- ÐẠI VƯƠNG THỐNG SỬ
- MAHÀVAMSA
[1]
CHƯƠNG I
CUỘC VIẾNG THĂM CỦA ÐỨC NHƯ LAI
Cuộc viếng thăm của đức Như Lai
(Tathaagata) Sau khi làm lễ đức Chánh-giác-tôn (Sambuddha) bậc thanh tịnh, đã
sanh lên từ dòng dõi thanh tịnh, tôi xin tụng lại bộ Ðại-vương-thống-sử
(Mahaava.msa), hàm chứa nội dung phong phú và không thiếu sót. Bộ Ðại-vương-thống-sử
này được biên soạn bởi những bậc Sa-môn tiền bối, có chỗ thì được
kéo dài ra, có chỗ bị thâu ngắn lại, lại có nhiều phần lập đi lập
lại. Bây giờ xin các ngài hãy chuyên chú lắng nghe bộ Ðại-vương-thống-sử
này đã được biên soạn sau khi loại trừ các lỗi như vậy rồi, dễ hiểu
và dễ nhớ, sẽ làm khởi dậy niềm tịnh lạc và xúc động và bộ kinh
này được truyền lại đến chúng tôi do bởi truyền thống. Trong khi các
ngài làm khởi dậy niềm tín lạc và xúc động trong các ngài như vậy,
xin hãy chuyên chú lắng nghe.
Thuở xưa, bậc chiến thắng của chúng
ta trông thấy đức Chánh biến tri Nhiên-đăng (Diipa.mkara), đã phát nguyện
thành Phật hầu có thể giải thoát thế gian ra khỏi điều ác khi ngài đã
đảnh lễ dưới chân đức Chánh biến tri ấy và các vị Chánh biến tri
khác như đức Kiều-Trần-Như (Ko.n.da~n~na) Bậc hiền trí Ma-giá-Lá
(Ma.ngala) Tu-ma-na (Sumana), Ðức Chánh biến tri Ly-bà-Ða (Revata), Ðại Sa-môn
Tô-tỳ-Ða (Sobhita) Ðức Tối thắng Bạch liên (Padumuttara) Và đức như Lai
Thiện-Tuệ (sumedha) Ðức thiện sanh (Sujaata), Ðức Hỉ-kiến (Piyadassii) Và
bậc đạo sư Lợi-Kiến (Atthadassii), và đức Pháp kiến (Dhammadassii) và đức
Tất-đạt-Ða (Siddhaddha) Ðức Ðế Sa (Tissa) Và bậc chiến thắng Phất-sa-Phật
(Phussa) Ðức Tỳ-Bà-Thi (Vipassii) và đức Chánh biến tri Thi-khí (Sikhi), đức
Chánh biến tri Bì-xá-phù (Vessabhu), bậc vĩ đại, đức Chánh biến tri
Câu-lâu-tôn (Kakusandha), đức Câu-na-hàm-mu-ni (Ko.naagamana) Và đức thế tôn
Ca Diếp, khi đã làm lễ dưới chân hai mươi bốn vị Chánh biến tri này,
được các ngài thọ ký thành Phật trong tương lai ngài, bậc Ðại anh
hùng, khi đã thực hành viên mãn tất cả các pháp ba-la-mật và đạt đến
sự giác ngộ tối thượng, Ðức Phật tối thượng Gotama đã giải thoát
cho thế gian khỏi đau khổ.
Tại Ưu-lâu-tần-la (Uruvelaa), trong nước
Ma-kiệt-đà, Bậc đại Sa-môn, khi đang ngồi dưới cội cây Bồ - Ðề, chứng
đắc tối-thượng-giác vào ngày rằm của tháng tư (ÂL, Vesaakhaa). Ngài lưu
lại trong đó bảy tuần, làm chủ các căn của ngài, trong khi đó ngài tự
mình hưởng thọ sự an lạc tột bậc của pháp giải thoát và sau đó đem
lại hạnh phúc của pháp giải thoát ấy đến cho những kẻ khác. Rồi
ngài đi đến Ba-la-nại (Baaraa.nasii) và lăn bánh xe diệu pháp; và trong khi
ngài trú ngụ ở đó suốt những tháng của mùa mưa, ngài thuyết pháp đến
sáu chục người và an trú họ trong đạo quả a-la-hán. Khi ngài đã sai những
vị Tỳ khưu này ra đi để hoằng dương chánh pháp và khi ngày đã tiếp
độ cho ba mươi người bạn trong hội chúng của Bạt đà (Bhadda) khi ấy
ngài trú ngụ tạo Ưu-lâu-tần-la suốt mùa mưa, để hóa độ cho một ngàn
vị đạo sĩ tóc búi do đạo sĩ Ca diếp (Kassapa) dẫn đầu, khiến cho pháp
giải thoát trong họ được chín muồi.
Bây giờ xét thấy rằng lễ đại tế
tự do Ưu-lâu-tần-la ca-diếp đứng ra tổ chức đã gần kề, và vì ngài
thấy rằng vị đạo sĩ này hoan hỷ để ngài ra đi, nên đức Thế tôn, Bậc
chiến thắng kẻ thù bèn đi khất thực ở Bắc cu-lộ-châu, và khi ngài đã
độ thực gần hồ A-nâu-đạt-trí (Anotatta), vào tháng thứ chín sau khi
ngài thành Phật, nhằm ngày rằm của tháng mười hai (âm lịch Báo-sa-nguyệt),
tự thân ngài ra đi đến đảo Tích Lan (La.nka) để làm thanh tịnh xứ
Tích Lan. Vì bậc chiến thắng đã biết xứ Tích Lan là nơi để giáo pháp
của ngài chiếu sáng trong vinh quang rực rỡ; và ngài biết rằng xứ Tích
Lan có nhiều dạ xoa, và những dạ xoa ấy trước hết phải bị đuổi đi
khỏi xứ Tích Lan.
Và ngài cũng biết rằng ở giữa đảo
Tích Lan này, trên bờ sông xinh đẹp, trong khu rừng Ðại-Long-Lâm viên
(Mahaanaaga) khả ái, dài ba do tuần và rộng một do tuần, có một đại chúng
dạ xoa đang trú ngụ trên đảo này. Ðức thế Tôn đi đến đại chúng dạ
xoa này, và ở đó giữa đại chúng ấy, khi đứng lơ lửng trong không
trung ở trên đầu của chúng, chỗ ấy về sau gọi là Ðại-Hằng-giang-bảo
tháp (Mahiya.nganathuupa), ngài làm cho chúng kinh hãi bằng cách tạo ra mưa bão,
bóng tối vân vân. Những dạ xoa đầy khiếp đáp, bèn cầu xin bậc Chiến
thắng vô úy giải thoát cho chúng khỏi những nỗi sợ hãi, và bậc chiến
thắng, bậc đoạn trừ sợ hãi, nói với những dạ xoa bị kinh hãi như vậy:
"này các dạ xoa, Như Lai sẽ xua tan nỗi sợ hãi khổ ưu này của các
ngươi, nhưng các ngươi phải đồng lòng cho ta một chỗ khả dĩ ta có thể
ngồi." Các dạ xoa đáp lời đức thế tôn như vầy: "Bạch đức
thế tôn, chúng tôi sẽ cho ngài ngay cả đảo này của chúng tôi. Hãy giải
thoát cho chúng tôi khỏi nỗi sợ hãi." Rồi sau đó, khi ngài đoạn trừ
nỗi kinh hãi trong chúng, cơn lạnh buốt và bóng tối, và đã trải tấm da
của ngài trên đất mà chúng đã dâng đến ngài, bậc chiến thắng, khi ngồi
ở đó, khiến cho tấm tọa cụ giãn rộng ra, trong khi đó quanh tấm tọa cụ
là ngọn lửa đang cháy rực Bị đe dọa bởi sức nóng của ngọn lửa
đang cháy và đầy nỗi kinh hoàng, chúng đứng quanh ở ngoài đường ranh.
Rồi bậc giải thoát khiến cho sơn đảo (Giridiipa) đến đây gần với
chúng, và khi chúng đã dị định cư ở đó, ngài thân tấm tọa cụ ấy
trở lại chỗ cũ của nó. Rồi bậc giải thoát xếp lại tấm tọa cụ bằng
da của ngài, Chư thiên cu hội và trong hội chúng ấy, bậc Ðạo sư thuyết
giảng chánh pháp đến họ. Có nhiều lo?i chúng sanh tỏ ngộ chánh pháp,
chúng sanh quy y tam bảo và thọ trì ngũ giới không xiết kể.
Vị thiên tử Ðại Tu-ma-na
(Mahaasumanaa) ở trên núi Tu-ma-na-cứu-la (Sumanakuu.ta), đã chứng đắc quả
thánh tu-đà-huờn, muốn xin bậc ứng cúng một cái gì đó của ngài để
tôn thờ. Bậc chiến thắng, bậc đem lại lợi ích cho chúng sanh, bậc có
mái tóc màu đen huyền và thuần khiết, đưa tay lên đầu của ngài và ban
cho vị thiên tử kia một nắm tóc của ngài. Và vị thiên tử kia, khi thọ
nhận nắm tóc này trong một cái hủ bằng vàng sáng chói, khi vị ấy đã
đặt những sợi tóc ấy trên đống châu ngọc đa sắc có chu vi bảy hắc
tay, đống châu ngọc ấy được chất chồng ở chỗ bậc đạo sư đã ngồi,
trùm lên đống châu ngọc bằng một bảo tháp được làm bằng ngọc bích
và tôn thờ những sợi tóc ấy.
Khi Ðức Chánh biến tri đã viên tịch,
vị trưởng lão tên là sa-la-phù (Sarabhu), là đệ tử của trưởng lão
Saariputta, đã dùng thần thông của mình nhận lấy một cánh xương đòn của
bậc Chiến thắng ngay trên hỏa đài và đem cánh xương ấy đến đảo Tích
Lan này, và cùng với những vị Tỳ khưu đứng quanh vị ấy, tại đó trưởng
lão đã tôn trí xương ấy vào trong cùng bảo tháp ấy, phủ lên xương ấy
bằng những viên sỏi màu vàng, rồi sau đó vị trưởng lão ấy, sau khi đã
làm cho bảo tháp ấy cao mười hai hắc tay, bèn trở về lại. Ðứa con
trai của người anh (em) của vua Thiên-ái-đế-tu (Devaanampiyatissa), tên là
Uddhacuu.laabhaya trông thấy bảo tháp kỳ diệu ấy và lại đắp lên nó và
làm cho bảo tháp ấy cao ba mươi hắc tay. Vua Du.t.thagaama.ni, khi đang trú ngụ
ở đó trong thời gian đánh nhau với những người Ðà-mi-la (dami.la), đã
cho xây dựng một lớp bọc ngoài bảo tháp ấy cao tám mươi hắc tay. Bảo
tháp Ðại-hằng-giang được hoàn thành như thế. Khi Ngài đã làm cho đảo
của chúng ta trở thành chỗ thích hợp cho loài người trú ngụ, bậc lãnh
đạo vĩ đại, dũng cảm như các bậc đại anh hùng, bèn trở lại Ưu-Lâu-Tần-La.
CUỘC VIẾNG THĂM ÐẾN ÐẠI HẰNG
GIANG (MAHIYA.NGA.NA) CHẤM DỨT Ở ÐÂY.
Bây giờ Bậc Ðạo Sư có lòng Ðại
bi, Bậc chiến thắng, đang hoan hỷ cứu độ toàn thế gian, khi đang ngụ
ở Jetavana vào năm thứ năm sau khi ngài thành Phật, thấy rằng một cuộc
chiến tranh, gây ra bởi chiếc ngai vàng bằng ngọc, gần như sắp xảy ra
giữa hai vị rồng Ðại-phúc long vương (Mahodara) và tiểu phúc (Cuulodara),
là hai cậu cháu và những tùy tùng của họ và Ngài, Ðức Chánh biến tri,
vào lúc sáng sớm của ngày bồ-tát uposatha thuộc tháng Chất-đa (Citta) hạ
huyền (tức ngày ba mươi tháng ba âm lịch), do lòng bi mẫn đối với các
vị rồng, đã mang y và bát và tìm đến đảo rồng (Naagadiipa, ở miền tây
bắc của nước Tích Lan).
Lúc bấy giờ chính Ðại-phúc long vương
là vua, có năng lực thần thông, ở tại cõi rồng trong đại dương, rộng
năm trăm do tuần. Em gái của vị long vương này kết hôn với một vị
long vương khác ở núi Ka.n.naayaddhamaana; con trai của nàng là tiểu phúc.
Ông ngoại của vị rồng này đã cho mẹ của vị ấy một chiếc ghế bằng
châu ngọc sáng chói, sau đó vị rồng kia chết và do vậy cuộc chiến
tranh này của người cháu và ông cậu thật đáng sợ; và các vị rồng
trên ngọn núi cũng trang bị khí giới bằng năng lực thần thông.
Vị chư thiên tên là Tam-di-đề-tu-ma-na
(Samiddhisumana) mang cây vương xứ thọ (Raajayatana) đang mọc ở Jetavana (Kỳ
viên), là chỗ ngụ khả ái của vị ấy, và khi cầm nó như một chiếc lọng
che cho bậc Chiến thắng, vị ấy ra đi cùng với bậc đạo sư, hầu ngài
đến chỗ mà trước kia vị ấy đã trú ngụ tức là (Naagadiipa). Trong - kiếp
gần nhất, chính vị chư thiên ấy đã sanh làm người tại đảo-rồng
(Naagadiipa), tại chỗ mà sau này có cây Vương xứ thọ mọc lên, vị ấy
trông thấy Phật Ðộc - giác đang thọ thực. Và khi trông thấy cảnh tượng
này, tâm của vị ấy rất vui sướng và dâng các ngài những nhánh cây để
chùi bát. Do đó người đàn ông này được - tái sanh trong cây ấy ở
trong khu vườn kỳ-viên khả ái, và về sau cây ấy đứng ở bên ngoài cổng
chùa có lỗ - châu mai, vị chúa của chư thiên thấy rằng đây là lợi
ích cho vị chư thiên ấy, và vì lợi ích sẽ sanh lên cho xứ sở của
chúng ta, bèn đem vị chư thiên ấy đến xứ - Tích Lan này cùng với cây
Ðại-thọ ấy.
Khi đứng lơ lửng ở đó trong không
trung bên trên của bãi chiến trường, bậc Ðạo sư, là Bậc đoạn trừ vô
minh, đã tạo ra bóng tối bao trùm các vị rồng. Rồi để-thoa dịu những
kẻ đang kinh hoàng khiếp đảm, một lần nữa ngài lại tỏa rộng ánh
sáng. Khi họ trông thấy Ðức-Thế-Tôn, họ vui sướng làm lễ dưới chân
Ngài. Rồi bậc Chiến thắng thuyết cho họ pháp đem lại sự hòa hợp. Sau
đó cả hai vị rồng ấy hoan hỷ dâng chiếc ngai vàng ấy đến bậc Sa-môn.
Khi bậc đạo sư đã đáp xuống trên cát, đã ngồi vào chiếc ngai ở đó,
và đã được làm thỏa mãn bằng đồ ăn và thức uống của chư thiên do
các vị long vương dâng đến ngài, Ðức-Thế-Tôn bèn an trú cho tám mươi
loại Ko.ti rồng trong tam qui và ngũ giới, họ là những vị rồng trú ngụ
ở trong đại dương và trên đất khô.
Vị long vương Ma-ni-nhãn (Ma.niakkhike)
ở sông Ca-lê-gia-ni (Kalyaanii), đối với Ðại phúc long vương là anh của
mẹ, đã đến đó để tham chiến, và lần trước khi đức Phật đi đến
lần đầu tiên, sau khi đã nghe đức Phật thuyết giảng chánh pháp, vị
ấy được an trú trong tam qui và ngũ giới, bây giờ cầu xin đức Như Lai
rằng: "Ôi bậc đạo sư! Lòng bi mẫn của ngài đối với chúng con thật
là vĩ đại! Nếu ngài không xuất hiện thì - chúng con sẽ bị thiêu đốt
ra tro bụi rồi. Cầu xin - lòng bi mẫn của ngài hãy soi sáng cho riêng con nữa
- ôi ngài, bậc có lòng từ quảng đại, cầu mong ngài hãy đến đây một
lần nữa trong xứ sở của con, hỡi đấng vô song". Khi đức Thế tôn
nhận lời đi đến đó bằng sự im lặng của ngài, Ngài trồng cây Vương-xứ-thọ
ở trên chính chỗ ấy để làm chỗ kỷ niệm thiêng liêng, và Ðức thế
Tôn của tam giới trao cây Vương-xứ-thọ và chiếc ghế ngồi bằng bảo
ngọc đến các vị long vương để họ kính ngưỡng. "Khi nhớ rằng
Như Lai đã từng xử dụng những thứ ngày, hỡi các long vương? Hãy tôn
kính đến thứ ấy. Ðiều này, rất đáng ưa thích, sẽ đem lại lợi ích
và hạnh phúc cho các người". Khi đức thế tôn đã ban bố lời này
và những lời khuyến giáo khác, Ngài, - Bậc cứu-rỗi đầy lòng bi mẫn của
tất cả thế gian, bèn trở về kỳ-viên.
CUỘC VIẾNG THĂM ÐẢO RỒNG
(NAAGA-DIIPA) CHẤM DỨT Ở ÐÂY
-ooOoo-
Vào năm thứ ba sau đó, vị long vương
Ma-ni-nhãn tìm đến đức Chánh biến tri và thỉnh mời ngài cùng với
chúng Tỳ kheo. Vào năm thứ tám sau khi ngài chứng - đắc quả Phật, khi bậc
chiến thắng đang ngụ ở kỳ-viên, Bậc Ðạo Sư ra đi cùng với năm trăm
vị Tỳ kheo, vào ngày thứ hai của tháng vesaakha xinh đẹp, nhằm lúc trăng
tròn và khi giờ thọ thực đã được công bố, Bậc Chiến-Thắng, chúa tể
của các bậc trí tuệ, cùng với chúng tỳ kheo khi mặc vào chiếc y ngài
và mang bát, bèn đi cùng với chúng Tỳ kheo đi đến vùng Ca-lê-gia-ni
(Kalyaanii), là chỗ ở của Long Vương Ma-ni-nhãn. Dưới cái lọng có cẩn
những viên ngọc được che trên chỗ mà sau này bảo tháp Ca-lê-gia-ni được
dựng lên, cùng với chúng Tỳ kheo, Ngài chọn chỗ ngồi của ngài trên chiếc
ngai bằng ngọc và vị long vương với tùy tùng của vị ấy rất hoan hỷ
cúng dường vật thực chư thiên gồm cả loại cứng và loại mềm, đến
đấng Pháp Vương, bậc Chiến-Thắng, với tăng chúng của ngài.
Khi bậc đạo sư, bậc có lòng bi mẫn
đối với toàn thể thế gian, đã thuyết pháp ở đó, Ngài, Bậc Ðạo sư
bèn đứng dậy, và để lại những dấu chân của ngài hiện rõ trên xứ
tu-ma-na-cứu-la (sumanakuu.ta), và khi ngài đã trải qua thời gian của ngài đến
thỏa thích dưới chân núi, ngài cùng với chúng Tỳ kheo lên đường đi đến
Trường-trì (diighavaapi). Và ở đó bậc Ðạo sư cùng với chúng Tỳ kheo
ngồi ở chỗ mà sau này có dựng lên bảo tháp, và nhập vào đại định,
để thánh hóa chỗ ấy rồi B?c Ðại Sa-môn đứng dậy khỏi chỗ ấy, và
khi biết rõ những chỗ nào thích hợp và những chỗ nào không thích hợp,
Ngài đi đến chỗ mà sau này gọi là Ma-ha-ni-già-lâm-viên
(Mahaaneghavanaaraama), sau khi ngài ngồi cùng với chúng đệ tử của ngài ở
chỗ mà sau này có cây Bồ-đề, bậc Ðạo sư nhập vào đại định, và cũng
như thế ở chỗ mà về sau có đại-bảo-tháp (Mahaathuupa) và cũng tại chỗ
mà sau này có dựng lên bảo tháp trong tịnh xá Tháp viên (thuupaaraama). Rồi
khi ngài đã xuất định, Ngài đi đến chỗ về sau là bảo tháp
Siilaacetiya (thạch-tháp), và sau khi Bậc lãnh đạo tăng già thốt lên lời
khuyến giáo đến thiên chúng, Ngài, bậc giác ngộ, người đã đi qua tất
cả các con đường giác ngộ, bèn trở về kỳ viên.
Như vậy bậc đạo sư có trí tuệ
vô biên, khi thấy trước sự cứu rỗi cho xứ tích-lan, trong thời gian về
sau, và cũng biết rõ trong thời gian ấy sẽ có lợi ích cao tột cho những
hội chúng A-tu-la và rồng, tại Tích Lan, đã đến viếng thăm hải đảo
xinh đẹp này trong ba lần, - ngài, bậc có lòng bi mẫn khai ngộ cho thế
gian; - do đó hải đảo này sáng chói bằng ánh sáng của chánh pháp đã trở
thành thánh địa đối với - những tín đồ mộ đạo.
CUỘC VIẾNG THĂM CA-LÊ-DA-NI CHẤM DỨT
Ở ÐÂY
Chương thứ nhất, được gọi là
"Cuộc viếng thăm của Ðức Như Lai", trong bộ Ðại vương thống
sử, được biên soạn vì niềm tín lạc và xúc động của những người
mộ đạo, chấm dứt ở đây.
-ooOoo-
CHƯƠNG II
DÒNG DÕI CỦA
MAHÀSAMMATA
(MA-HA-TAM-MA-ÐA VƯƠNG-THỐNG)
Xuất thân từ dòng dõi của vua
Mahaasammata là bậc Ðại-Sa-môn. Vì trong thời kỳ mở đầu này của thế
giới có một vị vua tên là Mahaasammata, và hai vị vua là Roja và Varayoja,
và hai vị vua mang tên Kalyaa.naka (là Kalyaana và Varakalyaana), Uposatha và
Mandhaataa và hai vị, Caraka và upacara, Cetiya và Mucala và người mang tên
Mahaamucala, Rucalinda và Saagara và người mang tên Saagaradeva; bharata và
A"ngiirasa và Ruci và Suruci nữa, Pataapa và Mahaapataapa và hai vị Panaada nữa,
Sudassana và Neru, hai và hai (nghĩa là Panaada và Mahaapanaada, Sudassana và
Mahaasudassana, Neru và Mahaanesu); lại thêm Accimaa. Những đứa con trai và những
đứa cháu nội của vị ấy, hai mươi tám vị hoàng tử này có mạng sống
lâu dài không tính được, sống tại Kusaavaatii, Raajagaha và Mithilaa. Rồi
theo sau là một trăm vị vua, rồi đến năm mươi sáu, rồi đến sáu mươi,
tám mươi bốn nghìn, rồi đến ba mươi sáu nữa, ba mươi hai, hai mươi tám,
rồi hai mươi tám nữa, mười tám, mười bảy, mười lăm, mười bốn, chín,
bảy, mười hai rồi lại mười hai, và lại chín và tám mươi bốn ngàn dẫn
đầu là Makhaadera, và lại thêm tám mươi bốn ngàn dẫn đầu là
Kalaarajanaka; và mười sáu cho đến Okkaaka; những vị vua nối dòng này của
Mahaasammata trị vì trong những nhóm theo thứ bậc của họ, mỗi vị ở
trong một kinh đô riêng.
Hoàng tử Okkaamukha là con trai đầu của
vua Okaaka; Nipuna, Candimà, candamukha, và Sivisa.mjaya, đại vương Vessantara,
jaali Siiha-vaahana và Siihassara; đây là những người con và cháu của vị
ấy. Tính ra có tám mươi hai ngàn con và cháu của vua Siihassara; jayasena là
người cuối cùng trong bọn họ. Họ được biết đến là những vị vua
Sakya ở thành kapilavatthu. Ðại vương Siihahana là con trai của vua Jayasena,
và con gái của Jayasena tên là Yasodharaa. Ở Devadaha có một vị hoàng tử
tên là Devadahassakka, hai người con của vị ấy A~njana và Kaccaanaa, kaccaanaa
là đệ nhất chánh hậu của Siihahanu, nhưng hoàng hậu của A~njana là
Yasodharà. Aĩjara có hai người con gái là Maayaa và Pajaapaatii, và cũng có
hai người con trai nữa là Da.n.dapàni và Suppabuddha. Nhưng Siihahanu thì có năm
người con trai và hai người con gái: là Suddhodana, dhotodana, Sakka - Sukka, và
Amitodana, và Amità và pamità; đây là năm đứa con trai và hai người con gái.
Bà chánh hậu của Sakka Suppabuddha là
Aamità: bà có hai đứa con là: Bhaddakaccaanaa và Devadatta. Mayaa và Pajaapaatii
và những hoàng hậu của Suddhodana, và người con trai của đại vương
Suddhodana và Mayaa là bậc chiến thắng của chúng ta.
Từ dòng dõi này của Mahaa sammata, nối
tiếp như vậy, không bị gián đoạn, có sanh lên bậc đại Sa-môn, là-người
đứng đầu trong tất cả những người thuộc dòng cao quí vua chúa. Bà
chánh hậu của hoàng tử Siddhatha, tức bồ-tát, là Bhaddakaccaanaa; con trai của
bà là - Raahula.
Bimbisaara và hoàng tử Siddhatha là đôi
bạn, và phụ vương của hai người là đôi bạn. Bồ tát lớn hơn
Bimbisaaraa năm tuổi. Vị ấy ra đi khỏi hoàng cung lúc hai mươi chín tuổi.
Khi ngài đã phấn đấu khổ hạnh trong sáu năm và sau đó chứng đắc Nhất
thiết trí, ngài viếng thăm Bimbisaara, lúc ấy ngài được ba mươi lăm tuổi.
Vua Bimbisaara, người có giới đức được phong vương vào lúc mười lăm
tuổi và mười sáu năm đã trôi qua kể từ khi vị ấy lên ngôi vua, Bậc
đạo sư thuyết giảng giáo pháp của ngài, Ðức vua cai trị được năm
mươi hai năm; - mười lăm năm trôi qua trước khi gặp bậc chiến thắng,
tuy nhiên ba mươi bảy năm trị vì còn lại vị ấy thực hành theo giáo
pháp của đức Tathaagata (Như Lai).
Ðứa con trai của Bimbisaara, là kẻ cuồng
dại Ajaatasatu, đã trị vì ba mươi hai năm sau vị ấy, là kẻ phản bội,
đã giết cha mình. Vào năm thứ tám của Ajaatasattu, bậc đại Sa-môn nhập
đại Niết-bàn và sau đó vị ấy, tức là Ajatasattu, vẫn còn trị vì
thêm hai mươi bốn năm nữa.
Ðức Tathaagata, người đã đạt đến
đỉnh cao của tất cả ân đức, từ bỏ thọ mạng của ngài, mặc dầu tự
tại giải thoát, cũng phải đi vào quyền lực vô thường. Người ta suy xét
pháp vô thường đem lại sự khiếp đảm sẽ đạt đến sự, chấm dứt
đau khổ.
Ở đây chấm dứt chương hai, được
gọi là: "Dòng dõi của Mahaasammata", trong bộ Mahaava.ma, được biên
soạn vì niềm tín lạc và xúc động của những người mộ đạo.
-ooOoo-
CHƯƠNG III
CUỘC KIẾT TẬP
LẦN THỨ NHẤT
Khi bậc chiến thắng, Bậc Vô song, bậc
có ngũ nhãn đã sống đến tám mươi bốn tuổi và đã làm tròn tất cả
- những phận sự của Ngài trong thế gian về tất cả mọi phương diện,
sau đó tại kusimaara trong vùng đất thiên giữa hai cây sala, vào ngày rằm
của tháng vesaakha, ánh sáng của thế gian bị diệt tắt.
Các vị Tỳ kheo số lượng không kể
xiết, đã cu hội ở đó và những vị Sát-đế-lỵ và Bà-la-môn Vessa và
Sudda và chư thiên nữa, trong số đó có bảy trăm ngàn vị Tỳ khưu lãnh
đạo, trưởng lão Mahaakassapa lúc bất giờ là - Sanghatthera (tăng-trưởng).
Khi đã thực hành tất cả mọi nghi
thức xứng đáng với nhục thân của bậc đạo sư và Xá Lợi của ngài,
vị đại trưởng lão, vì muốn giáo pháp của ngài được tồn tại lâu
dài, nên bảy ngày sau khi đức thế tôn, đấng Thấp Lực đã viên tịch
khi chợt nhớ ra những lời nói ác của vị sư già Subhadda và cũng nhớ ra
rằng Bậc Ðạo Sư đã cho trưởng lão chiếc y của ngài, và vì thế khiến
cho trưởng lão ngang hàng với chính ngài, và cũng nhớ ra rằng Bậc Sa-môn
đã yêu cầu thành lập chánh pháp và cuối cùng là sự đồng ý của đức
Chánh biến tri đã hiện diện để cho phép kiết tập chánh pháp. Ðể thực
hiện cuộc kiết tập này, ngài cũng đã chỉ định trước năm trăm vị Tỳ
khưu - tối thắng, là những bậc đã đoạn trừ các lậu hoặc, đứng ra
tụng đọc lại chín phần giáo pháp, các ngài cũng đã thông suốt các chi
phần riêng biệt của giáo pháp; - nhưng chỉ có bốn trăm chín mươi chín
vị do thiếu trưởng lão Aanada. Và trưởng lão aananda cũng được các vị
Tỳ khưu thỉnh cầu nhiều lần nên đã quyết định tham dự với các vị
Tỳ khưu này trong cuộc kiết tập giáo pháp vì không có trưởng lão
Aananda thì không thể được.
Khi những vị trưởng lão này có
lòng bi mẫn đối với toàn thể thế gian đã trải qua nửa tháng bảy
ngày làm lễ trà tỳ và bảy ngày làm lễ cúng dường Xá lợi và đã quyết
định như vầy: "Khi trải qua mùa mưa tại Raajagaha, chúng ta sẽ thực
hiện cuộc kiết tập chánh pháp. Những vị Tỳ khưu khác không được phép
trú ở đó", và khi các ngài đã đi hành hương khất thực khắp xứ
Jampudiipa, làm nguôi ngoai cho những người đang sầu khổ ở chỗ này chỗ
kia, các ngài, khi đã khởi lên ước muốn mong cho thiện pháp được tồn
tại lâu dài, trong thời gian của nửa tháng thượng huyền Aasaa.lha (tháng
sáu âm lịch) các ngài đi đến Raajagaha, là thành phố có đầy đủ bốn
món vật dụng.
Sau khi các vị trưởng lão, dẫn đầu
là trưởng lão Mahaakassapa, có giới đức bất động, quen thuộc bới tâm
của Ðức Chánh biến tri, đã đến tại vương xá thành để an cư kiết hạ
ở đó, trong tháng đầu của ba tháng mùa mưa các ngài bận rộn sửa soạn
tất cả chỗ ngụ, khi các ngài đã công bố trước điều này với
Ajaatasattu.
Khi công việc sắp xếp sửa soạn tịnh
xá đã xong, các ngài bèn nói với vua rằng "bây giờ chúng tôi sẽ tổ
chức cuộc kiết tập". Ðể trả lời câu hỏi rằng: "Cần phải
làm gì" Các ngài đáp lại rằng: "Nên cho chúng tôi một chỗ để
hội họp khi vua đã hỏi rằng: "những cuộc hội họp này sẽ được
tổ chức ở đâu?" và các ngài đã chỉ chỗ ấy, rồi đức vua tức
tốc xây dựng lên một giảng đường nguy nga tráng lệ ở một bên của
ngọn núi đá Vebhaara tại lối vào Thạch động Sattapa.n.ni, và giảng đường
ấy giống như giảng đường của chư thiên. Khi giảng đường được
trang hoàng đầy đủ, vua sai trải những tấm thảm quí giá theo số lượng
của những vị Tỳ khưu, có một bảo tọa cao quí được đặt ở phía
nam xoay mặt về hướng bắc dành cho vị trưởng lão, và ở giữa giảng
đường một chiếc ghế cao được sửa soạn dành cho vị tụng pháp
(Dhamaasana), chiếc ghế này xoay về hướng đông và xứng với Ðức Thế
tôn (Ðức Phật).
Bởi vậy vua sai người trình bạch với
các vị trưởng lão rằng, "công việc của con đã xong", và các vị
trưởng lão nói với trưởng lão Aananda, người đem lại - hoan hỷ, rằng
"này Aananda, ngày mai hội chúng sẽ cu hội; hiền giả không nên tham dự
trong cuộc họp ấy, bởi vì hiền giả vẫn còn là bậc hữu học (Sekha),
do đó hiền giả hãy phấn đấu không mệt mỏi trong thiện pháp. "Khi
bị thúc nhục như vậy, trưởng lão dốc hết tinh tấn và chứng đạt đạo
quả a-la-hán mà không ở trong một oai nghi nào của bốn oai nghi.
Vào ngày thứ hai của tháng thứ hai của
mùa mưa, các vị Tỳ khưu cu hội trong giảng đường nguy nga tráng lệ ấy
khi để trống một chỗ thích hợp dành cho Aananda, các vị A-la-hán ngồi
vào những chiếc ghế của họ, theo thứ bậc. Trưởng lão Aananda, vì muốn
cho các ngài biết rằng trưởng lão đã chứng đắc đạo quả A-la-hán
nên không đi đến đó chung với các ngài. Nhưng khi một số vị hỏi rằng:
Trưởng lão Aananda ở đâu? khi bay lên khỏi đất đi xuyên qua hư không trưởng
lão Aananda đã ngồi vào chỗ ngồi dành cho mình.
Các vị trưởng lão đồng lòng chọn
trưởng lão Upaali đảm nhiệm tạng luật (Vinaya), các ngài chọn trưởng lão
Aananda đảm nhiệm phần còn lại của giáo pháp (Dhamma). Ðại trưởng lão
Mahaakassapa tự mình đảm nhận công việc cật vấn những câu hỏi liên
quan đến Tạng luật và trưởng lão Upaali sẵn sàng giải thích.
Khi ngồi trên chiếc ghế của vị trưởng
lão, trưởng lão Mahaakassapa hỏi trưởng lão Upaali những câu hỏi về tạng
luật và trưởng lão Upaali, khi ngồi trên chiếc ghế của vị tụng pháp,
trình bày vấn đề đã được hỏi. Và khi vị trưởng lão tối thắng về
tạng luật này trình bày - mỗi điều khoản, lần lượt tất cả các vị
Tỳ khưu rành luật, đều tụng lại điều khoản ấy theo sau trưởng lão.
Rồi trưởng lão Mahaakassapa tự đứng
ra đảm nhận công việc cật vấn những câu hỏi liên quan đến pháp
(dhamma) đến người tối thắng nhất trong những vị Tỳ khưu thông suốt
Phật-ngôn thường xuyên nhất, người giữ kho tàng Chánh pháp cho Bậc Ðại
Sa-môn (Ðức Phật); và trưởng lão Aananda, khi đứng ra đảm nhận trọng
trách, ngồi vào chiếc ghế của vị tụng pháp, trình bày toàn thể giáo
pháp (dhamma). Và tất cả những vị trưởng lão rành mạch tất cả những
gì trong giáo pháo lần lượt tựng theo sau bậc Sa-môn của xứ Videha.
Như vậy trong bảy tháng cuộc kiết tập
Dhamma (giáo pháp) đem lại sự cứu rỗi cho toàn thể thế gian đã được
hoàn thành do bởi những vị trưởng lão nhất quyết đem lại sự cứu rỗi
cho toàn thể thế gian. "Trưởng lão Mahaakassapa đã làm cho Bức thông
điệp của Ðức Phật được tồn tại năm trăm năm", vào lúc kết
thúc cuộc kiết tập, vui mừng với ý nghĩ này, quả đất, được bao
quanh bởi đại dương, đã chấn động đến sáu lần và nhiều hiện tượng
kỳ diệu cũng hiển lộ trong thế gian bằng nhiều cách. Bấy giờ xét thấy
rằng tam tạng đã được kiết tập bởi những vị trưởng lão nên được
gọi là truyền thống của trưởng lão. Những vị trưởng lão sau khi đã
thực hiện cuộc kiết tập lần thứ nhất và nhờ đó đem lại an lạc to
lớn cho thế gian, sau khi đã sống hết thọ mạng của các ngài, tất cả
đều nhập Niết bàn.
Cũng vậy, những vị trưởng lão đã
đẩy lùi bóng tối bằng ánh sáng của tuệ quán, những ngọn đèn vĩ đại
- đang chiếu sáng ấy chinh phục bóng tối của thế gian, cũng đã bị cơn
bão hãi hùng của thần chết dập tắt rồi. Do đó bậc có trí tuệ hãy
quyết tâm từ bỏ hỷ lạc của đời sống.
Ở đây chấm dứt chương thứ ba,
được gọi là "Cuộc kiết tập lần thứ nhất", trong hộ
Mahaava.msa, được biên soạn vì niềm tín lạc và xúc động của những
người mộ đạo.
-ooOoo-
CHƯƠNG IV
CUỘC KIẾT TẬP
LẦN THỨ HAI
Khi đứa con trai Udayabhaddaka của
Ajaatasattu đã giết chết cha của mình, vị vua này, là kẻ phản bội trị
vì được mười sáu năm. Con trai của Udayabhaddaka, là Anuruddhaka, cũng giết
chết cha của mình và con trai của Anuruddhaka tên là Mu.n.da cũng làm như thế.
Những kẻ phản bội ngu si, hai người con này trị vì vương quốc; dưới
triều đại của hai vị vua này tám năm đã trôi qua.
Ðứa con trai của Mu.n.da là
Naagadaasaka đã giết chết cha của mình và sau đó kẻ làm ác kia trị vì
hai mươi bốn năm.
Rồi dân chúng phẫn nộ nói rằng,
"đây là một triều đại của những kẻ giết cha", và khi họ đã
trục xuất vua Naagadaasaka rồi, họ tụ họp lại và vì vị quan được biết
đến qua cái tên là Susunaaga tỏ ra xứng đáng, nên họ tôn phong vị quan
này lên làm vua, là người biết quan tâm đến lợi ích của tất cả mọi
người. Vị ấy làm vua trị vì được hai mươi tám năm. Vào cuối của năm
thứ mười dưới triều đại của vua Kaakaasoka thì một thế kỷ đã đi
qua từ lúc Ðức Chánh biến tri nhập Niết bàn.
Lúc bấy giờ tại Vesaali có nhiều vị
Tỳ khưu thuộc bộ tộc Vajjii đã không biết xấu hổ mà giảng dạy mười
điều cho là hợp pháp, đó là, "muối đựng trong cái sừng",
"bề rộng của hai ngón tay", "việc đi vào làng", "sự
trú ngụ", "sự đồng ý", "noi gương theo", "sữa
chua được đánh lên", "rượu thốt nốt chưa lên men", "tọa
cụ không có viền", "vàng bạc vân vân".
* * *
MƯỜI ÐIỀU SỬA ÐỔI
CỦA NHỮNG TỲ KHƯU VAJJI
(1) Si"ngilonakappa, điều lệ bỏ
muối vào trong cái ống bằng sừng, để gia vị cho những loại vật thực
không có muối, khi đã thọ lãnh.
(2) Dva"ngulakappa, điều lệ thọ
thực trong bữa ăn trưa ngay cả sau giờ quy định, chừng nào bóng của mặt
trời chưa xế quá hai ngón tay bề rộng.
(3) Caamantarakappa, điều lệ cho phép
đi vào làng sau bữa ăn, và ở đó ăn nữa, nếu được mời.
(4) Aavaasakappa, điều lệ cho phép những
vị Tỳ khưu ở trong cùng một vùng (district) làm lễ phát lồ (uposatha)
riêng.
(5) Anumatikappa, được phép làm tăng sự
trong điều kiện số tăng hội bị thiếu, giả sử rằng sau này được sự
đồng ý của những vị Tỳ khưu vắng mặt.
(6) Aacinnakappa, điều lệ cho phép làm
một điều gì đó do bởi sự thực hành của ông thầy hòa thượng.
(7) Aamatikappa, được dùng sữa chưa
đánh lên ngay sau giờ ăn.
(8) Jalogikappa, được uống rượu thốt
nốt chưa lên men.
(9) Adasaka.m nisiidana.m, được dùng tọa
cụ không cần có kích thước đã qui định, nếu những tọa cụ ấy không
có viền.
(10) Jaataruuparajata.m, được thọ lãnh
vàng và bạc.
* * *
Khi điều này đến tai của trưởng lão
Yasa, là con trai của vị Bà-la-môn Kaaka.ndaka, là vị trưởng lão có lục
thông, khi đang đi du hành trong xứ Vajji, ngài đi đến tịnh xá Mahaavana với
quyết định ổn định lại vấn đề. Trong nhà làm lễ phát lồ, những vị
Tỳ khưu ấy đã đặt một bình nước - bằng kim loại và để đầy nước
rồi nói với những người cận sự rằng: "hãy cho chư tăng những
Kahaapana (những đồng tiền vàng) v.v...". Trưởng lão bèn ngăn cấm họ
bằng những lời này "Ðiều này là phi pháp, đừng cho gì cả!" rồi
họ hăm dọa trưởng lão bắt sám hối gọi là sám hối những người cư
sĩ (Pa.tisaranakamma). Trưởng lão yêu cầu một vị sư đi chung cho có bạn
và đi với vị sư ấy vào thành phố để công bố với dân chúng rằng sự
giảng dạy của ngài là phù hợp với pháp (dhamma).
Khi các vị Tỳ khưu nghe qua điều mà
vị sư đi chung với trưởng lão Yasa đã phải nói ra, họ bèn đi đến để
lôi vị ấy ra và bao vây quanh nhà của trưởng lão. Trưởng lão rời khỏi
ngôi nhà ấy, bay bổng lên và đi xuyên qua hư không, rồi khi ngừng lại
ở Kosambi, trưởng lão lập tức sai những người đem tin đến - những vị
Tỳ khưu ở Paavaa và Avanti, còn chính trưởng lão thì ngài đi đến núi
Ahoga"nga và kể lại tất cả mọi chuyện với trưởng lão Sa.mbhuuta
Saa.navaasi.
Sáu mươi Ðại trưởng lão từ Paavaa
và tám mươi vị từ Avanti, tất cả đều đã thoát khỏi các lậu hoặc,
cùng nhau cu hội trên núi Ahoga"nga. Những vị Tỳ khưu đã đến cu hội
ở đây từ khắp mọi nơi, tất cả có chín chục ngàn vị. Khi tất cả
các ngài đều bàn bạc với nhau và khi biết vị trưởng lão đa văn Revata
của xứ Soreyya là bậc đã đoạn trừ các lậu hoặc, là người lãnh đạo
của các ngài trong thời gian bấy giờ, các ngài bèn đi khỏi đó để tìm
vị trưởng lão ấy.
Khi trưởng lão nghe được quyết định
này bằng thiên nhãn của ngài, vì muốn ra đi dễ dàng, ngài bèn lập tức
khởi sự chuyến đi bằng con đường đến Vesaalii. Trải qua ngày này đến
ngày khác, khi đến vào lúc chiều tại chỗ mà vị Sa môn đã ra đi vào
lúc sáng, cuối cùng các vị trưởng lão cũng gặp ngài tại Sahajaati.
Tại đó trưởng lão Yasa, khi đã được
trưởng lão Sa.mbhuuta ta giao làm công việc, vào lúc cuối của thời tụng
Phật ngôn, khi nói với trưởng lão Revata, đã hỏi vị ấy về mười quan
điểm. Trưởng lão phủ nhận mười quan điểm ấy, và khi trưởng lão
Yasa nghe qua lời phủ nhận ấy, ngài bèn nói rằng, "chúng ta hãy chấm
dứt - cuộc tranh luận này".
Những vị Tỳ khưu tà-kiến cũng vậy,
để dành sự hậu thuẫn, bèn tìm đến trưởng lão Revata, sau khi sửa soạn
- nhiều vật dụng cần thiết dành cho Sa-môn, họ tức tốc xuống thuyền
và đi đến Sahaajaati, để ban bổ vật thực một cách dồi dào trong giờ
thọ thực.
Trưởng lão Saa.lha, người đã đoạn
trừ các lậu hoặc, sống tại Sahajaati, khi đã suy xét về vấn đề ấy,
biết được rằng, "những vị Tỳ khưu ở Paavaa thọ trì Chánh
pháp" và vị đại phạm thiên đến gần vị trưởng lão và nói rằng,
"ngài hãy đứng vững trong chánh pháp", và trưởng lão đáp lại rằng
ngài vẫn thường đứng vững trong chánh pháp.
Những vị Tỳ khưu Vajji, mang những vật
dụng cần thiết mà họ đã đem đến để làm vật thí và tìm đến trưởng
lão RPevata, nhưng trưởng lão không đứng về phe họ và đuổi người đệ
tử của mình đã theo phe họ. Từ đó họ đi đến Vesaalii, những người
không biết xấu hổ ấy đã đi từ đó đến xứ Pupphapura, và tâu lên vua
Kaakaasoka rằng, "để bảo vệ hương phòng của bậc Ðạo Sư của chúng
tôi, chúng tôi trú ngụ ở trong tịnh xá Mahaavana trên dải đất Vajji;
nhưng những vị Tỳ khưu trú ngụ ở miền quê đang đi đến, tâu đại
vương, với ý nghĩ rằng: chúng ta sẽ dành lấy tịnh xá ấy cho chúng ta.
Xin Bệ hạ hãy ngăn cấm họ!".
Khi họ đã lừa dối đức vua như vậy
rồi, họ trở về Vesaalii. Ở đây tại Sahaajaati có mười một trăm và
chín chục ngàn vị Tỳ khưu đã cu hội dưới sự chủ tọa của trưởng
lão Revata, để làm chấm dứt cuộc tranh luận một cách êm đẹp. Và trưởng
lão không chịu kết thúc cuộc tranh luận trừ khi có sự hiện diện của
những người gây nên xung đột; do đó các vị Tỳ khưu đi từ đó đến
Vesaalii.
Vị vua lầm lạc cũng sai những quan
thần đi đến đó, nhưng bị các vị chư thiên dẫn đi lạc đường nên họ
đi đến một chỗ khác. Và vị hoàng đế này, khi đã cho họ đi rồi
trong đêm ấy, nằm mộng thấy mình bị lôi vào địa Lohakumbhii. Ðức vua
vô cùng kinh hãi, và để làm lắng dịu những nỗi sợ hãi của vị ấy,
người em gái của vua, tên là Nandaalaa là vị trưởng lão ni đã thoát khỏi
các lậu hoặc, bèn bay xuyên qua hư không và đi đến vị ấy. "Ðây quả
thật là một điều ác mà bệ hạ đã làm! Bệ hạ hãy làm lành với những
vị Tỳ khưu đáng kính này, là những bậc có chánh kiến. Khi đứng về
phe họ, bệ hạ hãy bảo vệ chánh pháp của họ. Nếu bệ hạ làm như vậy,
thì thật hữu phúc thay cho bệ hạ!" vị trưởng lão ni đã nói như vậy
và sau đó biến mất, và vào lúc sáng sớm đức vua đi ngay đến vesaalii.
Vị ấy đi đến tịnh xá Mahaavana, triệu tập tất cả các vị Tỳ khưu tại
chỗ đó, và khi vua đã nghe qua những lời đã được nói ra bởi cả hai
phe đối nghịch, và đã tự phân xử phần thắng cuộc, về chánh pháp, hơn
nữa khi vị hoàng tử này đã làm lành với những vị Tỳ khưu chánh kiến
và đã công bố rằng vị ấy đứng v? phe chánh pháp, Vị ấy nói rằng:
"các ngài hãy làm điều gì mà các ngài cho là thiện để bành trướng
giáo pháp", và khi đức vua đã hứa làm người bảo vệ các ngài, vị
ấy trở về kinh đô của mình.
Sau đó chư tăng cu hội lại để quyết
định những quan điểm ấy. Rồi, trong chúng tỳ kheo, những lời nói vô cơ
sở đã bị bác bỏ. Sau đó trưởng lão Revata đi vào giữa tăng chúng, quyết
định giải quyết vấn đề dựa vào điều luật Ðoạn-Sự-nhân
(Ubbaahika). Ngài chỉ định bổn vị Tỳ khưu miền đông, và bốn vị Tỳ
khưu miền đông, và bốn vị từ Paavaa, để thực hiện Ubaahina là quyết
định ngưng cuộc tranh luận. Sabbakaami và Sa"nha, một vị tên là
Khujjasobhita, và Vaasabbagaamika, đây là những vị trưởng lão từ miền đông
đến Revata, Yama, con trai của kaaka~nđaka và Sumana, đây là bốn vị trưởng
lão từ Paavaa đến.
Bấy giờ để quyết định những
quan điểm ấy, tám vị trưởng lão đã thoát khỏi những lậu hoặc, đi
đến chùa Vaalikaaraamaa yên tịnh và vắng vẻ. Ở đó tại chỗ khả ái
xinh đẹp được chàng trai Ajita sửa soạn dành cho các ngài, những vị trưởng
lão đã trứ ngụ, họ là những người biết tâm của bậc Ðại Sa-môn vĩ
đại nhất. Và đại trưởng lão Revata, rành mạch về câu hỏi, đã hỏi
trưởng lão Sabbakaami lần lượt mỗi điều trong những quan điểm ấy. Ðược
hỏi như vậy, trưởng lão Sabbakaami đưa ra lời quyết định như vậy:
"tất cả những quan điểm này đều phi pháp đối với truyền thống".
Và khi, các ngài đã kết thúc công việc của các ngài theo đúng thứ tự,
các ngài làm lại tất cả bằng cách tương tự tức là vấn và đáp, trước
sự hiện diện của chúng tăng. Và như vậy những vị đại trưởng lão
đã bác bỏ lối thuyết giảng của mười ngàn vị Tỳ khưu tà kiến là
những kẻ đã duy trì mười quan điểm ấy.
Bấy giờ Sabbakaami là tăng trưởng
(Sa.mghatthera) trên quả đất, ngài sống đến một trăm hai mươi tuổi kể
từ khi ngài thọ cụ túc giới.
Sabbakaani và Saa.lha, Revata,
Khujjasobhita, Yasa, con trai của Kaaka.n.daka, và Sa.mbhuuta Saa.navaasika, sáu vị
trưởng lão, là những vị đệ tử của trưởng lão Aananda; nhưng Vaasabba
gaamika và Sunana, hai vị trưởng lão, là những đệ tử của trưởng lão
Anuruddha. Tám vị trưởng lão may mắn này đã trông thấy đức Tathaagata
trong quá khứ. Một trăm mười hai ngàn vị Tỳ khưu đã cu hội, và trong tất
cả những vị Tỳ khưu này, trưởng lão Revata là người dẫn đầu.
Vào thời bấy giờ trưởng lão
Revata, để tổ chức cuộc kiết tập, hầu làm cho chánh pháp được trường
tồn, đã chọn ra bảy trăm vị trong tất cả hội chúng Tỳ khưu này. Những
vị được chọn là những vị A-la-hán có tứ tuệ phân tích, hiểu rõ ý
nghĩa vân vân, thông suốt tam tạng (Tipi.taka).
Tất cả những vị trưởng lão này
cu hội tại Vaalikaaraama, được bảo vệ bởi Kaakaasoka, dưới sự lãnh đạo
của trưởng lão Revata, và đã kiết tập (biên soạn) Chánh-pháp (dhamma), bởi
vì các ngài đã thọ lãnh dhamma đã được thành lập trong thời quá khứ
rồi và công bố về sau, nên các ngài đã hoàn thành công việc trong tám
tháng.
Khi những vị trưởng lão có danh tiếng
lớn này đã tổ chức cuộc kiết tập lần thứ nhì, và bởi vì trong các
ngài tất cả mọi điều ác đã bị đoạn tận, nên đúng lúc các ngài cũng
nhập Niết bàn.
Khi chúng ta chợt nhớ đến cái chết
của những người con của bậc Ðạo-sư của tam giới, là những bậc có
tuệ quán hoàn toàn, đã chứng đắc tất cả pháp nào cần chứng đắc đã
ban những điều hạnh phúc đến chúng sanh trong tam giới, thời mong sao
chúng ta để tâm lưu ý đến tánh chất hoàn toàn hảo huyền của tất cả
pháp hữu vi và hãy nỗ lực phấn đấu hầu sớm đạt được giải thoát.
Ở đây chấm dứt chương thứ tư,
được gọi là cuộc kiết tập lần thứ hai, trong bộ Mahaava.msa, được
biên soạn vì niềm tính lạc và xúc động của những người mộ đạo.
-ooOoo-