IV-
CHƯƠNG PHỔ NHÃN
Lúc bấy giờ, Bồ tát Phổ Nhãn ở trong đại chúng,
liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba
vòng, quì dài chắp tay mà bạch Phật rằng: “Đức Đại-bi Thế Tôn!
Nguyện Ngài vì chúng Bồ tát đến trong hội này, và vì tất cả chúng
sanh đời mạt pháp mà diễn nói thứ lớp tu hành của Bồ tát. Làm sao tư
duy? Làm sao trụ trì? Chúng sanh chưa ngộ, dùng phương tiện gì để
khiến cho tất cả được khai ngộ? Bạch Thế Tôn! Nếu chúng sanh kia
không dùng đến phương tiện chân chánh và tư duy chân chánh, một khi
nghe Như Lai nói về Tam muội, tâm sanh mờ mịt, thì đối với Viên Giác
không ngộ nhập được. Vậy xin Ngài khởi tâm từ bi, vì bọn chúng con
cùng chúng sanh đời mạt pháp mà giả lập phương tiện”. Nói lời ấy rồi,
năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại như vậy ba lần.
Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Phổ Nhãn rằng:
“Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Các ông mới có thể vì các hàng
Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp mà hỏi Như Lai về thứ lớp tu hành,
tư duy, trụ trì, cho đến thiết lập nhiều thứ phương tiện. Ông hãy
lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói”. Lúc ấy, Bồ tát Phổ Nhãn vui mừng
vâng theo lời dạy của Phật, cùng cả đại chúng lắng sâu tâm thức
chuẩn bị nghe.
“Này Thiện nam tử! Các tân học Bồ tát và chúng
sanh đời mạt pháp, muốn cầu tâm Viên Giác thanh tịnh của Như Lai,
phải chánh niệm xa lìa các huyễn.
Trước tiên, phải nương vào hạnh Xa-ma-tha của Như
Lai, giữ gìn cấm giới, sắp xếp đồ chúng cho an ổn, yên ngồi trong
tịnh thất. Rồi phải thường xuyên nhớ nghĩ đến điều này: Thân tướng
của ta hôm nay do tứ đại hòa hợp. Đó là: lông, tóc, móng, răng, da,
thịt, gân, xương, tủy, não và những chất bẩn, đều thuộc về ĐẤT; Nước
miếng, nước mũi, máu mủ, nước dãi, nước bọt, đờm, nước mắt, tinh
khí, nước tiểu, đều thuộc về NƯỚC; Hơi ấm thuộc về LỬA; Chuyển động
thuộc về GIÓ; Khi bốn đại chia lìa, vọng thân hôm nay hiện ở chỗ
nào? Như vậy liền biết, cuối cùng thân này không có tự thể, do hòa
hợp mà có tướng, thật đồng với huyễn hóa.
Bốn duyên giả hợp vọng có sáu căn. Sáu căn, bốn
đại, trong ngoài hợp thành, vọng có Duyên khí. Trong ấy tích tụ như
có Duyên tướng giả gọi là Tâm.
Này Thiện nam tử! Tâm hư vọng này, nếu không có
sáu trần thì cũng không thể có. Khi tứ đại phân lìa thì không một
mảy trần nào có thể tìm được. Khi Duyên-Trần đều tan mất, cuối cùng
cũng không có Duyên-tâm có thể thấy được.
Này Thiện nam tử! Những chúng sanh kia, vì
huyễn-thân diệt nên huyễn-tâm cũng diệt. Vì huyễn tâm diệt, nên
huyễn trần cũng diệt. Vì huyễn trần diệt, nên huyễn diệt cũng diệt.
Vì huyễn diệt diệt, nên cái Phi-huyễn chẳng diệt. Ví như lau gương,
bụi hết sáng hiện.
Này Thiện nam tử! Phải biết thân tâm đều là huyễn
cấu, tướng cấu hằng dứt thì mười phương thanh tịnh.
Này Thiện nam tử! Ví như bảo châu Ma ni thanh
tịnh ánh ra năm màu, tùy phương mà hiển hiện. Những người mê muội
cho rằng ngọc Ma ni thật có năm màu.
Này Thiện nam tử! Cũng vậy, tánh thanh tịnh của
Viên Giác hiện ra thân tâm, tùy loài mà ứng hiện. Những người mê
muội cho tánh Viên Giác thanh tịnh thật có tự tướng thân tâm như
thế, nên không xa lìa được huyễn hóa. Thế nên, ta nói thân tâm là
huyễn cấu. Đối với người lìa được huyễn cấu, ta gọi là Bồ tát. Khi
cấu hết đối trừ, tức không còn đối cấu và cũng không còn tên gọi.
Này Thiện nam tử! Những Bồ tát này và chúng sanh
đời mạt pháp, khi chứng được các huyễn tận diệt, lúc bấy giờ liền
được thanh tịnh không giới hạn, trùm khắp hư không vô biên. Khi tánh
giác tròn sáng, hiển tâm được thanh tịnh. Vì hiển tâm thanh tịnh,
nên thấy trần được thanh tịnh. Vì thấy trần thanh tịnh, nên Nhãn căn
được thanh tịnh. Vì Nhãn căn thanh tịnh, nên Nhãn thức được thanh
tịnh. Vì Thức thanh tịnh, nên nghe tiếng được thanh tịnh.Vì nghe
tiếng thanh tịnh, nên Nhĩ căn được thanh tịnh. Vì Nhĩ căn thanh
tịnh, nên Nhĩ thức được thanh tịnh. Vì Thức thanh tịnh, nên Giác
trần được thanh tịnh. Như thế cho đến mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại
như vậy.
Này Thiện nam tử! Vì căn thanh tịnh nên Sắc trần
được thanh tịnh. Vì Sắc trần thanh tịnh, nên Thanh trần được thanh
tịnh. Hương, vị, xúc, pháp cũng lại như vậy.
Này Thiện nam tử! Vì sáu trần thanh tịnh, nên Địa
đại được thanh tịnh. Vì Địa đại thanh tịnh, nên Thủy đại được thanh
tịnh. Hỏa đại, Phong đại cũng lại như vậy.
Này Thiện nam tử! Vì bốn đại thanh tịnh, nên Mười
hai xứ, Mười tám giới, Hai mươi lăm cõi đều được thanh tịnh.
Vì những pháp kia thanh tịnh, nên Thập lực, Tứ vô
sở úy, Tứ vô ngại trí, Mười tám pháp bất cộng của Phật và Ba mươi
bảy phẩm trợ đạo đều được thanh tịnh. Như thế cho đến tám vạn bốn
ngàn môn Đà-la-ni, tất cả đều được thanh tịnh.
Này Thiện nam tử! Vì tánh của tất cả Thật tướng
đều thanh tịnh, nên một thân được thanh tịnh. Vì một thân thanh
tịnh, nên nhiều thân được thanh tịnh. Vì nhiều thân thanh tịnh, như
thế cho đến tánh Viên Giác của chúng sanh trong mười phương đều được
thanh tịnh.
Này Thiện nam tử! Vì một thế giới thanh tịnh, nên
nhiều thế giới được thanh tịnh. Vì nhiều thế giới thanh tịnh, như
thế cho đến tận cùng khắp hư không, tròn đầy trong ba đời, tất cả
đều bình đẳng, thanh tịnh bất động.
Này Thiện nam tử! Hư không bình đẳng bất động như
thế, nên phải biết Giác tánh bình đẳng bất động. Vì tứ đại bất động,
nên phải biết Giác tánh bình đẳng bất động. Như thế cho đến tám vạn
bốn ngàn môn Đà-la-ni bình đẳng bất động, nên biết Giác-tánh bình
đẳng bất động.
Này Thiện nam tử! Vì Giác-tánh cùng khắp, thanh
tịnh bất động, tròn đầy không có giới hạn, nên phải biết sáu căn
cùng khắp pháp giới. Vì Căn cùng khắp, nên phải biết sáu trần cùng
khắp pháp giới. Vì Trần cùng khắp, nên phải biết Tứ đại cũng cùng
khắp pháp giới; như thế cho đến môn Đà-la-ni cũng cùng khắp pháp
giới.
Này Thiện nam tử! Do tánh Diệu-giác kia cùng
khắp, nên Căn-tánh Trần-tánh không hoại không tạp. Vì Căn-Trần không
hoại, như thế cho đến môn Đà-la-ni không hoại không tạp. Ví như trăm
ngàn ngọn đèn chiếu sáng trong một căn nhà, ánh sáng kia soi cùng
khắp, không hoại không tạp.
Này Thiện nam tử! Vì Giác-ngộ được thành tựu, nên
biết Bồ tát không cùng với pháp trói buộc, không cầu pháp giải
thoát, chẳng chán sanh tử, chẳng ưa Niết bàn; không kính người trì
giới, không ghét người phá giới; không trọng người tu lâu, không
khinh người mới học. Vì cớ sao? - Vì tất cả đều là Giác-tánh. Ví như
con mắt sáng thấy rõ cảnh trước mắt, ánh sáng kia viên mãn không có
ưa ghét. Vì sao? - Vì thể của ánh sáng không hai, nên không có sự ưa
ghét.
Này Thiện nam tử! Những hàng Bồ tát đây và chúng
sanh đời mạt pháp tu tập tâm này được thành tựu, thì ở đây, không tu
cũng không thành tựu. Tánh Viên Giác chiếu sáng cùng khắp, tịch diệt
không có hai tướng. Ở trong đó, trăm ngàn muôn ức A-tăng-kỳ thế giới
của Phật như số cát sông Hằng, không thể đếm hết, giống như hoa đốm
trong hư không, loạn khởi và loạn diệt, chẳng tức chẳng ly, không
trói buộc cũng không giải thoát. Từ đó mới biết, tất cả chúng sanh
xưa nay đã thành Phật, sanh tử - Niết bàn chỉ là giấc mộng đêm qua.
Này Thiện nam tử! Vì như giấc mộng đêm qua, nên
phải biết sanh tử và Niết bàn không khởi không diệt, không đến không
đi. Nơi cảnh sở chứng, không được không mất, không lấy không bỏ. Nơi
người năng chứng, không Tác không Chỉ, không Nhậm không Diệt. Ở
trong cảnh giới chứng ngộ này, không còn tướng năng sở, rốt ráo
không có cảnh chứng cũng
không có người chứng. Tất cả pháp tánh
bình đẳng không hoại.
Này Thiện nam tử! Các Bồ tát kia tu hành như thế,
thứ lớp như thế, tư duy như thế, trụ trì như thế, phương tiện như
thế, khai ngộ như thế, cầu pháp như thế, không còn mê muội nữa”.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa
này, nên nói kệ rằng :
Phổ Nhãn! Ông nên biết,
Tất cả các chúng sanh
Thân tâm đều như huyễn.
Thân tướng thuộc bốn đại,
Tâm tánh thuộc sáu trần
Bốn đại mỗi xa lìa,
Cái gì là hòa hợp?
Thứ lớp tu như thế
Tất cả đều thanh tịnh,
Bất động khắp pháp giới.
Không Tác, Chỉ, Nhậm, Diệt,
Cũng không người năng chứng.
Tất cả thế giới Phật
Giống như hoa hư không,
Ba đời đều bình đẳng,
Rốt ráo không đến, đi.
Bồ tát sơ phát tâm
Và chúng sanh đời mạt
Muốn cầu vào Phật đạo
Phải tu hành như thị.
Trong chương này, Bồ tát Phổ Nhãn vì lòng từ bi, đứng lên thưa hỏi
Phật về phương tiện tu hành thứ lớp, để các Bồ tát sơ phát tâm và
chúng sanh đời mạt pháp nương theo tu tập, cuối cùng cũng có thể
giác ngộ tánh Viên Giác. Phần lý luận ở đây rất chi ly, khúc chiết,
vì Phật giảng về các pháp phương tiện. Chúng ta thấy, khi nói về
pháp trực chỉ, Phật giảng một cách rất đơn giản, ít lý luận; còn khi
đã mang màu sắc lý luận là đã dùng phương tiện chỉ dạy cho những
người có căn cơ thấp. Như ở chương Văn Thù, câu chỉ đạo cho toàn
chương là “Tri thị không hoa tức vô lưu chuyển, Diệc vô thân tâm
thọ bỉ sanh tử”, tức chỉ gồm một chữ Biết; đó là dành cho hàng
Bồ tát đốn siêu đốn ngộ, các bậc thượng thượng căn. Trong chương Phổ
Hiền, câu chỉ đạo là “Tri huyễn tức ly, bất tác phương tiện; Ly
huyễn tức giác, diệc vô tiệm thứ”, nghĩa là cũng dùng chữ Biết,
nhưng là Biết Huyễn; dành cho các Địa thượng Bồ tát, các bậc thượng
căn, dùng thiền định làm phương tiện. Ở chương Phổ Nhãn này, Phật
lại hạ xuống một bậc nữa, giảng về pháp tư duy, pháp trụ trì...,
dành cho các Sơ tâm Bồ tát.
Chúng ta thấy, giữa các chương có sự sắp xếp rất nhịp nhàng và mạch
lạc. Chương Văn Thù nói về trí, chương Phổ Hiền nói về hạnh, chương
Phổ Nhãn lại tiếp tục giảng về hạnh. Trí tuệ kết hợp với từ bi, trí
hạnh cùng tiến thì quả Bồ đề mới viên thành. Lúc đó, cái Thấy trùm
khắp pháp giới thanh tịnh. Nhờ cái Thấy này, Bồ tát mới hiểu được
căn tánh của tất cả chúng sanh hữu tình, mới thiết lập được nhiều
phương tiện để nhổ đinh tháo chốt, mới chiều uốn theo tánh dục của
chúng sanh hóa độ muôn loài. Đó là ý nghĩa hai chữ Phổ Nhãn.
“Lúc
bấy giờ, Bồ tát Phổ Nhãn ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quì dài chắp
tay mà bạch Phật rằng”: Đây là nghi thức thưa thỉnh chung.
“Đức
Đại bi Thế Tôn! Nguyện Ngài vì chúng Bồ tát đến trong hội này, và vì
tất cả chúng sanh đời mạt pháp mà diễn nói thứ lớp tu hành của Bồ
tát”: Muốn hiểu được ý nghĩa của toàn chương, chúng ta cần hiểu
kỹ lời thưa thỉnh của vị Bồ tát xuất hiện trong chương đó. Câu hỏi
đầu tiên của Ngài Phổ Nhãn, là mong Đức Phật vì các hàng Bồ tát
trong pháp hội và chúng sanh đời mạt pháp mà nói về những phương
tiện tu hành tiệm thứ. Ngài không đề cập đến người tu Đại thừa như
các chương trước, đó là vì muốn lợi ích cho kẻ sơ tâm và các hàng
trung hạ căn.
“Làm
sao tư duy?”: Đây là câu hỏi thứ hai. Chúng sanh có căn cơ thấp,
không thể trực nhận tánh Viên Giác và lý Như huyễn, phải vận dụng
trí năng để hiểu và tin mình cũng có tự tâm Viên Giác. Câu hỏi này
rất phù hợp với trình độ của chúng ta hiện nay.
“Làm
sao trụ trì?”: Đây là vấn đề thứ ba. Hai chữ “trụ trì”
rất có ý nghĩa. Thông thường, trụ trì là Trụ pháp vương gia, Trì
Như Lai tạng; nhưng ở đây, Trụ nghĩa là an trụ vào tự tâm
Viên Giác, Trì là giữ gìn tự tâm ấy.
“Chúng
sanh chưa ngộ, dùng phương tiện gì để khiến cho tất cả được khai
ngộ?”: Nguyên vì ở hai chương trước chỉ đặt một vấn đề BIẾT,
nhất thời đốn chứng không theo thứ lớp tu hành, chỉ phù hợp với các
bậc thượng-thượng-căn và thượng-căn mà thôi. Trong đời mạt pháp,
chúng sanh ở hàng trung hạ căn thì nhiều, nếu chưa ngộ tự tánh Viên
Giác, phải dùng phương tiện gì để được khai ngộ.
“Bạch
Thế Tôn! Nếu chúng sanh kia không dùng đến phương tiện chân chánh và
tư duy chân chánh, một khi nghe Như Lai nói về Tam muội, tâm sanh mờ
mịt, thì đối với Viên Giác không ngộ nhập được. Vậy xin Ngài khởi
tâm từ bi, vì bọn chúng con cùng chúng sanh đời mạt pháp mà giả lập
phương tiện”: “Chánh phương tiện” là phương tiện tu hành
chơn chánh để khỏi rơi vào đoạn diệt, vào tử thủy, vào cảnh trầm
không trệ tịch; là phương tiện nhưng vẫn nhờ đó để về được Bảo sở.
“Chánh tư duy” là thấm nhuần các pháp Đại thừa, tu pháp Đại
thừa để cuối cùng ngộ nhập Viên Giác. “Phương tiện” là phương
pháp tiện lợi, có ý nghĩa tức thời ngay trong một hoàn cảnh nào đó,
dùng xong rồi bỏ, như nhờ bè để qua sông, đến bờ phải bỏ bè. Ngài
Phổ Nhãn thỉnh Phật “giả lập phương tiện” để chúng sanh nương
vào phương tiện tu tập, khi đạt đến cứu cánh thì không chấp vào
phương tiện ấy nữa, đúng theo tinh thần của kinh Kim Cang “Pháp
thượng ưng xả hà huống phi pháp” (Pháp còn nên bỏ, huống là phi
pháp).
“Nói
lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại như vậy ba
lần.
Khi
ấy, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Phổ Nhãn rằng: “Lành thay! Lành thay!
Thiện nam tử! Các ông mới có thể vì các hàng Bồ tát và chúng sanh
đời mạt pháp mà hỏi Như Lai về thứ lớp tu hành, tư duy, trụ trì, cho
đến thiết lập nhiều thứ phương tiện. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông
mà nói”. Lúc ấy, Bồ tát Phổ Nhãn vui mừng vâng theo lời dạy của
Phật, cùng cả đại chúng lắng sâu tâm thức chuẩn bị nghe”: Đức
Phật hứa khả sẽ trả lời ba vấn đề mà Bồ tát Phổ Nhãn đã nêu: Tư
duy, Trụ trì và giả lập phương tiện.
“Này
Thiện nam tử! Các tân học Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp, muốn
cầu tâm Viên Giác thanh tịnh của Như Lai, phải chánh niệm xa lìa các
huyễn”: Đức Phật nhắc lại về Huyễn cho các vị mới tập tu theo Bồ
tát đạo và cho chúng sanh đời mạt pháp. Muốn cầu tâm Viên Giác,
trước tiên phải chánh niệm. Chánh niệm nghĩa là gom tâm mình vào một
đối tượng, một đề mục nào đó để quán sát nó, cho nên Chánh niệm đi
theo quán niệm. Tất cả pháp môn của Phật đều lấy Chánh niệm làm căn
bản, đó là chìa khóa của sự học Phật, tu Phật. Nói theo nhà Thiền
thì Chánh niệm là căn bản của Thiền-tập. Ở đây, Phật dạy, dùng Chánh
niệm để xa lìa các huyễn, vậy Huyễn là đối tượng để ta Chánh niệm.
Khi chánh niệm và quán niệm tất cả các pháp đều là huyễn - nói gọn
là Huyễn thân, Huyễn cảnh, Huyễn tâm, ta có thể nhận ra lý Như
huyễn. Từ đó đạt đến Như Huyễn Tam muội.
“Trước
tiên, phải nương vào hạnh Xa-ma-tha của Như Lai, giữ gìn cấm giới,
sắp xếp đồ chúng cho an ổn, yên ngồi trong tịnh thất”: Muốn nhận
định sâu về các huyễn để thực hiện Chánh niệm xa lìa huyễn, trước
hết phải tu hạnh Xa-ma-tha. Xa-ma-tha là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch
là Chỉ hay Tịch tịnh. Đây là hạnh ở nơi Nhơn địa của chư Phật, nên
gọi là “hạnh Xa-ma-tha của Như Lai”. Nội dung của Xa-ma-tha là dừng
lại mọi vọng động loạn tưởng, biết vọng liền buông hoặc nhiếp tâm
vào hơi thở, ngăn ngừa mọi điều ác bên ngoài và mọi loạn tưởng bên
trong. Cần phân biệt với Chỉ của Tiểu thừa, nên đôi khi trong kinh
điển Đại thừa còn gọi Xa-ma-tha này và Tam-ma-bát-đề trong những
chương sau, gộp chung là Ma-ha-chỉ-quán.
Một điều kiện kế tiếp, là phải kiên cố giữ gìn những giới cấm mà
mình đã thọ. Nếu không giữ giới luật, tâm sẽ loạn động. Nhiều đời
kiếp trôi lăn trong sinh tử, tâm như con trâu điên, nhờ giới luật là
dây vàm buộc mũi mới giữ được trâu khỏi ăn lúa mạ của người.
Ngoài ra, phải xử an đồ chúng. Các vị Bồ tát, dù là Bồ tát sơ phát
tâm, cũng đều có hạnh nguyện tu cho mình và cho người, nên luôn luôn
có đồ chúng đông đảo vây quanh. Phải sắp xếp đồ chúng sao cho yên
ổn, không để họ quấy rầy. Chuẩn bị tất cả mọi việc như trên cho chu
đáo, lúc đó mới an ổn mà nhập thất.
“Rồi
phải thường xuyên nhớ nghĩ đến điều này: Thân tướng của ta hôm nay
do tứ đại hòa hợp. Đó là lông, tóc, móng, răng, da, thịt, gân,
xương, tủy, não và những chất bẩn, đều thuộc về ĐẤT; Nước miếng,
nước mũi, máu mủ, nước dãi, nước bọt, đờm, nước mắt, tinh khí, nước
tiểu, đều thuộc về NƯỚC; Hơi ấm thuộc về LỬA; Chuyển động thuộc về
GIÓ. Khi bốn đại chia lìa, vọng thân hôm nay hiện ở chỗ nào? ”:
Đây là phương tiện Tư duy chơn chánh. Trong kinh Nguyên Thủy có nói,
một vị ngồi quán về Tứ đại giống người bỏ bốn thứ đậu vào trong một
bao lớn. Khi quán xét đến sâu xa, sẽ thấy mỗi thứ một bên, phân biệt
rõ ràng. Ở đây Phật dạy hành giả ngồi yên tu trong tịnh thất, quán
xét phân tích thân thể mình, sẽ thấy những chất cứng thuộc về Đất,
chất lỏng thuộc về Nước, hơi ấm thuộc về Lửa, chuyển động (hơi thở
ra vào, máu huyết lưu thông...) thuộc về Gió. Như vậy, thân mình do
bốn đại tạo thành nên hoàn toàn không có tự thể, khi bốn đại chia
lìa, vọng thân cũng không còn. Phương pháp nầy thật giản đơn nhưng
rất có hiệu quả, giúp hành giả nhận rõ thân mình chỉ là tướng giả
hợp.
“Như
vậy liền biết, cuối cùng thân này không có tự thể, do hòa hợp mà có
tướng, thật đồng với huyễn hóa”: Vì thân này vay mượn các yếu
tố, các điều kiện khác nó để trở thành nó, nên nó là vô thể. Vì vậy,
nó đồng với huyễn hóa. Ở đây khi quán thân, Phật dạy chúng ta hai
giai đoạn: Đầu tiên nhận thấy thân là giả hợp, sau đó thâm nhập lý
Như huyễn.
“Bốn
duyên giả hợp vọng có sáu căn. Sáu căn, bốn đại trong ngoài hợp
thành, vọng có Duyên khí. Trong ấy tích tụ như có Duyên tướng giả
gọi là Tâm”: Đất - nước - gió - lửa giả hợp sinh ra sáu căn là
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không có bốn đại năng tạo thì không có
sáu căn; không có sáu căn cũng không thể có bốn đại sở tạo. Khi bốn
đại bên ngoài và sáu căn bên trong đắp đổi cho nhau; nói cách khác,
khi tứ đại năng tạo bên ngoài và tứ đại sở tạo bên trong hợp với
nhau, vọng sinh ra tập khí nhiều đời, ra cái tâm duyên lự, cái tâm
phân biệt nhị biên. Thứ Duyên khí này tích tụ trong bốn đại và sáu
căn để tạo thành Duyên tướng giả. Người ta gọi đó là Tâm, tức là Đệ
lục ý thức, theo danh từ của Duy thức học.
“Này
Thiện nam tử! Tâm hư vọng này, nếu không có sáu trần thì cũng không
thể có”: Thực ra cái vọng tâm này, nếu không có sáu trần thì làm
gì hiện hữu? Do sáu căn tiếp xúc với sáu trần rồi lưu ảnh vào trong
tàng thức thành những chủng tử (hạt giống). Những hình ảnh ấy sau
này lại hiện ra thành vọng tâm, ta gọi là Chủng tử khởi hiện hạnh.
Nếu cứ ôm ấp mãi hình ảnh kia, tức chấp vọng tâm cho là thật, thì
hiện hạnh huân trở lại chủng tử, lưu giữ lại vào tàng thức. Cứ thế
mãi, không bao giờ cùng.
“Khi
tứ đại phân lìa thì không một mảy trần nào có thể tìm được. Khi
Duyên-trần đều tan mất, cuối cùng cũng không có Duyên-tâm có thể
thấy được”: Duyên-tâm là cái tâm phan duyên theo trần cảnh, nó
duyên sinh từ căn-trần giao thoa. Khi bốn đại sáu căn đó hoại,
Duyên-tâm này sẽ theo nghiệp mà thọ sanh vào thân khác, nên Phật bảo
Duyên-tâm lúc ấy cũng không còn thấy được.
“Này
Thiện nam tử! Những chúng sanh kia, vì huyễn thân diệt nên huyễn tâm
cũng diệt. Vì huyễn tâm diệt nên huyễn trần cũng diệt. Vì huyễn trần
diệt nên huyễn diệt cũng diệt. Vì huyễn diệt diệt nên cái Phi huyễn
chẳng diệt. Ví như lau gương, bụi hết sáng hiện”: Đoạn này có ý
nghĩa rất sâu xa, chúng ta cần lưu ý mới có thể lãnh hội được. Đi
vào công phu thiền định, khi quán xét sâu, ta không còn chấp thân tứ
đại này là thật nữa, lúc này Phật gọi là “huyễn-thân diệt”.
Không chấp vào thân là cảnh sở quán nên cũng không còn chấp vào cái
tâm năng quán, nghĩa là “huyễn-tâm cũng diệt”. Khi buông tâm
năng quán, cũng không còn chấp vào sáu trần bên ngoài, cho nên “huyễn
trần cũng diệt”. Lúc này cả thân-tâm-cảnh ta đều buông vì biết
tất cả đều là huyễn. Tiến thêm một bước, chúng ta hiểu rằng nhờ cái
huyễn-trí ta mới biết thân-tâm-cảnh là huyễn. Cái huyễn trí này chỉ
là dụng của tự tánh, nghĩa là trí-dụng chứ không phải trí-thể, còn
nằm trong sanh diệt, Phật gọi đó là “huyễn diệt”, nên cũng
phải buông luôn. Vì vậy mới nói “Vì huyễn trần diệt nên huyễn
diệt cũng diệt”.
Khi huyễn-trí đã buông sạch, nghĩa là huyễn-diệt đã diệt, vẫn còn
một cái không bao giờ diệt gọi là “Phi-huyễn”. Đây là điểm
then chốt để phân biệt với Niết bàn của Nhị thừa, hay quan niệm đoạn
diệt của những người trầm không trệ tịch. Khi huyễn-thân, huyễn-tâm,
huyễn- trần và cả huyễn-diệt đều diệt, thì sáu căn-sáu trần đều nằm
trong ánh giác, trong tự thể thanh tịnh. Lúc này, nói theo các Thiền
sư: “Trâu đen biến thành trâu trắng, đuổi hoài không đi”. Tự
tâm Viên Giác hiện ra lồ lộ, nên nói “cái Phi-huyễn chẳng diệt”.
Nếu chúng ta nghĩ rằng, khi buông hết tất cả rồi cuối cùng không còn
một cái gì hết, thì đó là lầm to. Chư Phật và chư Bồ tát, khi giác
ngộ được tự tâm, nếu không còn gì thì làm sao các Ngài thổi sức sống
vào cuộc đời nhiêu ích chúng sanh? Nếu không còn gì, thì làm sao từ
bên trong các Ngài lưu xuất thuyết pháp giáo hóa chúng sanh, làm sao
các Ngài có được tư cách quá tuyệt vời, để có thể lăn lộn cùng chúng
sanh trong ba cõi sáu đường mà vẫn an nhiên tự tại? Thật sự, khi
chúng ta quán đến tột cùng rồi buông sạch các vọng chấp cũng như khi
lau sạch bụi trên mặt gương, tự tánh sẽ hiện ra như tánh sáng của
gương bày hiện. Lại cũng như mây che ánh trăng, mây tan thì trăng
hiện; khi quét sạch hết vô minh phiền não, trăng Viên Giác sáng ngời
sẽ tự hiện ra rỡ rỡ.
“Này
Thiện nam tử! Phải biết thân-tâm đều là huyễn cấu, tướng cấu hằng
dứt thì mười phương thanh tịnh”: Đức Phật diễn tả thêm về trạng
thái khi buông sạch hết các chấp huyễn-cấu của thân-tâm. Lúc ấy,
mười phương thanh tịnh được hiện bày, cái Thấy của ta trùm khắp pháp
giới. Vì thế, chương này mới có tên là Phổ Nhãn.
“Này
Thiện nam tử! Ví như bảo châu ma-ni thanh tịnh ánh ra năm màu, tùy
phương mà hiển hiện. Những người mê muội cho rằng ngọc Ma-ni thật có
năm màu”: Phật nói thêm một ví dụ nữa để sáng tỏ vấn đề. Ví như
châu Ma-ni, tự thân nó không có màu sắc, nhưng tùy phương mà hiện ra
năm màu. Vậy màu đó không có thực thể. Những người mê muội chấp cho
năm màu là thật, mà quên đi hòn ngọc.
“Này
Thiện nam tử! Cũng vậy, tánh thanh tịnh của Viên Giác hiện ra
thân-tâm, tùy loài mà ứng hiện. Những người mê muội cho tánh Viên
Giác thanh tịnh thật có tự tướng thân-tâm như thế, nên không xa lìa
được huyễn hóa”: Tự tâm Viên Giác được ví như hòn ngọc Như-ý,
tùy theo nghiệp mà mỗi chúng sanh có một thân-tâm khác nhau. Những
người mê muội chấp vào thân ngũ uẩn cho là mình mà quên đi tự tánh,
cũng như người chấp vào năm màu làm tự thể mà quên đi hòn ngọc. Bồ
tát Quán Tự Tại, khi hành sâu Bát Nhã thấy năm uẩn đều không, liền
nhận ra tự tánh Viên Giác hằng hữu nên vượt hết thảy khổ nạn. Còn
chúng ta cho năm uẩn là thật nên cứ mãi trầm luân.
“Thế
nên, ta nói thân-tâm là huyễn cấu. Đối với người lìa được huyễn cấu,
ta gọi là Bồ tát. Khi cấu hết đối trừ, tức không còn đối cấu và cũng
không còn tên gọi”: Người còn chấp vào huyễn cấu cho là thật,
người đó là chúng sanh; người lìa được huyễn cấu là hữu-tình-giác,
tức Bồ tát. Như vậy, Bồ tát và chúng sanh thật ra chỉ khác ở chỗ đã
ngộ hay còn mê nơi huyễn cấu đó mà thôi. Khi huyễn cấu của năm uẩn
đã hết, cái đối lại cái cấu cũng đã trừ, nghĩa là không còn người
lìa huyễn cấu (năng) và không còn cái cấu để lìa (sở), lúc này không
còn đối cấu và đến chỗ vô ngôn, tức không thể dùng ngôn từ diễn tả
được.
“Này
Thiện nam tử! Những Bồ tát này và chúng sanh đời mạt pháp, khi chứng
được các huyễn tận diệt, lúc bấy giờ liền được thanh tịnh không giới
hạn, trùm khắp hư không vô biên”: Những người xa lìa hết
huyễn-cấu và trừ hết đối trị mà Phật gọi là “những Bồ tát này”, cùng
chúng sanh đời mạt pháp, khi chứng được ảnh tượng các huyễn diệt hết
thì được sự thanh tịnh không cùng. Đây là nói về phần thể của Viên
Giác, rộng lớn trùm khắp hư không vô biên.
“Khi
tánh giác tròn sáng, hiển tâm được thanh tịnh. Vì hiển tâm thanh
tịnh, nên thấy trần được thanh tịnh. Vì thấy trần thanh tịnh, nên
Nhãn căn được thanh tịnh. Vì Nhãn căn thanh tịnh nên Nhãn thức được
thanh tịnh. Vì Thức thanh tịnh, nên cái nghe tiếng được thanh tịnh.
Vì nghe tiếng thanh tịnh, nên Nhĩ căn được thanh tịnh. Vì Nhĩ căn
thanh tịnh, nên Nhĩ thức được thanh tịnh.Vì Thức thanh tịnh, nên
Giác trần được thanh tịnh. Như thế cho đến mũi, lưỡi, thân, ý cũng
lại như vậy”: Kinh Duy - Ma có nói: “Duy kỳ tâm tịnh tắc Phật
độ tịnh”. Khi tâm diệt hết mọi cấu nhiễm, mọi chấp trước phiền
não, trở về trạng thái tịch tĩnh mà hằng tri, thì tất cả sắc đều là
sắc Phật, tất cả tiếng là tiếng Phật. Vì tâm hoàn toàn thanh tịnh
nên tất cả pháp đều thanh tịnh, ứng ra các căn, trần, thức đều thanh
tịnh. Tại sao như thế? - Bởi vì tất cả các pháp đều do tâm sanh ra,
tâm không chỗ sanh thì pháp không chỗ trụ.
Này Thiện nam tử! Vì căn thanh tịnh nên Sắc trần
được thanh tịnh. Vì Sắc trần thanh tịnh, nên Thanh trần được thanh
tịnh. Hương, vị, xúc, pháp cũng lại như vậy.
Này
Thiện nam tử! Vì sáu trần thanh tịnh, nên Địa đại được thanh tịnh.
Vì Địa đại thanh tịnh, nên Thủy đại được thanh tịnh. Hỏa đại, Phong
đại cũng lại như vậy.
Này
Thiện nam tử! Vì bốn đại thanh tịnh, nên Mười hai xứ, Mười tám giới,
Hai mươi lăm cõi đều được thanh tịnh”: Do sáu căn thanh tịnh,
nên đối tượng của chúng là sáu trần cũng thanh tịnh. Do căn trần
thanh tịnh nên cái tạo ra chúng là bốn đại bên ngoài và bốn đại bên
trong đều thanh tịnh. Đây là tinh thần của phẩm Hiện Bảo Tháp trong
kinh Pháp Hoa. Khi nhận ra “Tri kiến Phật” tức tự tánh Viên
Giác, thân thất đại bất tịnh của chúng ta (đất, nước, gió, lửa,
không, kiến, thức) biến thành tháp bảy báu trang nghiêm.
Khi bốn đại thanh tịnh, những cái do chúng tạo thành là Mười hai xứ
(sáu căn và sáu trần), Mười tám giới (6 căn, 6 trần và 6 thức), cho
đến tất cả chỗ nương của chúng sanh tượng trưng bằng Hai mươi lăm
cõi, cũng đều được thanh tịnh.
Giảng xong những pháp hữu vi, bây giờ Phật bắt đầu nói đến các pháp
vô vi :
“Vì
những pháp kia thanh tịnh, nên Thập lực, Tứ vô sở úy, Tứ vô ngại
trí, Mười tám pháp bất cộng của Phật và Ba mươi bảy phẩm trợ đạo đều
được thanh tịnh. Như thế cho đến tám vạn bốn ngàn môn Đà-la-ni, tất
cả đều được thanh tịnh”: Các pháp vô vi lúc này được tâm Viên
Giác thắng tri, nên tất cả cũng được thanh tịnh. Con số tám vạn bốn
ngàn là số tượng trưng. Tám vạn bốn ngàn môn Đà-la-ni để đối trị với
tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não của chúng sanh; nghĩa là, khi
một pháp ngộ thông thì muôn pháp đều được thông tỏ.
“Này
Thiện nam tử! Vì tánh của tất cả Thật tướng đều thanh tịnh, nên một
thân được thanh tịnh. Vì một thân thanh tịnh, nên nhiều thân được
thanh tịnh. Vì nhiều thân thanh tịnh, như thế cho đến tánh Viên Giác
của chúng sanh trong mười phương đều được thanh tịnh”: Do tánh
và tướng đều thanh tịnh nên thân ngũ uẩn cũng được thanh tịnh. Ở
đây, Lý
tánh hiển bày thì tất cả pháp thế gian, xuất thế
gian, cho đến chánh báo y báo của mười phương chúng sanh đều được
thanh tịnh. Khi giác ngộ tánh Viên Giác, hành giả sẽ thấy mọi hàm
linh đều có Phật tánh như nhau. Vì vậy, Bồ tát Thường Bất Khinh gặp
ai cũng đều cung kính thưa rằng: “Tôi không dám khinh các Ngài,
vì các Ngài sẽ thành Phật”.
“Này
Thiện nam tử! Vì một thế giới thanh tịnh, nên nhiều thế giới được
thanh tịnh. Vì nhiều thế giới thanh tịnh, như thế cho đến tận cùng
khắp hư không, tròn đầy trong ba đời, tất cả đều bình đẳng, thanh
tịnh bất động”: Bình đẳng là đứng trên phương diện không gian,
bất động là trên phương diện thời gian mà nói. Tất cả các pháp, tận
cùng khắp hư không, đồng thanh tịnh như nhau không khác; và suốt
trong ba đời đều là thường tịnh.
“Này
Thiện nam tử! Hư không bình đẳng bất động như thế, nên phải biết
Giác tánh bình đẳng bất động. Vì tứ đại bất động nên phải biết Giác
tánh bình đẳng bất động. Như thế cho đến tám vạn bốn ngàn môn
Đà-la-ni bình đẳng bất động, nên phải biết Giác tánh bình đẳng bất
động”: Đây là nhờ Sự mà hiển Lý, từ Tướng mà chỉ ra Tánh. Hư
không, tứ đại cho đến tám vạn bốn ngàn môn Đà-la-ni đều thuộc về
Tướng. Khi tất cả các pháp đều bình đẳng, thanh tịnh bất động, tức
là hợp với Giác tánh bình đẳng bất động.
“Này
Thiện nam tử! Vì Giác tánh cùng khắp, thanh tịnh bất động, tròn đầy
không có giới hạn, nên phải biết sáu căn cùng khắp pháp giới. Vì căn
cùng khắp, nên phải biết sáu trần cùng khắp pháp giới. Vì Trần cùng
khắp, nên phải biết tứ đại cũng cùng khắp pháp giới; như thế cho đến
môn Đà-la-ni cũng cùng khắp pháp giới”: Từ Tánh nhìn ra tướng,
từ Lý nhìn ra Sự. Các pháp trùng trùng duyên khởi, liên hệ chặt chẽ
với nhau, một pháp không ngoài tất cả pháp và ngược lại, tất cả pháp
đều nằm trong một pháp. Đây là ý nghĩa của câu “Tất cả là một,
một là tất cả”. Sáu căn tuy nằm trong một thân tướng, nhưng kỳ
thực nó cũng thuộc về tánh Pháp giới, vì nếu không có tánh Pháp giới
thì sẽ không có sáu căn. Cho nên, sáu căn không lìa tánh Pháp giới
như sóng cũng là nước nên có lìa được nước bao giờ. Khi đã giác ngộ
viên mãn, Giác tánh tròn đầy không giới hạn, hành giả phóng tầm mắt
ra chỗ nào thì chỗ ấy ở trong trạng thái nhất như, trùm khắp mười
phương pháp giới. Nhà Thiền diễn tả trạng thái này bằng hình ảnh “trăm
đầu ngọn cỏ ý Tổ sư” hoặc “trên đầu sợi lông hiển hiện Pháp
thân Tỳ-Lô-Giá-Na-Phật”.
Vì
Căn, Trần, bốn đại cho đến những môn Đà-la-ni đều không lìa Giác
tánh, nên lúc này, tất cả các pháp đều cùng khắp pháp giới. Mỗi pháp
đều cùng
khắp mà vẫn không ngăn ngại nhau, nên mỗi pháp
đều viên mãn không giới hạn.
“Này
Thiện nam tử! Do tánh Diệu-giác kia cùng khắp, nên Căn-tánh
Trần-tánh không hoại không tạp. Vì Căn-Trần không hoại, như thế cho
đến môn Đà-la-ni không hoại không tạp. Ví như trăm ngàn ngọn đèn
chiếu sáng trong một căn nhà, ánh sáng kia soi cùng khắp, không hoại
không tạp”: Hoại là tranh lấn lẫn nhau, như nước với lửa, như
đen với trắng. Tạp là lẫn lộn với nhau, như trộn lẫn gạo với nếp,
cát với đá. Vì tánh Diệu-giác cùng khắp, tròn đầy vô tận, nên tánh
của Căn, Trần và các môn Đà-la-ni không bị hoại và tạp. Ở đây, Phật
chỉ ra lý các pháp dung thông vô ngại, một pháp hiển hiện tất cả
pháp, hiển hiện pháp thân Phật. Một giọt nước khi biết rằng nó chính
là biển, nó sẽ dung thông được tánh ướt của biển. Đây là cảnh giới
bất tư nghì, Tánh-Tướng không hai, rất khó hiểu đối với chúng ta. Vì
vậy, Phật dùng ví dụ một căn nhà được trăm ngàn ngọn đèn chiếu sáng.
Ánh sáng của các ngọn đèn không ngăn ngại lẫn nhau, chúng hòa quyện
vào nhau, giao xen lẫn nhau nhưng không mất vẻ đặc thù của từng
loại.
“Này
Thiện nam tử! Vì giác ngộ được thành tựu, nên biết Bồ tát không cùng
với Pháp trói buộc, không cầu pháp giải thoát, chẳng chán sanh tử,
chẳng ưa Niết bàn; không kính người trì giới, không ghét người phá
giới; không trọng người tu lâu, không khinh người mới học. Vì cớ
sao? - Vì tất cả đều là Giác-tánh. Ví như con mắt sáng thấy rõ cảnh
trước mắt, ánh sáng kia viên mãn không có ưa ghét. Vì sao? - Vì thể
của ánh sáng không hai, nên không có sự ưa ghét”: Phật giảng đến
lý Bất Nhị. Theo thứ lớp quán tu như lời Phật dạy ở trên, đến lúc
thành tựu giác ngộ, thể nhập Giác-tánh thanh tịnh bình đẳng, Bồ tát
thông hiểu các pháp đều không. Các Ngài thấy rõ Sanh tử - Niết bàn,
Trói buộc - Giải thoát, Trì giới - Phạm giới, Tu lâu - Mới học...
đều chỉ là giả danh đối lập. Vì vậy, Bồ tát không trói không mở,
không chán không ưa, không kính không ghét, không trọng không khinh.
Các Ngài thấy tất cả các pháp đều ở trong Giác tánh, bình đẳng không
hai, nên lòng từ bi chan rải đều cho tất cả mọi loài, mới phát đại
nguyện vào tất cả các cõi để hành hạnh Bồ tát tự-lợi lợi-tha.
Ví
dụ như, nhìn cảnh trước mắt bằng đôi mắt sáng. Khi tâm thức chưa
khởi phân biệt, ánh mắt viên mãn, thể của ánh sáng không hai, màu
sắc sẽ tùy cảnh mà hiện, cho nên không có sự ưa ghét.
“Này
Thiện nam tử! Những hàng Bồ tát đây và chúng sanh đời mạt pháp tu
tập tâm này được thành tựu, thì ở đây, không tu cũng không thành
tựu. Tánh Viên Giác chiếu sáng cùng khắp, tịch diệt không có hai
tướng. Ở trong đó, trăm ngàn muôn ức A-tăng-kỳ thế giới của Phật như
số cát sông Hằng, không thể đếm hết, giống như hoa đốm trong hư
không, loạn khởi và loạn diệt, chẳng tức chẳng ly, không trói buộc
cũng không giải thoát. Từ đó mới biết, tất cả chúng sanh xưa nay đã
thành Phật, Sanh tử - Niết bàn chỉ là giấc mộng đêm qua”: Khi
các hàng Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp tu tập tâm Viên Giác
thành công, thì ở trong tâm thanh tịnh này, không còn thấy cái Hạnh
có thể tu, không thấy cái Quả có thể chứng, nên nói “không tu
cũng không thành tựu”. Đây là lối lý luận của Bát Nhã, gặp nhiều
lần trong kinh Kim Cang. Tâm Viên Giác thanh tịnh, diệu dụng thì
chiếu sáng cùng khắp, trở về bản thể thì lặng dứt không hai. Trong
tâm này, thế giới của mười phương chư Phật không thể tính đếm kia,
cũng chỉ như hoa đốm trong hư không, tùy duyên khởi-diệt, không phải
là tâm cũng chẳng lìa tâm, không phải trước bị trói buộc mà nay được
giải thoát. Học đến đây chúng ta mới thấy, thế giới Tịnh Độ của chư
Phật mà người tu thường qui hướng, cũng chỉ là phương tiện, là giả
danh. Kỳ thật, đến rốt ráo thì không có chỗ nào gọi là để “trở
về”. Chúng ta mới tâm đắc lời Phật dạy trong kinh Kim Cang “Vô
sở tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai”. Như Lai nghĩa là
không từ đâu đến và cũng không đi về đâu, phải nhận ngay Như Lai
trên mảnh đất hiện thực này, ngay nơi sóng mà nhận ra đại dương.
Khi nhận ra thiên thu vĩnh hằng hàm chứa trong sát-na tâm, Bồ tát
mới biết rằng, tất cả chúng sanh xưa nay đã thành Phật. “Đã
thành” chứ không phải “Sẽ thành”. Đây là một hình thức
diễn đạt rất huyền diệu mà chúng ta đã từng gặp trong kinh Lăng Già.
Nếu chúng sanh không từng là Phật, thì làm sao có thể tu tập để tìm
lại Phật tánh của chính mình? Chẳng qua vì quên tự tánh, mãi mê tạo
nghiệp nên mãi mê trôi lăn trong sinh tử, cũng như nhận lầm năm màu
sắc là thật mà quên viên ngọc Như Ý tự thể không có màu. Bây giờ
chúng ta tu là trở về với tánh Phật. Nói “trở veà” cũng là
gượng nói đó thôi, mình đã là Phật mà muốn tìm Phật ở nơi nào, cũng
như tu mà muốn ngộ thì đó cũng chỉ là cái ngộ ở bên ngoài, chỉ là “Vác
Phật đi tìm Phật”.
Biết mình đã là Phật, chúng ta sẽ không tìm cầu Niết bàn ở đâu xa,
mà chỉ ở ngay mảnh đất tâm của mình nhận lấy. Lúc ấy mới thấy sanh
tử hay Niết bàn cũng không thật có, như khi ngủ ta tưởng mộng là
thật, khi tỉnh giấc mới biết chỉ như ảo ảnh phù vân.
“Này
Thiện nam tử! Vì như giấc mộng đêm qua, nên phải biết Sanh tử và
Niết bàn không khởi không diệt, không đến không đi. Nơi cảnh sở
chứng, không được không mất, không lấy không bỏ. Nơi người năng
chứng, không Tác, không Chỉ, không
Nhậm, không Diệt. Ở trong cảnh giới chứng
ngộ này, không còn tướng năng-sở, rốt ráo không có cảnh chứng cũng
không có người chứng. Tất cả pháp tánh bình đẳng không hoại”:
Vì tướng Sanh tử và tướng Niết bàn chỉ như
giấc mộng đêm qua, nên khi tỉnh mộng nhìn lại các tướng tự nó không
có thật, nên không khởi không diệt, không đến không đi. “Cảnh sở
chứng” là Niết bàn, là tâm Viên Giác, đến đây rồi thấy đều là
những danh từ rỗng nên không được không mất, không lấy không bỏ. Nơi
người năng chứng, do đã đạt được vô công dụng hạnh nên không tạo tác
(không Tác), không phải dừng tâm để hết vọng tưởng (không Chỉ), cũng
không có “ý niệm” nhậm vận tùy duyên (không Nhậm), không đoạn diệt
vọng tưởng để thủ chứng chơn như (không Diệt). Trong cảnh giới chứng
ngộ này, không có pháp sở chứng cũng không có người năng chứng. Đây
là vách sắt ngàn nhẫn không còn chỗ bám, theo ngôn ngữ nhà Thiền.
Đến đây rồi, hành giả phải buông tay cho chết một lần rồi sống lại
vĩnh viễn.
Cũng trong cảnh giới này, tất cả các pháp đều lấy Chân-như làm Tánh,
nên trong phạm trù không gian thì bình đẳng không khác; trong phạm
trù thời gian thì bất hoại, chẳng đồng với đoạn diệt.
“Này
Thiện nam tử! Các Bồ tát kia tu hành như thế, thứ lớp như thế, tư
duy như thế, trụ trì như thế, phương tiện như thế, khai ngộ như thế,
cầu pháp như thế, không còn mê muội nữa”: Ở đây chúng ta cần
hiểu chữ “như theá” có nghĩa sâu xa là “như thị”. Phần
kết luận, Đức Phật tóm tắt lại toàn bộ chương Phổ Nhãn :
-
Tu hành như thế: Các Bồ tát sơ phát tâm trong pháp hội này và
chúng sanh đời mạt pháp thuộc hàng trung-hạ căn, cần theo những
phương tiện thứ lớp tu hành.
-
Thứ lớp như thế: Đề cập đến phần chánh niệm xa lìa các huyễn,
nương vào hạnh Xa-ma-tha của Như Lai.
-
Tư duy như thế: Phải thường xuyên nhớ nghĩ rằng Thân-tâm-cảnh
đều là duyên sinh giả hợp, đồng với huyễn hóa.
-
Trụ trì như thế: Khi huyễn-thân, huyễn-tâm, huyễn-trần và
huyễn-diệt đều diệt, có cái Phi-huyễn thường hằng hiện bày lồ lộ, ví
như lau gương, bụi hết sáng hiện.
-
Phương tiện như thế: Tất cả thứ lớp, tư duy, trụ trì nói trên
đều là những phương tiện giả lập, diễn nói từ cạn đến sâu.
-
Khai ngộ như thế: Bồ tát theo các phương tiện giả lập, nương đó
tu hành, ngộ lý Như huyễn, nhận ra tự tánh bình đẳng thanh tịnh trùm
khắp pháp giới, thể nhập Bất nhị pháp môn.
-
Cầu pháp như thế, không còn mê muội nữa: Phật trả lời câu hỏi
của Bồ tát Phổ Nhãn, sợ những chúng sanh đời mạt pháp khi nghe Như
Lai nói về tam muội thì tâm sanh mờ mịt, không thể ngộ nhập Viên
Giác. Đức Phật khẳng định, nếu cầu pháp như thế, y như thế tiến tu,
thì dù căn cơ thấp kém cũng vẫn có phần.
“Bấy
giờ, Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này, nên nói kệ rằng:
Phổ Nhãn! Ông nên biết,
Tất cả các chúng sanh
Thân tâm đều như huyễn.
Thân tướng thuộc bốn đại
Tâm tánh thuộc sáu trần
Bốn đại mỗi xa lìa
Cái gì là hòa hợp”.
Đức Phật nhắc lại, thân do bốn đại giả hợp, tâm do sáu căn duyên với
sáu trần vọng khởi, nên không có tự thể, đồng với huyễn hóa.
“Thứ lớp tu như thế
Tất cả đều thanh tịnh,
Bất động khắp pháp giới,
Không Tác, Chỉ, Nhậm, Diệt,
Cũng không người năng chứng.
Tất cả thế giới Phật
Giống như hoa hư không,
Ba đời đều bình đẳng,
Rốt ráo không đến, đi”.
Khi nhận ra tự tâm Viên Giác của chính mình, nhờ theo thứ lớp tu tập,
Bồ tát thấy mười phương thế giới, chư Phật ba đời cũng chỉ ở ngay
tại đây và bây giờ, ngay mảnh đất tâm hiện thực này. Trong cảnh giới
chứng ngộ, không còn năng-sở, không đến đi, không Tác-Chỉ-Nhậm-Diệt.
Tâm Viên Giác thanh tịnh bình đẳng và trùm khắp hư không vô biên.
“Bồ tát sơ phát tâm
Và chúng sanh đời mạt
Muốn cầu vào Phật đạo
Phải tu hành như thị”.
Chúng ta ở đây, muốn cầu vào Phật đạo thì cũng phải “tu hành như
thị”. Có đúng như vậy không?
Tóm lại, hai chương Văn Thù và Phổ Hiền ở trước nhằm hiển bày lý
tánh cho hàng thượng thượng căn và thượng căn. Chương Phổ Nhãn thì
nhằm tu về sự tướng, chỉ cặn kẽ về phương pháp tu hành, dành cho
hàng trung-hạ căn. Một khi đạt được sự lý viên dung, tánh-tướng bất
nhị thì tâm Viên Giác hiển hiện. Kết thúc ba chương này, có thể nói
là chúng ta đã có thể khai mở trọn vẹn bộ kinh, còn những chương sau
chỉ phụ trợ thêm cho việc tu hành.
Cũng cần nói thêm một điều: Đang cầm trong tay một bản kinh tuyệt
vời như vậy,rõ ràng chúng ta đâu phải vô phần? Trải qua hơn 25 thế
kỷ, kinh Viên Giác vẫn còn đây, vẫn vì mọi căn cơ chúng sanh mà diễn
bày chánh pháp, làm cho mọi người đều được lợi ích. Trong đời mạt
pháp, bậc thượng căn rất ít, kẻ trung hạ căn quá nhiều, nếu không có
phương tiện thứ lớp thì chúng ta biết nương vào đâu tu hành? Cho nên,
khi học chương Phổ Nhãn này, chúng ta thấy như Đức Phật đã dành
giảng nói cho chính mình, đó là điều đáng phấn khởi cho chúng ta vậy.
~~oOo~~