ không phải do ý muốn của họ.
“Đó gọi là năm
tánh sai biệt của chúng sanh”: Đức
Phật kết luận về năm tánh sai biệt. Sự sai biệt này căn cứ vào sự
đoạn trừ hai chướng và vào nhơn duyên thầy bạn, không phải căn cứ
vào chủng tử có sẵn của mỗi chúng sanh.
“Này Thiện nam
tử! Bồ tát chỉ dùng sức Đại bi phương tiện mà vào thế gian, dạy bảo
cho người chưa ngộ, cho đến thị hiện nhiều thứ hình tướng, cảnh giới
thuận nghịch, cùng họ đồng sự, khiến họ được thành Phật, ấy đều do
nguyện lực thanh tịnh từ vô thỉ”. Ở
đoạn này, Đức Phật trả lời câu hỏi thứ tư của Bồ tát Di Lặc, Bồ tát
khi vào trần lao độ chúng sanh, phải thiết lập bao nhiêu phương tiện
giáo hóa. Phật dạy, Bồ tát vào thế gian độ sanh chỉ dùng tâm đại bi
làm chủ, còn phương tiện giáo hóa thì có nhiều, tùy căn cơ trình độ
của chúng sanh: hoặc dùng lời nói dạy bảo, hoặc thị hiện các thứ
hình tướng, hoặc tu theo thuận hạnh hay nghịch hạnh, hoặc cùng chúng
sanh đồng sự để nhiếp hóa. Tất cả phương tiện đều chỉ có một mục
đích, xuất phát từ đại nguyện của Bồ tát: giúp cho chúng sanh trọn
thành Phật quả.
Trong nhà Thiền có
truyền tụng một bài thơ rất hay, trong đó có hai câu:
“ Tóc bạc đầy đầu
lìa hang núi
Đêm tối xuyên mây
vào xóm làng”.
“Tóc bạc đầy đầu”
chỉ cho người đã có kinh nghiệm tu chứng rất sâu, nhưng vì đại bi
đại nguyện, các Ngài phải rời chỗ an vui giải thoát tuyệt cùng (hang
núi) là Đại Niết-bàn, lăn lộn vào chốn trần lao. “Đêm tối” ám
chỉ cảnh giới chúng sanh vô minh; các Ngài xuyên mây vô minh vào xóm
làng ngũ dục lục trần để giáo hóa chúng sanh. Thực ra, các Ngài đã
đạt được Du hí Tam muội, vào các chốn trần lao như dạo chơi trong
hoa viên, không bị bụi trần làm ô nhiễm, như hoa sen từ trong bùn
nhơ mà vươn lên, tỏa hương thơm ngát.
“Nếu tất cả chúng
sanh đời mạt pháp đối với Đại Viên Giác mà khởi tâm tăng thượng,
phải phát đại nguyện thanh tịnh của Bồ tát”: Tâm tăng thượng là
tâm luôn tăng tiến và hướng thượng, ngày càng lớn rộng, không bao
giờ ngừng nghỉ cần cầu quả vị Phật. Khi đã khởi tâm tăng thượng,
chúng sanh phải phát đại nguyện thanh tịnh của Bồ tát.
“Khi phát đại
nguyện, nên nói như vầy: Con nguyện ngày nay trụ nơi Viên Giác của
Phật, cầu Thiện-tri-thức, không gặp ngoại đạo và hàng Nhị thừa, y
nguyện tu hành, đoạn dần các chướng. Các chướng đã hết, nguyện được
viên mãn, được lên pháp điện thanh tịnh giải thoát, và chứng Đại
Viên Giác thành diệu trang nghiêm”: Đây là lời phát nguyện,
nguyện chỉ thành Phật chứ không thành Thanh văn, Duyên giác hay
Quyền thừa Bồ tát. Nguyện gặp Thiện tri thức chỉ dạy cho chánh pháp
tu hành, không gặp cả Nhị thừa lẫn ngoại đạo. Khi phát đại nguyện
rồi, phải y theo nguyện khởi tu, lần lần đoạn trừ các chướng. Khi
các chướng đã diệt tận, liền được giải thoát; lúc nguyện viên mãn,
liền được trang nghiêm, cho nên Phật bảo “Được lên pháp điện
thanh tịnh giải thoát, và chứng Đại Viên Giác thành diệu trang
nghiêm”.
“Bấy giờ, Đức Thế
Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa trên nên nói kệ rằng :
Di Lặc, ông nên
biết!
Tất cả các chúng
sanh
Không được Đại
giải thoát
Đều do nơi tham
dục
Đọa lạc trong
sanh tử.
Nếu đoạn được ái
dục
Và cả
tham-sân-si,
Không nhơn tánh
sai biệt,
Đều được thành
Phật đạo.
Hai chướng hằng
tiêu diệt
Cầu thầy được
chánh ngộ,
Tùy thuận nguyện
Bồ tát,
Nương nhờ Đại
Niết-bàn.
Các Bồ tát mười
phương
Đều vì nguyện Đại
bi
Thị hiện vào sanh
tử.
Người hiện tại tu
hành
Và chúng sanh đời
mạt
Siêng đoạn các ái
kiến
Liền được Đại
Viên Giác”.
Thế nào là “ái
kiến”? - Mê sự gọi là Ái, mê lý gọi là Kiến. Mê sự là Phiền não
chướng, mê lý là Sở tri chướng. Phiền não chướng ngăn lấp Niết-bàn,
Sở tri chướng ngăn lấp trí huệ. Hành giả đoạn trừ được cả hai chướng
này, liền trở về với Đại Viên Giác của chính mình.
Ở đây, chúng ta cần
hiểu rõ tinh thần của Bồ tát. Bồ tát luôn luôn vận dụng đạo đức vô
hành để nhập thế độ sanh. Vì sao gọi là “đạo đức vô hành”?
Đây là công hạnh của một vị Bồ tát, giáo hóa tất cả chúng sanh mà
không kể công, không tính toán.Làm tất cả mà không thấy có người
làm, có đối tượng làm và có pháp để làm. Vì làm mà không kể công nên
kết quả không thể nghĩ bàn. Bỏ tất cả nên được tất cả, đó là điều kỳ
diệu. Đạo đức vô hành của Bồ tát là vận dụng trí tuệ xuất trần của
mình giúp ích cho chúng sanh, giống như mặt trời chan rải ánh sáng,
đem lại sự sống cho muôn loài; làm với tâm hoàn toàn thanh tịnh, vô
sở cầu. Nếu có hoài bão thì đó là mong sao cho chúng sanh bớt khổ
được vui, cuối cùng giải thoát khỏi luân hồi. Vì vậy, Bồ tát mới có
thể đầy đủ phước báo và trí huệ, tiến đến Phật vị. Nếu chỉ có huệ mà
không có phước thì chỉ thành A la hán. Nếu có phước mà không có huệ
thì chỉ là chúng sanh có nhiều phước báo mà thôi. Kinh nói “Phước
huệ trang nghiêm phương tác Phật”, phước và huệ trang nghiêm mới
làm Phật được. Cho nên, Bồ tát vĩnh viễn ở trong luân hồi, vĩnh viễn
lăn lộn vào các cõi để độ sanh, và cũng vĩnh viễn an trụ trong Đại
Niết-bàn. Nhà Thiền có câu :
Trúc ảnh tảo giai
trần bất động
Nguyệt luân xuyên
hải thủy vô ngân.
Tạm dịch :
Bóng trúc quét
sân trần chẳng động
Vầng trăng xuyên
biển nước không chao.
“Bóng trúc”
là ý-sanh-thân của Bồ tát, các Ngài đi vào trần lao nhưng không làm
động một mảy trần, ăn cơm mà miệng không dính một hạt gạo, mặc áo mà
không dính một tấc tơ. Bóng trúc quét lên sân không làm bụi dưới đất
bị động, Bồ tát ở trong trần độ sanh mà tâm không một chút nhiễm nhơ.
Vầng trăng in bóng trên mặt biển, thấy dường như trăng xuyên xuống
biển sâu nhưng không làm nước biển chao động, như Bồ tát làm an lạc
cho chúng sanh nhưng hững hờ với tất cả. Vì hững hờ nên có chí xung
thiên, đôi khi dám phiêu lưu, dọc ngang trời đất, dám làm dám chịu.
Bồ tát lấy trời đất làm nhà, bốn biển đều là anh em, khi thì du sơn
ngoạn thủy, lúc an trụ ở một trú xứ cố định. Các Ngài hiểu rằng,
hành pháp độ sanh mới viên mãn Phật quả. Có Bồ tát dạy bảo, chúng
sanh mới biết đường tu hành; ngược lại, chúng sanh là đối tượng cần
thiết cho Bồ tát tròn bản nguyện Giác tha. Các Ngài thấy rõ, mình
không phải là người ban ơn và chúng sanh là kẻ chịu ơn, nên khớp với
tinh thần Ba-la-mật là vô trú, vô trước, vô nhiễm. Chính Ba-la-mật
là đại hạnh, là mật hạnh của Bồ tát.
Lại nữa, Bồ tát luôn chuẩn bị cho mình một trí tuệ siêu xuất. Từ trí
tuệ đó, các Ngài không phân biệt ta và người, nên phát triển lòng từ
bi tự nhiên. Với lòng từ bi, các Ngài vận dụng mọi phương tiện thiện
xảo, tùy căn cơ, tùy hoàn cảnh mà cứu giúp chúng sanh một cách hiệu
quả nhất. Có thể nói, trí tuệ siêu xuất, lòng từ bi vô hạn và phương
tiện thiện xảo, ba yếu tố này dựng lập nên công hạnh của Bồ tát và
sinh hoạt nhịp nhàng trong nhân cách của các Ngài.
~~oOo~~