VII-
CHƯƠNG THANH TỊNH HUỆ
Lúc bấy giờ, Bồ tát Thanh Tịnh Huệ ở trong đại
chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên
phải ba vòng, quỳ dài chắp tay mà bạch Phật rằng: “Đức Đại bi Thế
Tôn! Ngài đã vì chúng con mà rộng nói những điều bất tư nghì như thế,
là điều chưa từng thấy, là điều chưa từng nghe. Chúng con hôm nay
nhờ Phật khéo dạy bảo mà thân tâm cảm thấy thơ thới, được nhiều lợi
ích. Nguyện Ngài vì tất cả pháp chúng đến trong pháp hội này, trùng
tuyên lại tánh Viên mãn giác Pháp Vương của tất cả chúng sanh, của
các bậc Bồ tát và của Như Lai Thế Tôn đã chứng đã đắc, khác nhau như
thế nào; khiến cho chúng sanh đời mạt pháp, khi nghe được Thánh giáo
này mà tùy thuận khai ngộ thứ lớp chứng nhập”. Nói xong, năm vóc
gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến cuối như vậy ba lần.
Bấy
giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Thanh Tịnh Huệ rằng: “Lành thay! Lành
thay! Này Thiện nam tử! Các ông mới có thể vì chúng sanh đời mạt
pháp, thưa hỏi Như Lai về tiệm thứ sai biệt. Nay ông hãy lắng nghe,
ta sẽ vì ông mà nói”. Khi ấy, Bồ tát Thanh Tịnh Huệ vui mừng vâng
theo lời dạy của Phật, cùng cả đại chúng chú tâm mà nghe.
“Này
Thiện nam tử! Tự tánh Viên Giác chẳng phải là tánh, mà tánh vẫn có,
theo các tánh khởi, không thủ không chứng. Ở trong thật tướng, thật
không có Bồ tát và chúng sanh.
Vì
cớ sao? - Vì Bồ tát và chúng sanh đều là huyễn hóa. Khi huyễn hóa
diệt, không còn người thủ chứng. Thí như con mắt không tự thấy con
mắt, tánh tự bình đẳng, không có người bình đẳng. Bởi vì chúng sanh
mê mờ điên đảo, chưa thể trừ diệt tất cả huyễn hóa, ở trong công
dụng hư vọng đối với cái đã diệt và cái chưa diệt mà liền có sự sai
biệt. Nếu đạt được chỗ tùy thuận tịch diệt của Như Lai, thì thật
không có tịch diệt và người tịch diệt.
Này
Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay, do vọng
tưởng về ngã và ái ngã, từng không tự biết niệm niệm sanh diệt, nên
khởi ra sự yêu ghét, đam mê ngũ dục. Nếu gặp được bạn lành dạy bảo
khiến khai ngộ tánh Viên Giác thanh tịnh, hiểu ra được sự sanh diệt,
liền biết cái sanh ra này, tánh tự lao lự. Nếu lại có người hằng
đoạn lao lự, tự nhiên đạt được pháp giới thanh tịnh, thì tịnh-giải
kia làm cho chướng ngại, nên đối với Viên Giác mà không được tự tại.
Đây là phàm phu tùy thuận Viên Giác.
Này
Thiện nam tử! Tất cả Bồ tát bị kiến giải làm ngăn ngại, tuy đoạn
được Giải ngại, nhưng còn trụ ở Kiến giác, nên bị Giác ngại làm ngại
mà không được tự tại. Đây là những Bồ tát chưa nhập địa tùy thuận
Viên Giác.
Này
Thiện nam tử! Có chiếu có giác đều là chướng ngại, thế nên Bồ tát
thường giác mà không trụ, chiếu và người chiếu đồng thời vắng lặng.
Thí như có người tự chặt đầu mình, khi đầu đã bị chặt thì không còn
thấy có người chặt đầu nữa. Vậy cho nên, khi dùng tâm ngại tự diệt
các ngại, khi ngại đã đoạn thì không còn thấy có người diệt ngại.
Kinh giáo như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu đã thấy trăng, biết rõ mục
tiêu được chỉ, không còn lầm ngón tay là mặt trăng nữa. Bao nhiêu
ngôn thuyết của Như Lai khai thị cho Bồ tát cũng lại như thế. Đây là
Bồ tát đã nhập địa tùy thuận Viên Giác.
Này
Thiện nam tử! Tất cả chướng ngại đều là cứu cánh giác. Chánh
niệm-thất niệm, có gì là không giải thoát; thành pháp hay phá pháp
đều là Niết-bàn; trí huệ ngu si chính là Bát nhã; pháp do Bồ tát và
ngoại đạo thành tựu đều là Bồ đề; vô minh - chơn như cảnh giới không
khác; Giới-Định-Huệ và Dâm-Nộ-Si đồng là phạm hạnh; Quốc độ và chúng
sanh đồng một pháp tánh; Địa ngục - Thiên cung đều là Tịnh độ; Hữu
tánh - Vô tánh đều thành Phật đạo; tất cả phiền não rốt ráo là giải
thoát. Pháp giới hải huệ chiếu rõ các tướng giống như hư không. Đây
là Như Lai tùy thuận Viên Giác.
Này
Thiện nam tử! Chỉ những Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp, trong tất
cả thời không khởi vọng niệm, đối với các vọng tâm cũng chẳng trừ
diệt; trụ nơi cảnh vọng tưởng mà không thêm hiểu biết; đối với chỗ
không hiểu biết, không cần biện minh chân thật. Các chúng sanh kia,
nghe pháp môn này mà tin hiểu thọ trì, không sanh lòng kinh sợ. Đó
gọi là Tùy thuận Viên Giác.
Này
Thiện nam tử! Các ông nên biết rằng, các chúng sanh như thế, đã từng
cúng dường trăm ngàn muôn ức hằng hà sa chư Phật và Đại Bồ tát, gieo
trồng căn lành lớn nhiều đời. Phật gọi người ấy đã thành tựu
Nhất-thiết-chủng-trí”.
Lúc
bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng:
“Thanh Tịnh Huệ nên biết!
Tánh Viên mãn Bồ đề
Không thủ cũng không chứng
Không Bồ tát, chúng sanh.
Khi giác cùng chưa giác
Thứ lớp có khác nhau
Chúng sanh do Giải-ngại
Bồ tát chưa lìa giác
Nhập địa hằng tịch diệt
Không trụ tất cả tướng
Đại giác đều viên mãn
Gọi là khắp tùy thuận.
Chúng sinh đời mạt pháp
Tâm không sanh hư vọng,
Phật nói người như thế
Hiện đời là Bồ tát
Cúng dường hằng sa Phật
Công đức đã viên mãn.
Tuy có nhiều phương tiện
Đều gọi Tùy-thuận-trí”.
Vị
Bồ tát xuất hiện ở chương này là Thanh Tịnh Huệ, có nghĩa là Trí huệ
thanh tịnh, chỉ cho Căn-bản-trí hay Bát-nhã-trí. Chúng ta tu hành từ
phàm phu đến quả vị Phật, đều phải nương vào trí Bát Nhã làm đầu,
mới khỏi lạc vào tà đạo. Ở đây, Bồ tát Thanh Tịnh Huệ thỉnh Phật
giản trạch về công hạnh và những quả vị từ phàm phu đến Phật địa có
sai khác như thế nào, để chúng sanh có thể theo đó tu tập, nhờ vậy
tùy thuận và ngộ nhập Viên Giác.
“Lúc
bấy giờ, Bồ tát Thanh Tịnh Huệ ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quỳ dài
chắp tay mà bạch Phật rằng: “Đức Đại bi Thế Tôn! Ngài đã vì chúng
con mà rộng nói những điều bất tư nghì như thế, là điều chưa từng
thấy, là điều chưa từng nghe. Chúng con hôm nay nhờ Phật khéo dạy
bảo mà thân tâm cảm thấy thơ thới, được nhiều lợi ích”: Trong
chương Di Lặc, Đức Phật đã giảng về các chủng tánh chúng sanh, những
cấp bậc tu hành theo đạo Bồ đề của Phật, cùng các phương tiện giáo
hóa của Bồ tát. Đây là những điều mà hội chúng chưa từng thấy, chưa
từng nghe. Hôm nay, nhờ ơn Phật khéo dạy bảo, tất cả đều thấy thân
tâm an lạc, được nhiều lợi ích lớn.
“Nguyện
Ngài vì tất cả pháp chúng đến trong pháp hội này, trùng tuyên lại
tánh Viên mãn giác Pháp vương của tất cả chúng sanh, của các bậc Bồ
tát và của Như Lai Thế Tôn đã chứng đã đắc, khác nhau như thế nào;
khiến cho chúng sanh đời mạt pháp, khi nghe được Thánh giáo này mà
tùy thuận khai ngộ thứ lớp chứng nhập. Nói xong, năm vóc gieo xuống
đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến cuối như vậy ba lần”: Đây là
câu hỏi rất quan trọng, không những đối với các hàng Bồ tát trong
pháp hội mà còn
với chúng sanh đời mạt pháp. Từ địa vị
chúng sanh, trải qua các cấp bậc Bồ tát rồi cuối cùng đến Phật vị;
các quả vị ấy khác nhau như thế nào về tánh Viên-mãn-giác? Nghe được
lời Phật dạy bảo, những chúng sanh đời mạt pháp có thể nương vào đó
mà được khai ngộ.
“Bấy
giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Thanh Tịnh Huệ rằng: “‘Lành thay! Lành
thay! Này thiện nam tử! Các ông mới có thể vì chúng sanh đời mạt
pháp, thưa hỏi Như Lai về tiệm thứ sai biệt. Nay ông hãy lắng nghe,
ta sẽ vì ông mà nói”. Khi ấy, Bồ tát Thanh Tịnh Huệ vui mừng vâng
theo lời dạy của Phật, cùng cả đại chúng chú tâm mà nghe”:
“Tiệm thứ” là thứ lớp tu hành, “Sai biệt” là quả vị tu
chứng. Vì câu hỏi của Ngài Thanh Tịnh Huệ nhằm lợi ích cho chúng
sanh đời mạt pháp, nên trong lời hứa khả, Đức Phật cũng tán thán
Ngài rằng: “Các ông mới có thể vì chúng sanh đời mạt pháp”.
Sau đây là những lời Phật giải đáp:
“Này
Thiện nam tử! Tự tánh Viên Giác chẳng phải là tánh, mà tánh vẫn có”:
Khởi đầu Đức Phật đã đề cập thẳng đến cứu cánh là tự tánh Viên
Giác. Ở nơi cứu cánh, không còn chấp trước lưỡng phân, nên không có
cấp bậc tu chứng và thứ lớp tu hành. Phật luôn luôn nhắc đến bổn tâm
để chúng sanh không chạy theo những dây mơ rễ má bên ngoài; nhưng do
lời thỉnh của Bồ tát Thanh Tịnh Huệ, bất đắc dĩ Phật phải dùng
phương tiện thứ lớp.
Đức Phật dạy, tự tánh Viên Giác thật ra không phải là tất cả tánh,
nhưng trong mỗi chủng tánh đều có Viên Giác. Chúng ta nhớ, trong
chương Di Lặc, Phật nói về 5 chủng tánh của chúng sanh (Thanh văn,
Duyên giác, Bồ tát, Bất định tánh và Ngoại đạo chủng tánh). Viên
Giác đâu phải là các chủng tánh ấy, nhưng trong mỗi chủng tánh đều
có Viên Giác hết. “Phi tánh tánh hữu” là như vậy, vừa phủ
định xong liền khẳng định ngay tức khắc.
“Theo
các tánh khởi, không thủ không chứng”: Tự tánh Viên Giác không
phải là các chủng tánh nhưng lại theo các chủng tánh ấy mà khởi ra
sự sai biệt. Ví như bản chất của nước là trong, nhưng do có bụi bặm
hay các chất màu hòa tan trong đó mà nước trở nên đục hay có màu.
Cũng vậy, bản thể là tự tánh Viên Giác bình đẳng không khác giữa
Phật và mọi loài chúng sanh, trong đó lìa mọi ý niệm nhị biên phân
biệt, nên không có năng thủ và sở thủ, cũng không có năng chứng và
sở chứng. Do vì có sự huân tập theo nghiệp riêng biệt của chúng
sanh, nên Viên Giác trở thành có nhiều chủng tánh khác nhau.
“Ở
trong thật tướng, thật không có Bồ tát và chúng sanh”: Mê là
chúng sanh, giác là Bồ tát. Có mê và giác là do tâm chúng sanh phân
biệt chấp trước; Đức Phật rất từ bi nên cũng thi thiết phương tiện
dạy bảo pháp chúng sanh để được pháp Bồ tát, từ phàm phu tiến lên
địa vị Bồ tát rồi Phật quả. Đó là vì những chúng sanh sơ cơ mà giảng
nói đó thôi, chớ trong Chơn như Thật tướng thật sự không có tướng
nào là Bồ tát hay chúng sanh.
“Vì
cớ sao? - Vì Bồ tát và chúng sanh đều là huyễn hóa. Khi huyễn hóa
diệt, không còn người thủ chứng”: Trên ý thức đối đãi, Bồ tát
khác với chúng sanh. Nhưng trong Đệ nhất nghĩa đế, cả hai đều không
thật có. Các kinh hệ Bát nhã diễn tả cái trạng thái huyễn này bằng
Tam đoạn luận “Bồ tát không phải là Bồ tát, ấy mới là Bồ tát;
chúng sanh không phải là chúng sanh, ấy mới là chúng sanh ...”.
Khi thấy tất cả thân tâm cảnh giới, cho đến những lời Phật dạy đều
là huyễn; khi vượt thoát được mọi thứ ngôn ngữ đối đãi, là lúc mọi
huyễn đều diệt. Lúc ấy, không thấy có Niết-bàn là cảnh giới sở
chứng, không có ta là người chứng, tự nhiên khế hợp với tinh thần
Ba-la-mật.
Câu chuyện của Ngài Thanh Nguyên Hành Tư có thể minh họa điều này.
Khi hay tin Lục tổ đang hóa độ ở Tào Khê, Ngài quảy gói đến đảnh lễ
Lục tổ, xin học thiền Đốn ngộ. Lúc gặp Tổ, Ngài hỏi: “Người tu
hành làm thế nào khỏi rơi vào giai cấp?” Tổ hỏi lại: “Hằng
ngày ông làm việc gì?”. Ngài thưa: “Thánh đế còn chẳng làm”.
Tổ hỏi thêm: “Nếu vậy thì ông đang ở vào giai cấp nào?” Ngài
thưa: “Thánh đế còn chẳng làm, làm gì có giai cấp”.
“Thí
như con mắt không tự thấy con mắt, tánh tự bình đẳng, không có người
bình đẳng”: Đức Phật đưa ra thí dụ: Khi nhìn thấy cảnh vật bên
ngoài rõ ràng, chúng ta tự biết mắt mình sáng. Không thể dùng mắt
mình để thấy lại mắt, còn nếu nhìn vào gương thì chỉ thấy bóng của
đôi mắt mà thôi. Cũng vậy, không thể dùng tánh Viên Giác để thấy
được tánh, vì nếu thấy được thì tánh ấy đã ở bên ngoài mình. Đây là
chỗ hết sức tinh tế, phải tự mình thầm nhận biết. Do đó, khi dùng
chữ “Kiến tánh” thì cũng là gượng nói, chứ không nên hiểu
“tánh” là cái bị “kiến”. Tánh Viên Giác tự bình đẳng, ở
Phật không thêm ở chúng sanh chẳng bớt, cũng không thể bắt buộc
gượng ép cho nó bình đẳng. Vì thế Phật nói, tánh tự bình đẳng mà
không có người bình đẳng.
“Bởi
vì chúng sanh mê mờ điên đảo, chưa thể trừ diệt tất cả huyễn hóa, ở
trong công dụng hư vọng, đối với cái đã diệt và cái chưa diệt mà
liền có sự sai biệt”: Bản chất của tánh Viên Giác là bình đẳng,
nhưng vì chúng sanh có căn cơ trình độ khác nhau, dụng công tu hành
khác nhau nên có sự sai biệt thứ lớp tu tiến. Thật ra, sự dụng công
này cũng hư vọng; như khi chúng ta áp dụng phương pháp “Biết vọng
không theo”, đó là dùng tâm biết vọng để buông cái vọng, lúc
vọng tưởng hết thì cái tâm biết vọng ấy cũng phải buông luôn, vì tâm
ấy cũng là vọng. “Cái đã diệt” là công năng diệt trừ được
vọng tưởng, “Cái chưa diệt” tức đối với tất cả huyễn hóa chưa
trừ diệt được hết. Công năng diệt trừ và chưa diệt trừ được vọng
tưởng, không đồng đều giữa các chúng sanh, từ đó mới có sự sai biệt.
“Nếu
đạt được chỗ tùy thuận tịch diệt của Như Lai, thì thật không có tịch
diệt và người tịch diệt”: Tùy vọng tưởng diệt được nhiều hay ít
mà cấp độ tu hành của mỗi người cao thấp khác nhau. Tuy nhiên, ở chỗ
tùy thuận Viên Giác tức nơi cứu cánh, thì không còn nhị biên phân
biệt, vì vậy không còn có cảnh giới tịch diệt và người tịch diệt.
Tóm lại, trong đoạn trên, Đức Phật chỉ rõ bản chất của Viên Giác là
tự bình đẳng, từ Phật đến muôn loài chúng sanh. Nhưng trên hiện
tượng lại có sai khác, do chúng sanh căn tánh không đồng, lúc khởi
công dụng hạnh thì người nhanh kẻ chậm, thành ra có sự khác nhau về
cấp bậc tu chứng. Cũng vì lý do này nên ở đoạn sau, Đức Phật giảng
về bốn cấp bậc tùy thuận Viên Giác, từ chúng sanh đến Phật vị :
1-
Phàm phu tùy thuận Viên Giác: Bồ tát ở địa vị Thập tín. Đức
Phật gọi là Phàm phu vì các vị ấy nhận ra sự thật, phát khởi niềm
tin mãnh liệt rồi an trú vào đó để tiến tu, nhưng chưa giác ngộ tự
tánh, chưa đến địa vị Hiền.
2-
Bồ tát chưa nhập địa tùy thuận Viên Giác: Gồm Bồ tát Thập
trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng. Đây là địa vị Tam hiền, tương
đương với Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm và A-na-hàm của Phật giáo Nguyên
thủy.
3-
Bồ tát nhập địa tùy thuận Viên Giác: Bồ tát Thập địa, đã bước
lên địa vị Thánh. Các Thiền sư kiến tánh ở quả vị này. Thập địa gồm
10 quả vị; từ quả vị đầu tiên (Hoan hỷ địa) là người đã chứng được
pháp thân thường trụ, không còn thối chuyển nữa, tiến lần đến quả
thứ 10 là Pháp-vân-địa. So sánh với Ngyên thủy, quả vị A-la-hán
tương đương với Bất-động-địa là quả thứ tám của Thập địa.
Từ
quả thứ 10 của Thập địa, muốn lên địa vị Diệu Giác tức Phật quả,
phải qua Đẳng giác. Ở quả vị nầy, các Ngài giác ngộ tánh bình đẳng
của vạn sự vạn vật, là sự giác ngộ liên tục không gián cách, nhưng
vẫn chưa phá hết sở tri chướng vi tế mà Đức Phật gọi là “Vi tế sở
tri ngu”.
4-
Như Lai tùy thuận Viên Giác: Đây là địa vị Phật tức Diệu
giác. Diệu giác không thuộc quả vị nào hết, vượt mọi quả vị, là sự
giác ngộ hết sức nhiệm mầu, cùng khắp pháp giới, nên còn gọi là
“Pháp giới hải huệ”.
“Này
Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay, do vọng
tưởng về ngã và ái ngã, từng không tự biết niệm niệm sanh diệt, nên
khởi ra sự yêu ghét, đam mê ngũ dục”: Từ vô thỉ, chúng sanh
không biết thân tâm đều sinh diệt vô thường, không thật có. Thân này
do nhiều yếu tố hợp lại mà thành, thay đổi từng giây phút, có cố
định bất biến gì đâu. Tâm vọng tưởng cũng vậy, niệm niệm sanh diệt
không ngừng. Chúng sanh mê muội, không rõ thân tâm như huyễn nên
chấp có cái tôi này là thật. Từ chấp có cái tôi thật nên sinh ra yêu
cái tôi; điều gì hợp với cái tôi thì thích, không hợp thì ghét, từ
đó khởi ra đam mê tài - sắc - danh - thực - thùy. Như vậy, tiến
trình khởi từ chấp ngã đến ái ngã, tắng ái và rồi đam mê ngũ dục,
tạo nghiệp và thọ khổ trong sáu nẻo luân hồi, đều do vô minh là
nguồn cội.
“Nếu
gặp được bạn lành dạy bảo khiến khai ngộ tánh Viên Giác thanh tịnh,
hiểu ra được sự sanh diệt, liền biết cái sanh ra này, tánh tự lao
lự”: Nhờ Thiện tri thức chỉ bảo, có người nhận ra tự tánh Viên
Giác. Vị ấy hiểu rằng, Viên Giác là bất sanh bất diệt, là chủ; còn
tất cả pháp bên ngoài đều là sanh diệt, là khách. Nhận được chủ, vị
ấy không lầm khách nữa. Tuy nhiên, đây chỉ là sự nhận biết bằng thức
của Bồ tát Thập tín, chưa chứng nhập hoàn toàn vào Viên Giác. Cái
biết lúc này còn thấp thoáng, lúc nhớ lúc quên, chưa đạt đến quả vị
bất thối nên vẫn có thể lui sụt nếu không tinh tấn tu hành. Dù sao,
đạt đến trạng thái này cũng không phải dễ, vì khi bỗng nhiên phát
minh tự tánh Viên Giác chưa từng sanh diệt của mình, vị ấy tự dưng
phát sinh một niềm tin mãnh liệt, từ đó tiếp tục tu tiến. Vị ấy sẽ
thấy rõ, “cái sanh ra này”, tức cái tâm vọng tưởng lăng xăng
ấy, do trái với giác tánh, nhận lầm có ngã và ngã sở. Vì xa rời bản
giác nên chính nó tự nhọc nhằn lao lự, thấy thật có thân, thật có
tâm, chấp thân tâm ấy chính là mình.
“Nếu
lại có người hằng đoạn lao lự, tự nhiên đạt được pháp giới thanh
tịnh, thì tịnh giải kia làm cho chướng ngại, nên đối với Viên Giác
mà không được tự tại. Đây là phàm phu tùy thuận Viên Giác”: Khi
buông mọi cái lao lự, vị ấy không chấp trước vào thân và tâm nữa.
Như trong lúc tọa thiền, buông tất cả lao lự vọng tưởng, tâm hoàn
toàn vắng lặng, vị ấy thấy rõ tâm lăng xăng sanh diệt không dính
dáng gì với tự tánh Viên Giác, bấy giờ liền được pháp giới thanh
tịnh. Tuy nhiên, do cái biết này vẫn còn là của ý thức chứ không
phải của trí, tức hết kiến giải của phàm tình nhưng vẫn còn thánh
giải, nên còn phân biệt năng sở, thấy có cảnh giới thanh tịnh và
mình là người có tịnh giải. Chính cái tịnh giải ấy làm chướng ngại,
nên dù tùy thuận Viên Giác mà chưa tự tại. Cấp bậc đầu tiên trong
bốn cấp này, Đức Phật gọi là “Phàm phu tùy thuận Viên Giác”.
Như vậy, Phàm phu tùy thuận Viên Giác nghĩa là: Chúng sanh lúc đầu
không biết Phật pháp, chấp ngã và ngã sở, đam mê ngũ dục, tạo nghiệp
và thọ khổ. Gặp được bạn lành dạy bảo, vị ấy tỉnh ngộ rằng thân tâm
này sanh diệt không có thật, vọng lặng dứt. Tuy vậy, vị ấy còn thấy
mình lặng lẽ và có kiến giải về sự lặng lẽ đó; cho nên dù đạt được
pháp giới thanh tịnh nhưng vẫn còn có đối tượng để mình nhận biết,
tự nhiên phân ranh chủ-khách, năng-sở. Lúc này, ngã chấp thô đã phá
nhưng pháp chấp vẫn còn, phân-biệt-ngã-chấp đã sạch mà
câu-sanh-ngã-chấp chưa phá, tức là còn ngấm ngầm chấp ngã một cách
vi tế. Vì thế Phật gọi địa vị này là Phàm phu. Biết rõ điều này,
hành giả cần âm thầm cố gắng tiến tu, đừng tưởng lầm mình đã kiến
tánh rồi thỏng tay vào chợ. Người chín chắn khi biết mình đến chỗ
này, thái độ của họ tự nhiên khiêm cung hẳn; còn nếu ai ngông nghênh
ngã mạn, coi trời đất chẳng ra gì, lộ ra sân si đủ chuyện, thì dù họ
thuyết giảng hay ho cách mấy, chúng ta vẫn không thể tin được.
“Này Thiện nam tử! Tất cả Bồ tát bị kiến giải làm
ngăn ngại, tuy đoạn được Giải ngại nhưng vẫn còn trụ ở Kiến giác,
nên bị Giác ngại làm ngại mà không được tự tại. Đây là những Bồ tát
chưa nhập địa tùy thuận Viên Giác”:
Trong cấp bậc trước, hành giả bị kiến giải làm ngăn ngại, gọi là
Giải ngại. Ở địa vị Tam Hiền nầy, các vị đoạn được Giải ngại,
nhưng lại thấy mình có chứng có giác, cho nên Phật nói “vẫn còn
trụ ở Kiến giác”. Thấy có chứng có giác cũng là chướng ngại, nên
gọi là “Giác ngại”. Như vậy, biết mình thanh tịnh là Kiến
giải, cái kiến giải này làm chướng ngại nên nói là Giải ngại. Thấy
mình có chứng có giác là Kiến-giác, cái kiến giác này cũng làm
chướng ngại nên gọi là Giác-ngại.
Vậy, ở địa vị thứ hai, tuy đã xả trừ được “cái biết mình thanh
tịnh”, nhưng vẫn còn “cái biết mình giác” làm ngăn ngại, vì vẫn còn
năng giác và sở giác. Chúng ta thấy, cả hai cấp bậc Thập tín (có
người biết và cảnh giới bị biết) và Tam hiền (có người giác và cảnh
giác) đều chưa vượt khỏi năng sở đối đãi nhị nguyên, chưa đạt được
tự do hoàn toàn. Các vị dù đã có Định có Huệ nhưng vẫn chưa nhập
địa.
“Này
Thiện nam tử! Có chiếu có giác đều là chướng ngại, thế nên Bồ tát
thường giác mà không trụ, chiếu và người chiếu đồng thời vắng lặng”:
Phật nói đến cấp bậc thứ ba. Hành giả biết rõ có chiếu có giác đều
là chướng ngại, vì còn năng sở. Các vị buông luôn cái giác ấy, nghĩa
là thường giác mà không trụ vào cái giác. Nhà Thiền gọi trạng thái
này là liễu liễu thường tri. Đây là quả vị Bồ tát Thập địa,
các Thiền sư đã kiến tánh, chứng pháp thân thường trụ. Tuy vậy, vì
còn tập khí sâu dầy nên các vị phải trải qua nhiều đời kiếp gột sạch
tập khí, tinh tấn tu hành mới có thể thành tựu Phật quả. Cũng cần
nhấn mạnh, sự tu hành ở các vị là vô công dụng hạnh, tu vô tu, chứng
vô chứng; cho nên thường chiếu giác mà không có người năng chiếu và
cảnh sở chiếu. Phật gọi là “chiếu và người chiếu đồng thời vắng
lặng”.
“Thí
như có người tự chặt đầu mình, khi đầu đã bị chặt thì không còn thấy
có người chặt đầu nữa”: Đối tượng chặt là cái đầu, người chặt là
mình. Khi đầu đã bị chặt là mình đã chết, đâu còn thấy có đầu bị
chặt hay có người chặt đầu, bởi vì người chặt và cái đầu chỉ là một.
Đây là một ví dụ rất độc đáo để minh họa việc Bồ tát diệt các chướng
ngại.
“Vậy
cho nên, khi dùng tâm ngại tự diệt các ngại, khi ngại đã đoạn thì
không còn thấy có người diệt ngại”: Tâm-ngại là tâm có chiếu có
giác, lúc đầu dùng tâm này để diệt các chướng ngại, nghĩa là dùng
cái tâm hay buông để buông cái vọng bị buông. Đến khi ngại đã đoạn
hết, nghĩa là tất cả vọng tưởng đều lặng thì cái tâm-ngại, tức cái
tâm hay buông, cũng phải dẹp luôn Năng sở đều đoạn, không còn ngại
cũng không còn người diệt ngại nữa.
“Kinh
giáo như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu đã thấy trăng, biết rõ mục tiêu
được chỉ, không còn lầm ngón tay là mặt trăng nữa. Bao nhiêu ngôn
thuyết của Như Lai khai thị cho Bồ tát cũng lại như thế. Đây là Bồ
tát đã nhập địa tùy thuận Viên Giác”: Tam tạng kinh điển đều như
ngón tay chỉ mặt trăng. Người học Phật phải biết rõ, kinh điển là
ngón tay, tự tâm Viên Giác là mặt trăng, nương vào kinh điển để nhận
ra tự tâm. Khi biết rõ mục tiêu là mặt trăng thì không còn lầm ngón
tay là mặt trăng; cũng như không lầm tưởng những ngôn thuyết của
Phật là cứu cánh nữa.
Như vậy, ở cấp bậc Bồ tát đã nhập địa tùy thuận Viên Giác, các vị đã
vào hàng Thánh, không cần y cứ theo kinh điển mà vẫn tùy thuận
Giác-tánh. Các vị vẫn dùng huyễn tu huyễn lúc đầu, nhưng khi xả trừ
hết các huyễn, đến chỗ thường giác, thì không còn thấy có người
chứng và cảnh giới để chứng nữa. Giữa năng và sở đã dung hòa nhất
như, trở về tự thể đại đồng, tự nhiên hòa điệu vào pháp giới thanh
tịnh. Lúc này, năng sở đều dứt thì còn lại cái gì? - Đây là điều bí
mật mà mỗi người phải tự khám phá, không ai có thể chỉ được cho ai.
Đến được chỗ này, chúng ta sẽ hiểu ai là người không cùng muôn pháp
làm bạn.
“Này
Thiện nam tử! Tất cả chướng ngại đều là cứu-cánh-giác”: Bắt đầu
bước qua địa vị Diệu giác, chúng ta phải hết sức chú tâm mới lãnh
hội được vài phần. Tất cả chướng ngại đối với các Ngài bây giờ đều
là Cứu-cánh-giác, như thế không cần diệt trừ chướng ngại nữa.
Đề-Bà-Đạt-Đa làm ngăn ngại Đức Phật không phải một kiếp này mà đã từ
vô số kiếp, vậy mà trong kinh Pháp Hoa, Phật bảo ông là Thiện hữu
tri thức bậc nhất của Ngài. Cho nên, càng có chướng ngại, các Ngài
càng tu tiến. Các Ngài hóa độ chúng sanh như dạo hoa viên, cảnh giới
của các Ngài bình đẳng như ánh sáng mặt trời chiếu soi vạn vật, mọi
vật đều được lợi ích mà bản thân mặt trời không thấy mình đem lại
lợi ích cho ai.
“Chánh
niệm - thất niệm, có gì là không giải thoát”: Trong trí huệ bình
đẳng, lìa mọi phân biệt đối đãi nên tất cả các pháp đều không hai
không khác. Thông thường, chúng ta cho rằng khi làm việc gì chỉ biết
việc đó, không nghĩ đến chuyện khác, ấy là chánh niệm, là giải
thoát. Nếu vọng tưởng nổi lên, đó là thất niệm, là bị trói buộc. Ở
đây, Giác tánh tuyệt mọi đối đãi nên được-mất đều không khác; chánh
niệm hay thất niệm đều là giải thoát.
“Thành
pháp hay phá pháp đều là Niết-bàn”: Tinh tấn tu theo chánh pháp
gọi là Thành pháp, tu hành lui sụt gọi là Phá pháp.
Trong Viên Giác không có thành cũng không có phá, nên nói “đều là
Niết-bàn”.
“Trí
huệ-ngu si chính là Bát Nhã”: Kinh Lời Vàng có nói “Ngu mà
biết mình ngu là người trí, nếu ngu mà cho mình trí chính là người
ngu”. Đức Phật dạy, người trí là người thấy đúng lẽ thật, còn
người ngu là người không nhận biết được sự thật của muôn pháp. Đó là
trên phương diện Tục đế mà nói. Ở đây, trên Trung-đạo-đế
Đệ-nhất-nghĩa-đế, ngu và trí đều là giả lập, không có tự thể, không
rời Giác-tánh, cho nên đều là Bát Nhã.
“Pháp
do Bồ tát và ngoại đạo thành tựu đều là Bồ đề”: Bồ đề hiểu theo
nghĩa là tự tánh Viên Giác sẵn đủ ở mỗi người, dù người ngoại đạo
cũng có. Thường chúng ta quan niệm, pháp của Bồ tát thành tựu là
Chánh, pháp của ngoại đạo thành tựu là Tà. Ở đây, Chánh-Tà đều đồng
có Giác-tánh như nhau, nên Phật bảo “đều là Bồ đề”.
“Vô
minh Chơn như cảnh giới không khác”: Trong Chứng-Đạo-ca, Thiền
sư Huyền Giác nói “Vô minh thật tánh tức Phật tánh, huyễn hóa
không thân tức Pháp thân”. Cái thấy của Thiền sư ở đây cũng đồng
với cái thấy của Phật, chỉ khác một điều là các Ngài mới giác ngộ
Phật nhơn mà chưa thành tựu giác hạnh viên mãn như Phật. Cho nên,
Thiền Đốn Ngộ là một nhảy vào liền đất Như Lai, không như Giáo-môn
phải trải qua tuần tự nhiều bước. Có người không hiểu thấu điều này,
cho Thiền Đốn Ngộ là quái thai của Phật giáo, chẳng biết rằng đây
chính là tinh hoa, là cốt tủy của đạo Phật, đòi hỏi người hành trì
phải có căn cơ bén nhạy hơn bình thường.
“Giới-Định-Huệ
và Dâm-Nộ-Si đồng là phạm hạnh”: Giới-Định-Huệ là tam vô lậu học
mà mỗi người tu đều phải giữ gìn và thực hiện. Thế mà Phật lại nói
Giới-Định-Huệ đồng với Dâm-Nộ-Si, làm sao hiểu thấu? Chúng ta phải
biết, Giới-Định-Huệ là pháp xuất thế gian, y cứ từ một tâm;
Dâm-Nộ-Si là pháp thế gian, cũng y cứ từ tâm ấy. Đó là tự tâm Viên
Giác. Với trạng thái tâm chứng của người đã triệt ngộ, bản chất của
mọi pháp đều vốn thanh tịnh vì đều y cứ từ tự thể Viên Giác. Cho
nên, hai pháp trên đều là phạm hạnh, đối với địa vị Diệu Giác. Còn
đối với phàm phu chúng ta, luôn luôn phải hành trì Giới-Định-Huệ,
không nên bắt chước nói theo mà sa vào ác đạo.
“Quốc độ và chúng sanh đồng một pháp tánh”:
Quốc độ là khí thế gian, chúng sanh là hữu tình thế gian. Khí thế
gian là những thế giới thiên sai vạn biệt bên ngoài; Hữu tình thế
gian là mọi hàm linh có hình tướng; tất cả cùng một pháp tánh, đó là
Giác-tánh vậy.
“Địa
ngục-Thiên cung đều là Tịnh độ”: Tất cả pháp đều từ tâm sinh,
chúng sanh có đồng một nghiệp cảm sẽ cùng nhau ở một cõi giới.
Nghiệp đó là dụng mê của tâm. Đến khi giác ngộ, đoạn hoặc chứng
chơn, thì đó cũng là dụng của tâm, nhưng là dụng giác. Dụng mê thì
đọa vào địa ngục, dụng giác thì đời sống thăng hoa. Thật sự, khi trở
về trạng thái bình đẳng nhất như, Địa ngục và Thiên cung đâu không
phải cùng là Tịnh độ?
“Hữu
tánh-Vô tánh đều thành Phật đạo”: Hữu tánh là có chủng tánh
Phật, gồm ba thừa Thanh văn-Duyên giác và Bồ tát. Vô tánh là không
có chủng tánh Phật, gồm ngoại đạo và phàm phu. Sự phân chia này chỉ
có tính cách tương đối, do hạng vô tánh không tin mình có chủng tánh
Phật, chứ thực ra, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Vì vậy, tất
cả đều có thể thành Phật đạo.
“Tất cả phiền não rốt ráo là giải thoát”:
Lục Tổ nói “An tâm tại vọng tình, ngay đó
không ba chướng”. Cái thấy của Lục Tổ cũng đồng với cái thấy của
Phật. Không phải loại trừ vọng tình để có cái an tâm riêng, mà ngay
nơi vọng tình mà an tâm. Như vậy, phải ngay nơi phiền não mà thấy Bồ
đề, ngay nơi sinh tử mà gặp Niết-bàn. Nhận được lẽ này, các Ngài
thỏng tay vào chợ, tùy duyên thị hiện mọi hình tướng để hóa độ chúng
sanh.
“Pháp
giới hải huệ chiếu rõ các tướng giống như hư không. Đây là Như Lai
tùy thuận Viên Giác”: Trí huệ như biển trùm khắp pháp giới,
chiếu rõ tất cả các pháp đều như hư không, tất cả tướng sai biệt của
phàm phu hay Bồ tát đều dung nhiếp nhau, tự tại vô ngại.
Như vậy, cấp bậc Như Lai tùy thuận Viên Giác là cảnh giới cao tột
của Phật, lìa mọi ý thức nhị biên phân biệt, siêu việt mọi phạm trù
đối đãi, ngay các hàng Bồ tát cũng không lường hết được. Các Ngài đã
đạt đến chỗ thật tánh bình đẳng giữa Phật và chúng sanh, giữa
Niết-bàn và sanh tử, giữa giải thoát và ràng buộc. Các Ngài đã hoàn
toàn xả hết mọi chấp trước từ thô đến tế, không còn khởi công dụng
hạnh, không còn tâm năng chứng và cảnh sở chứng. Ở cảnh giới này,
các Ngài an trụ trong Viên Giác tự định tự huệ mà không còn tạo tác
- trong Bát Nhã Tâm Kinh gọi là Vô trí diệc vô đắc. Lục Tổ
Huệ Năng diễn tả bằng từ “định-huệ đồng thời”, nghĩa là định
của tự tánh hằng tịch và huệ của tự tánh hằng soi, tự định và tự huệ
một cách tự nhiên, viên mãn và cùng lúc, không cần khởi công mà có.
Đây là tinh thần Đốn tu Đốn chứng của nhà Thiền. Các vị Thiền sư khi
đạt đến cấp bậc này, muốn sống muốn chết lúc nào tùy ý. Vì vậy,
chúng ta đọc trong Thiền sử, thấy rất nhiều trường hợp các Ngài đọc
một bài kệ rồi ngồi kiết già thị tịch một cách tự tại an nhiên.
“Này Thiện nam tử! Chỉ những Bồ tát và chúng sanh
đời mạt pháp, trong tất cả thời không khởi vọng niệm, đối với các
vọng tâm cũng chẳng trừ diệt”: Đối với
Nhị thừa, phải trừ hết vọng niệm mới đạt được Niết-bàn tịch tịnh.
Với Thiền Đốn Ngộ lại khác, Chánh niệm không phải là diệt niệm, mà
là tỉnh giác trong đương niệm, ở nơi niệm mà vô niệm. Không khởi
vọng niệm nhưng cũng không trừ diệt vọng tâm, vì niệm và vô niệm
không hai không khác.
“Trụ
nơi cảnh vọng tưởng mà không thêm hiểu biết”: Đức Phật nói rất
rõ: “Trụ nơi cảnh vọng tưởng” chứ không phải “Trừ vọng tưởng”.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tri kiến lập tri tức vô minh bổn, Tri
kiến vô kiến tư tức Niết-bàn” (Nếu thấy biết mà khởi thêm thấy
biết là nguồn gốc của vô minh; Thấy biết không thêm hiểu biết ấy là
Niết-bàn). Đây là một trạng thái phi trạng thái, chúng ta không diệt
vọng tưởng, thấy biết tất cả mà không thêm cái gì. Chúng ta sống rất
hồn nhiên, vĩnh viễn an trú trong hiện tại, không đoạn đi cái dụng
của tự tánh.
“Đối
với chỗ không hiểu biết, không cần biện minh chân thật”: Chúng
ta trụ nơi cảnh vọng tưởng không thêm hiểu biết và ở chỗ không hiểu
biết đó mà không cần biện minh cái này thật cái kia giả nữa. Khi
nghe Ngọa Luân có bài kệ :
Ngọa luân có tài khéo
Hay đoạn trăm tư tưởng
Đối cảnh tâm không sanh
Bồ đề ngày càng lớn.
Lục Tổ cho là lối tu diệt niệm làm mất đi diệu dụng của tự tánh, nên
Ngài đọc kệ đối lại như sau :
Huệ Năng chẳng tài khéo
Chẳng đoạn trăm tư tưởng
Đối cảnh tâm vẫn sanh
Bồ đề làm gì lớn.
Lỗi của chúng ta ở chỗ, tư tưởng hay thêm bớt. Niệm tùy cảm tùy ứng
mà chúng ta cứ lom lom nghĩ về nó và cách dẹp trừ nó. Chúng ta không
biết niệm chính là dụng của tự tánh, tự nó sinh diệt một cách tự
nhiên; cũng như nước biển thì tự nhiên có sóng, làm gì cần phải dẹp
sóng để tìm nước, mà ngay nơi sóng đã là nước rồi. Vì vậy Lục Tổ
không cần đoạn trăm tư tưởng như Ngọa Luân. Tâm có sanh diệt cũng
không ngoài tự tánh, sanh đó là vô sanh, là toàn thể toàn dụng của
tự tánh, nên sợ gì sanh tâm khi đối cảnh. Bồ đề là giác, không hình
tướng, xưa nay không một vật thì làm gì ngày càng lớn. Cho nên, vừa
có tâm dứt vọng thì đó cũng đã là vọng rồi.
Liên hệ với phương pháp “Biết vọng không theo” của Hòa thượng
Trúc Lâm, vì chúng sanh căn cơ thấp kém nên thi thiết phương tiện để
mọi người đều có thể tu hành. Khi niệm khởi lên, ta biết đó là vọng,
niệm ấy tự lặng; nhưng chính cái “biết” đó cũng là vọng. Nhiều người
mới nghe đến chỗ này, vội vàng chỉ trích ngài dạy đệ tử không đúng
yếu chỉ Thiền Tông. Họ không biết rằng, đó mới là giai đoạn đầu,
phải dùng tâm vọng để buông vọng, cũng như dùng gai lễ gai. Khi vọng
lặng hết, cái tâm biết vọng ấy cũng phải buông luôn. Lúc ấy không
còn năng sở, hoàn toàn rỗng rang thì còn lại cái gì? Cái không thể
buông được là tạng bí mật của chư Phật ba đời.
Cũng cần nói thêm một điều: Phương pháp biết vọng thật ra có hai
cách, tùy trình độ căn cơ của thiền sinh mà áp dụng: “Pháp biết
vọng” là theo đúng phương pháp Hòa thượng dạy, đã nói ở trên,
tuần tự qua từng giai đoạn. “Tánh biết vọng” là đốn tu đốn
chứng, ngay vọng nhận ra chơn và hằng sống, không gián cách. Đây là
điều rất sâu mầu, hàng trung hạ căn chúng ta khó thể hiểu thấu.
“Các
chúng sanh kia, nghe pháp này mà tin hiểu thọ trì, không sanh lòng
kinh sợ. Đó gọi là Tùy thuận Viên Giác”: Chúng sanh nào nghe
được pháp môn chẳng trừ chẳng dẹp vọng này mà không kinh sợ, tin
hiểu theo đó tu hành, phải biết đó là hàng căn cơ Viên đốn, ít người
bì kịp. Các vị ấy được gọi là Tùy thuận Viên Giác.
“Này
Thiện nam tử! Các ông nên biết rằng, các chúng sanh như thế, đã từng
cúng dường trăm ngàn muôn ức hằng hà sa chư Phật và Đại Bồ tát, gieo
trồng căn lành lớn nhiều đời. Phật gọi người ấy đã thành tựu Nhất
thiết chủng trí”: Mới nghe qua đoạn này, chúng ta thấy thắc mắc.
Một vị Phật xuất hiện ở thế gian là một điều vô cùng hy hữu, trăm
ngàn ức kiếp chưa chắc đã gặp được một lần. Vậy mà ở đây Phật bảo,
hàng chúng sanh căn cơ Viên đốn như thế đã từng gặp và cúng dường
hằng hà sa chư Phật. Điều này có mâu thuẫn không? Chúng ta cần hiểu,
Phật ở đây có nghĩa là Giác. Bồ tát là hữu tình giác. Cả Phật và đại
Bồ tát đều có nghĩa là Giác. Những chúng sanh tu theo Đại thừa Đốn
giáo này là chúng sanh đã hằng tỉnh hằng giác từ lâu lắm rồi. Mỗi
niệm tỉnh là một lần đối diện với Phật tự tâm của chính mình, thì
trong suốt cuộc đời tu chân chính, rõ ràng chúng sanh ấy đã gặp và
cúng dường vô lượng chư Phật và đại Bồ tát. Phật bảo chúng sanh ấy
đã thành tựu Nhất-thiết-chủng-trí, tức thành tựu trí huệ Phật.
“Lúc
bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng
:
Thanh Tịnh Huệ nên biết!
Tánh viên mãn Bồ đề
Không thủ cũng không chứng
Không Bồ tát, chúng sanh”.
Đoạn này, Phật nói về Bản giác, không thủ không chứng và cũng không
khác biệt giữa Bồ tát và chúng sanh.
“Khi giác cùng chưa giác
Thứ lớp có khác nhau”.
Nơi cứu cánh thì không sai biệt giữa giác (Bồ tát) và chưa giác
(chúng sanh), nhưng nơi phương tiện thì có thứ lớp, tức các quả vị
đã nói trên.
“Chúng sanh do Giải-ngại”
Ở
địa vị Thập tín, chúng sanh biết mình thanh tịnh nhưng bị cái biết
ấy làm chướng ngại.
“Bồ tát chưa lìa giác”
Bồ
tát ở địa vị Tam Hiền, đã trừ được Kiến giải nhưng còn phân biệt
năng giác và sở giác.
“Nhập địa hằng tịch diệt
Không trụ tất cả tướng”
Đây là địa vị Thập thánh đã nhập địa, không còn năng giác sở giác,
nhưng còn cái vi tế thường giác. Chỗ này rất nhỏ nhiệm, khó phát
hiện, nhưng cũng còn làm chướng ngại Viên Giác.
“Đại giác đều viên mãn
Gọi là khắp tùy thuận”.
Địa vị cao tột của Phật, hoàn toàn xả trừ tất cả Sở tri chướng vi
tế, giác ngộ viên mãn mà không cần dụng công nữa. Đây là cấp bậc tùy
thuận Viên Giác hoàn toàn, không còn có gì làm chướng ngại.
“Chúng sanh đời mạt pháp
Tâm không sanh hư vọng,
Phật nói người như thế
Hiện đời là Bồ tát
Cúng dường hằng sa Phật
Công đức đã viên mãn.
Tuy có nhiều phương tiện
Đều gọi Tùy thuận trí”.
Những chúng sanh đời mạt pháp, khi đối duyên xúc cảnh mà tâm không
khởi chấp ngã chấp pháp, Phật bảo hiện đời những vị ấy đã là Bồ tát,
từng gieo trồng công đức nhiều đời, cúng dường vô lượng chư Phật. Do
trí tùy thuận Viên Giác, các vị ấy thiết lập nhiều phương tiện giáo
hóa chúng sanh; nhưng chính các vị thì ngay trong tiệm thứ mà không
cần tiệm thứ, cũng có thể tự nhiên tùy thuận Giác tánh.
Tóm lại, trong chương này có thể phân ra ba phần :
1-
Phần đầu: Đức Phật chỉ thẳng tự tâm Viên Giác. Nếu ai nhận ra tự tâm
thì không cần trải qua thứ lớp cấp bậc tu hành.
2-
Phần giữa: Do lời thỉnh hỏi của Bồ tát Thanh Tịnh Huệ vì chúng sanh
đời mạt pháp căn cơ thấp kém, nên Phật giảng về bốn cấp bậc tu chứng
cao thấp khác nhau :
-
Phàm phu tùy thuận Viên Giác.
-
Bồ tát chưa nhập địa tùy thuận Viên Giác.
-
Bồ tát nhập địa tùy thuận Viên Giác.
-
Như Lai tùy thuận Viên Giác.
3-
Phần cuối: Đức Phật nói về hàng căn cơ Viên đốn không có tiệm thứ
vẫn tùy thuận được Giác tánh. Ngài ca ngợi những vị này hiện đời đã
là Bồ tát, đã thành tựu Nhất-thiết-chủng-trí.
Trong một chương nói về phương tiện thứ lớp tu hành mà Đức Phật lại
dành phần lớn để nói về đốn tu đốn chứng. Điều này cho thấy toàn bộ
bản kinh đều cốt chỉ thẳng tâm người. Ai trực nhận ra tự tánh đều có
thể nhanh chóng vào liền đất Như Lai. Tinh thần này rất phù hợp với
Thiền đốn ngộ. Tuy vậy, hàng trung hạ căn chúng ta cũng vẫn có phần,
vì bên cạnh đó, Đức Phật vẫn chỉ bày cặn kẽ về phương tiện và những
hạnh tu. Từ chương này và những chương về sau, chúng ta sẽ học về
những phương tiện thứ lớp tu hành. Nếu tinh tấn không lui sụt, nếu
có lòng tin vững chắc rằng mình cũng có Phật tánh, kiên trì vượt qua
bao khó khăn thử thách để vững tiến trên đường tu, thì một ngày nào
đó, chắc chắn chúng ta sẽ thành tựu đạo quả.
~~oOo~~