- ÐẠI VƯƠNG THỐNG SỬ
- MAHÀVAMSA
[4]
CHƯƠNG XI
SỰ PHONG VƯƠNG
CỦA DEVÀNAMPIYATISSA
Sau khi đức vua thăng hà, người con
trai tên là Mutasiva, là con trai của hoàng hậu Suva.n.napaalii, lên kế ngôi nắm
quyền cai trị. Sự cai trị lúc bấy giờ được thanh bình. Ðức vua sai
làm khu vườn Mahaamaghavana xinh đẹp, xuất sắc về mọi phương diện,
tương xứng với cái tên của nó; có nhiều cây ăn quả và cây ra hoa. Vào
lúc mà chỗ ấy được chọn làm vườn thì có một đám mây lớn đang quần
tụ trong mùa thất thường, đổ xuống một trận mưa. Do đó người ta gọi
khu vườn ấy là khu vườn Mahaameghavana (Ðại vân lâm).
Vua Mu.tasiva trị vì sáu chục năm tại
kinh đô xinh đẹp và lộng lẫy Anuraadhapura, là bộ mặt xinh đẹp của xứ
Tích Lan. Vị ấy có mười đứa con trai, mỗi người đều ân cần lo lắng
đến hạnh phúc của những người kia, và hai người con gái có sắc đẹp
ngang nhau, xứng đáng với gia đình của chúng. Người con trai thứ hai, được
biết qua cái tên là Devaana.mpiyatissa, tối thắng hơn tất cả những anh em
của mình về giới đức và trí thông minh.
Devaana.mpiyatissa đã lên ngôi vua sau
khi phụ vương của vị ấy thăng hà. Ngay vào lễ tôn phong của đức vua,
có nhiều điều kỳ diệu xảy ra. Trong toàn thể đảo Tích Lan, những kho
báu và những châu báu đã được chôn sâu trước kia đều nổi lên trên
mặt đất. Những châu báu trong những chiếc thuyền đã bị đắm gần đảo
Tích Lan và những châu báu có tự nhiên trong đại dương cũng hiện lên
trên đất. Ở dưới chân núi chà ta có mọc lên ba cây tre, về chu vi lớn
bằng càng xe bò, Một trong ba cây, được gọi là "thân cây leo",
chiếu sáng như bạc; ở trên cây này, người ta có thể trông thấy những
cây leo khả ái lấp lánh màu huỳnh kim. Nhưng cây có tên là "thân
hoa", ở trên thân cây này, người ta có thể trông thấy nhiều loại
hoa, đủ màu sắc, đang nở rộ. Và cuối cùng cây tre mang tên là
"thân chim" ở trên đó, người ta có thể trông thấy những đàn
chim và thú đủ loại có nhiều màu sắc khác nhau, tựa như đang sống. Tám
loại ngọc trai, là ngọc trai ngựa, ngọc trai voi, ngọc trai xe, ngọc trai
Myrobalan, ngọc trai ở vòng đeo tay, ngọc trai làm nhẫn, ngọc trai hình quả
kakudha và ngọc trai thông thường cũng bò ra khỏi đại dương và nằm
trên bờ thành từng đống.
Tất cả những điều này là do quả
phước của Devaana.mpiyatissa. Người ta cũng đem đến cho đức vua những ngọc
bích, lưu li hồng ngọc, cùng nhiều loại châu báu, những ngọc trai khác
và những thân cây tre ấy.
Khi vua trông thấy thì lòng vui sướng
và nghĩ rằng: "không ai khác ngoài người bạn dhammasokaa của ta mới xứng
đáng có được những kho báu vô giá này, ta sẽ gởi tặng chúng đến vị
ấy." Ðối với hai vị hoàng đế, Devaana.mpiyatissa và Dhammasoka đã là
đôi bạn với nhau trong một thời gian dài, dầu họ không bao giờ trông thấy
nhau.
Ðức vua phái đi bốn vị sứ giả:
đứa cháu trai Mahaari.t.tha, là quan đại thần, rồi đến vị tư tế quan,
một vị quan và một người giữ kho, được theo hầu bởi một đám tùy
tùng. Vua bảo họ mang theo những châu báu vô giá, ba loại đá quí, ba thân
cây giống như càng xe bò và một cái vỏ hình trôn ốc xoắn về phía phải
cùng tám loại ngọc trai. Khi họ đã xuống thuyền tại Jampaloka, trong bảy
ngày, họ đến cảng an toàn, từ đó trong bảy ngày nữa họ đến tại
paataliputta, họ dâng những vật tặng ấy đến tận tay vua Dhammaasoka. Khi
trông thấy chúng, đức vua vô vùng vui sướng khi nghĩ rằng: "ở đây
ta không có nh?ng báu vật như thế". Vị hoàng đế, trong nỗi vui sướng
của mình, đã ban cho Ari.t.tha địa vị nguyên soái, địa vị tư tế quan
cho vị bà la môn, ban địa vị mang hiệu lịnh cho vị quan kia và địa vị
đội thương trưởng cho vị quan giữ kho.
Khi đức vua đã phân chia dồi dào tất
cả những vật tặng cho các vị quan để tỏ sự tiếp đãi họ và thêm
những chỗ ngụ. Vua bàn bạc với các quan của mình rằng nên gởi cái gì
để làm vật tặng đáp lại; Và đức vua lấy ra một cái quạt, một cái
vương miện, một cây kiếm, một cái lọng, đôi hia, khăn xếp, đồ đeo
tai, dây chuyền, bình rót, gỗ huỳnh đàn, một bộ y phục mà không cần
phải giặt giũ, một cái khăn trải bàn đắt giá, dầu xức do các vị rồng
đem đến, đất màu đỏ, nước từ hồ Anotatta và nước từ sông hằng,
một cái vỏ ốc xoắn về bên phải, một thiếu nữ đang độ xuân thì, một
vật dụng như một cái đĩa bằng vàng, một cái kiệu đắt giá, những
trái myrobalan màu vàng và những cây thuốc chữa bệnh có mùi thơm đắt giá,
sáu chục lần một trăm cổ xe hàng chứa lúa núi do những con két mang đến
đó; đúng ra, là tất cả những thứ cần thiết để làm lễ tấn phong
cho một vị vua, kỳ diệu về sự cao sang, và khi đến lúc gởi đi những
thứ này làm vật tặng cho người bạn của mình, chúa của loài người
cũng sai những sứ giả đem theo vật tặng về chánh pháp, khi nói rằng:
"tôi đã qui y tam bảo, Phật, pháp, tăng. Tôi đã nguyện làm người cận
sự nam trong giáo pháp của vị Thích tử (tức là Ðức Phật), hỡi bậc tối
thắng nhất trong nhân loại, người cũng nên cải tâm của mình. Bằng tấm
lòng tịnh tín, hãy qui y theo những báu vật tối thắng nhất này!" và
khi nói thêm rằng: "Hãy làm lễ phong vương lại cho người bạn của
trẫm", Vua cho những vị quan của vị vua bạn ra đi, Với nhiều cách
tiễn đưa long trọng.
Khi các quan đã lưu lại được năm
tháng, được trọng vọng hết sức, họ lên đường trở về cùng với những
sứ giả, vào ngày mồng một của tháng thượng huyền Vesaakha. Khi đã xuống
thuyền tại Taamalittii và đáp vào đất liền tại Jambuloka, họ tìm đến
đức vua, họ đã đến đây vào ngày thứ mười hai. Các sứ giả dâng
các vật tặng đến nhà cai trị của nước Tích Lan; Nhà cai trị của nước
Tích Lan tiếp đón họ rất nồng hậu.
Nhưng các sứ giả trung tành nhất với
vua, của họ đã làm lễ phong vương cho nhà cai trị của nước Tích Lan, lễ
phong vương đầu tiên của vị vua này đã được tổ chức vào tháng
Maggasira, vào ngày trăng mới mọc, để hoàn thành trách nhiệm được giao
phó bởi Dhammaasoka, lại tổ chức lễ phong vương cho vị vua này, vị vua
này cũng hoan hỉ với sự may mắn của nước Tích Lan.
Như vậy vào ngày trăng tròn của
tháng Vesaakhaa, bậc lãnh đạo của loài người, mà trong cái tên của vị
ấy hàm chứa những chữ "Người bạn của chư thiên", Khi ban lợi
ích cho dân chúng của mình, vị ấy tổ chức lễ phong vương tại Tích
Lan. Ở khắp mọi nơi, người ta đều tổ chức lễ hội linh đình.
Ở đây chấm dứt chương thứ mười
một, được gọi là "sự phong vương của Devaana.m.niyatissa" trong bộ
Mahaava.msa, được biên soạn vì niếm tín lạc và xúc động của những
người mộ đạo.
-ooOoo-
CHƯƠNG XII
SỰ CẢI CHÁNH
CHO NHIỀU XỨ SỞ
Khi trưởng lão Moggaliputta, người chiếu
sáng giáo pháp của bậc chiến thắng, đã kết thúc cuộc kiết tập lần
thứ ba và khi nhìn về tương lai, ngài đã trông thấy sự thành lập của
tôn giáo ở những nước lân cận, rồi vào tháng Kattika, ngài sai các vị
trưởng lão ra đi, vị thì đi đến chỗ này, vị thì đi đến chỗ kia. Ngài
sai trưởng lão Majjhantika đi đến Kasmiira và Gandhaara, sai trưởng lão
Mahaadeva đi đến Mahisama.n.dala. Ngài sai trưởng lão tên là Rakkhi, đến
Vanavaasa và vị Yona tên là Mahaadhammaralkhita đi đến Mahaara.t.tha, còn trưởng
lão Mahaarakkhita thì ngài sai đi đến xứ sở của những người Yona. Ngài
sai trưởng lão Majjhima đi đến xứ Himalaya, và hai vị trưởng lão Sonna
và Uttara đi đến xứ Suva.n.nabhuumi. Ðại trưởng lão Mahinda, các vị trưởng
lão I.t.thiya, Uttiya, Sambala và Bhaddasaala là những tùy tùng của Ðại trưởng
lão, ngài sai năm vị trưởng lão này với nhiệm vụ là: "các vị sẽ
thấy ở hải đảo Tích Lan khả ái tôn giáo của Bậc Chiến thắng".
Lúc bấy giờ, tại Kasmiira và
Gandhaara vị long vương có thần thông lực, tên là Aravaala, đã khiến cho
trận mưa tên là "Ðại vũ" trút xuống trên những vụ mùa đã
chín và vị ấy đã làm tràn ngập mọi thứ bằng trận lụt dữ dội. Trưởng
lão Majjhima nhanh chóng đi đến đó, khi bay xuyên qua hư không và thị hiện
những phép thần thông như đi trên mặt nước ở trong cái hồ của
Aravaa.la v.v... Khi các vị rồng trông thấy nững phép lạ ấy, chúng bèn
tâu lại với vua của chúng đang giận dữ về chuyện này.
Khi ấy, đầy giận dữ, vị vua rồng
tạo ra nhiều điều kinh khiếp, những luồng gió dữ dội thổi đi, một
đám mây tạo ra sấm sét và mưa, những tiếng nổ của cơn sấm gây ra sự
đổ vỡ và tia chớp xẹt xuống chỗ này chỗ kia, những cây cối và những
chóp núi bị quật ngã. Những vị rồng mang những hình tướng kinh dị làm
khiếp đảm người xem ở khắp mọi nơi, chính vị long vương ấy phun khói
và lửa gây ra sự kinh hoàng bằng nhiều cách.
Khi trưởng lão dùng năng lực thần
thông của ngài làm cho những điều kinh hoàng này tiêu tan, ngài bèn nói với
vua rồng, đang phô trương oai lực tột bậc rằng: "dù cả thế gian
cùng với chư thiên đi đến để tìm cách đe dọa ta, họ cũng không thể
bằng ta về sức mạnh, dầu họ có thể làm bất cứ điều kinh hãi nào tại
chỗ này. Cho dù ngươi có thể nâng lên cả quả đất cùng với đại
dương và ném xuống trên người của ta, ngươi, này long vương, hùng mạnh,
cũng không thể làm khơi dậy sợ hãi trong ta được. Chắc chắn đó chỉ
là sự tiêu diệt của chính ngươi mà thôi, này chúa của loài rồng.
Khi vị long vương này đã được làm
lắng dịu ngã mạn, trưởng lão bèn thuyết pháp cho vua rồng và nhờ đó,
long vương qui y tam bảo và thọ trì ngũ giới, luôn cả tám mươi ngàn vị
rồng cùng nhiều Càn-thát-bà, dạ-xoa cả những vị Cưu-bàn-trà
(Kumbha.n.da) ở vùng Hymalaya, nhưng có một vị dạ xoa tên Pa.n.daka với vợ
là nữ dạ xoa Haarita và năm trăm đứa con trai của vị ấy được an trú
trong đạo quả Tu-dà-huờn.
"Từ nay trở đi đừng để cho phẫn
nộ sanh lên như thuở xưa nữa, đừng đem lại điều nguy hại nào cho mùa
màng nữa, vì tất cả chúng sanh đều yêu thích hạnh phúc của chúng; hãy
nuôi dưỡng tình thương đối với chúng sanh, hãy để cho nhân loại sống
trong hạnh phúc." Họ đã được trưởng lão giảng dạy như thế và
đã làm đúng theo lời dạy này. Rồi chúa của loài rồng thỉnh trưởng lão
ngồi trên một cái ghế bằng châu báu, còn long vương thì đứng gần quạt
hầu ngài. Trong khi đó những dân cư ở Kasmiira và Gandhaara mà đã đi đến
để cúng dường long vương thì công nhận trưởng lão là người vĩ đại
hơn về năng lực thần thông, và sau khi tôn kính làm lễ trưởng lão, họ
ngồi xuống một bên gần ngài. Trưởng lão thuyết pháp cho họ, đó là
bài kinh Aasiivisuupamaa (Xà-dụ-kinh).
Có sự cải chánh cho tám mươi bốn
ngàn chúng sanh và một trăm ngàn người thọ phép xuất gia từ trưởng lão.
Từ đó, Kasmiira và Gandhaara chiếu sáng bởi những chiếc y vàng và bởi vảo
vật quí hơn tất cả, là Tam bảo.
Trưởng lão Mahaadeva là người đã
đi đến Mahisama.n.dala, đã thuyết pháp đến dân chúng bài kinh
Devaduu.tasuttanta (Thiên sứ kinh). Bốn chục ngàn người đã làm thanh tịnh
trong chính họ con mắt của chơn lý, lại thêm bốn chục ngàn người thọ
phép xuất gia từ trưởng lão.
Trưởng lão Rakkhita là người đã đi
đến xứ Vanavaasa, khi đứng trong không trung giữa đại chúng, đã thuyết
bài kinh Anamavaggasa.myutta. Bài pháp đem lại sự tỏ ngộ cho sáu chục ngàn
người. Ba mươi bảy ngàn người thọ phép xuất gia từ trưởng lão, năm
trăm tịnh xá được dựng lên ở trong nước. Như vậy trưởng lão đã
thành lập Tôn giáo của Bậc Chiến thắng.
Trưởng lão Dhammarakkhita, người Yona,
khi đã đi đến Aparantaka và sau khi đã thuyết pháp giữa đại chúng bài
kinh Aggikkhandhapamaa-sutta (Hỏa ẩn dụ kinh), đã cho nước bất tử của chánh
pháp đến ba mươi bảy ngàn chúng sanh cu hội ở đó, ngài là bậc hiểu
biết hoàn toàn chân lý và phi chân lý. Một ngàn người và thêm những nữ
nhân khác xuất thân từ những gia đình quí tộc đã xuất gia. Bậc trí tuệ
Mahaadhammarakkhita, là người đã đi đến xứ Mahaara.t.tha, tại đó, ngài
thuyết bổn sanh Mahaanaradakassapa (Đại-na-la-đà-ca-diếp-bổn-sanh-kinh). Tám
mươi bốn ngàn người chứng đắc đạo quả giải thoát, mười ba ngàn người
thọ phép xuất gia từ trưởng lão.
Bậc trí tuệ Mahaarakkhita là người
đã đi đến xứ sở người Yona, đã thuyết giảng đến đại chúng bài
kinh Kaalakaaraamasuttanta (Ca-la-la-ma-kinh) một trăm bảy chục ngàn người chứng
đắc đạo quả giải thoát, mười ngàn người thọ phép xuất gia.
Bậc trí tuệ Majjhima thuyết pháp
trong vùng Himalaya là nơi mà ngài cùng với bốn vị trưởng lão đi đến,
Bài kinh Dhammacakkappavattanasuttanta (Chuyển pháp luân kinh). Tám mươi Ko.ti chúng
sanh chứng đắc đạo quả giải thoát. Năm vị trưởng lão đã hóa độ
cho năm vương quốc, mỗi vị trưởng lão có một trăm ngàn người xuất
gia theo, nhờ tin vào giáo pháp của đức chánh đẳng chánh giác.
Cùng với trưởng lão Uttara, trưởng
lão So.na, bậc có thần thông lực đã đi đến Suva.n.nabhuumi. Lúc bấy giờ,
bất cứ khi nào có đứa bé trai sanh ra trong cung điện của đức vua, thì
một nữ dạ xoa dữ tợn đi ra từ dưới biển, thường hay đến ăn thịt
đứa bé và lại biến mất. Và ngay khi ấy, vị hoàng tử sanh ra trong cung
điện của đức vua. Khi dân chúng trông thấy vị trưởng lão, họ nghĩ rằng:
"đây là những người bạn chung đường với những dạ-xoa", và họ
đi đến mang theo những khí giới để giết các ngài. Khi các vị trưởng
lão hỏi rằng "điều này có ý nghĩa gì?" và nói với họ rằng:
"chúng tôi là những vị Sa-môn chân chánh, chẳng có cách nào để gọi
chúng tôi là bạn của những dạ xoa." Rồi nữ dạ xoa đi ra khỏi đại
dương cùng với những tùy tùng của nó, và khi dân chúng trông thấy họ,
chúng cất lên những tiếng kêu lớn. Nhưng trưởng lão đã tạo ra số dạ
xoa hung dữ nhiều gấp đôi và dùng số dạ xoa ấy bao vây nữ dạ xoa và
tùy tùng của nàng ở khắp mọi hướng. Nữ dạ xoa suy nghĩ: "nước này
đã rơi vào quyền sở hữu của kẻ này rồi", và bị khiếp đảm, nàng
bèn bỏ chạy.
Khi trưởng lão đã làm một bức tường
khắp xung quanh xứ sở, ngài thuyết giảng giữa đại chúng bài kinh
Brahma-jaalasutta (Phạm võng kinh).
Có nhiều người quy y Tam bảo và thọ
trì ngũ giới, Sáu chục ngàn người được cải chánh theo chánh pháp. Ba
ngàn năm trăm đứa con trai của những gia đình quí tộc và một ngàn năm
trăm đứa con gái của những gia đình quí tộc cũng thọ phép xuất gia. Từ
đó trở đi, khi nào có một hoàng tử sanh ra trong hoàng cung, thì đức vua
đặt cho đứa bé cái tên là Sonuttara.
Xét thấy rằng các ngài đã nhẫn nại
không nhập vào pháp an lạc mà các ngài đã giành được - đó cũng sự hy
dinh của Bậc Chiến thắng có lòng bi mẫn vô lượng - Các ngài đã ban an
lạc đến cho thế gian, khi ra đi khắp mọi nơi. Do đó, thử hỏi ai còn chần
chừ không chịu nỗ lực phấn đấu để đem lại sự giải thoát cho thế
gian?
Ở đây chấm dứt chương thứ mười
hai, được gọi là "sự cải chánh cho nhiều xứ sở", trong bộ
Mahaava.msa, được biên soạn vì niếm tín lạc và xúc động của những
người thiện nhân.
-ooOoo-
CHƯƠNG XIII
MAHINDA ÐẾN ÐẢO
TÍCH LAN
Ðại trưởng lão Mahinda, bậc có trí
tuệ cao tột, lúc bấy giờ ngài là một vị Sa-di mười hai tuổi, được
thầy và chư tăng giao cho trách nhiệm đi hóa độ đảo Tích Lan, đã suy gẫm
về thời gian thích hợp để làm công việc này và nghĩ rằng: "vua
Mu.tasiva đã già rồi, con trai của vị ấy chắc chắn sẽ lên làm
vua."
Khi đã quyết định viếng thăm quyến
thuộc của mình trong thời gian ấy, ngài cáo từ ông thầy của mình và chư
tăng, sau khi xin phép vua cha, ngài đem theo bốn vị trưởng lão và luôn cả
con trai của Sa.mghamitta, là Sa-di Sumana, có thần thông lực, đầy đủ sáu
thắng trí, ngài đi đến Dakkhinagiri để ban đặc ân của giáo pháp đến
cho quyến thuộc của mình. Trong khi ngài làm như vậy thì sáu tháng đã
trôi qua.
Khi trưởng lão đến đúng lúc tại
Vedisagiri, là thành phố của mẫu hậu, ngài viếng thăm mẹ và khi hoàng hậu
trông thấy đứa con trai thân yêu của mình, bà vui mừng tiếp đón ngài
và những vị trưởng lão bạn bằng các loại vật thực do chính tay bà sửa
soạn, rồi bà dẫn trưởng lão đến tịnh xá khả ái Vedisagiri.
Hoàng tử Asoka, trong khi đang trị vì
xứ Avanti, là xứ mà phụ vương của vị ấy đã ban cho, dừng chân ở thị
trấn Vedisa, trước khi hoàng tử đi đến Ujjenii, và ở đó gặp một thiếu
nữ kiều diễm tên là Devii, là con gái của một thương nhân, hoàng tử lấy
nàng làm vợ; và về sau nàng có con với hoàng tử và sanh ra ở Ujjenii một
bé trai khôi ngô tuấn tú, đặt tên là Mahinda, và khi hai năm đã trôi qua,
nàng sanh ra thêm một bé gái, đặt tên là Sa.mghamittaa. Trong khi Manhinda đến
thăm thì bà sống tại thành phố Vedisa. Khi trưởng lão lưu lại ở đó,
thấy thời gian đã đến, nghĩ rằng: "trong đại lễ phong vương ấy
do phụ vương của ta truyền lịnh, đại vương Devaana.mpiyatissa sẽ tham dự
và đức vua sẽ biết oai lực của Tam-bảo khi vị ấy đã nghe các vị sứ
giả nói về. Vị ấy sẽ trèo lên ngọn núi Missaka vào ngày Bố tát của
tháng Je.t.tha. Trong cùng ngày ấy, chúng ta sẽ đi đến xứ Tích Lan xinh đẹp.
Ðại Indra tìm đến trưởng lão tối
thắng Mahinda và nói với ngài rằng: "hãy ra đi hóa độ cho đảo Tích
Lan; Ngài cũng đã được tiên đoán bởi Ðức Chánh giác Tôn về điều này
rồi và chúng tôi sẽ là những người phụ giúp ngài ở đó."
Con trai của người con gái của em
gái của hoàng hậu Devii, là chàng trai tên là Da.n.duka, đã nghe giáo pháp
được thuyết giảng bởi trưởng lão đến hoàng hậu Devii, và đã chứng
đắc quả thánh A-na-hàm, bèn ở lại với trưởng lão.
Khi đã lưu lại ở đó trong một
tháng, vào ngày bồ tát của tháng Je.t.tha, cùng với bốn vị trưởng lão
và sumana, và người cận sự nam Bha.n.duka, và với mục đích cho loài người
biết đến, trưởng lão bèn bay vào hư không và đi ra khỏi tịnh xá ấy;
Vị trưởng lão có những năng lực thần thông, khi đi đến đây với tùy
tùng của ngài, đáp xuống trên ngọn núi khả ái Missaka, trên đỉnh núi
Siila, nằm giữa vùng đất trông xinh đẹp Ambatthala.
Người mà được Bậc Ðại Sa-môn
tiên đoán trong giờ phút lâm chung là đem lại sự giải thoát đến cho đảo
Tích Lan, bằng phước đức của ngài trong việc hóa độ nước Tích Lan,
người mà vì sự hóa độ cho nước Tích Lan, trở thành giống như Bậc Ðạo
Sư, đã đáp xuống ở đó, được chư thiên của đảo Tích Lan ca ngợi.
Ở đây chấm dứt chương thứ mười
ba, được gọi là "Mahinda đến đảo Tích Lan", trong bộ
Mahaava.msa, được biên soạn vì niếm tín lạc và xúc động của những
thiện nhân.
-ooOoo-
CHƯƠNG XIV
SỰ ÐI VÀO KINH
ÐÔ
Vua Devaana.mpiyatissa là người đã tổ
chức lễ rảy nước cho những người trong kinh đô, ra đi để thưởng thức
những thú vui săn bắn. Ðược theo hầu bởi bốn chục ngàn tùy tùng, vua
đi bộ đến ngọn núi Missaka. Vị thần núi vì muốn cho đức vua trông thấy
những vị trưởng lão, bèn hiện ra trong hình tướng một con nai sừng tấm
đang gặm cỏ trong bụi cây. Khi trông thấy con nai, vua nghĩ rằng: "thật
không đáng để giết một con vật không có đề phòng". Và đức vua tạo
ra một âm thanh từ sợi dây cung; Con nai bỏ chạy về hướng núi. Ðức
vua đuổi theo, nhưng con nai trong lúc đang chạy như vậy đã đến gần trưởng
lão. Khi trưởng lão ở trong tầm thấy của đức vua, thì vị chư thiên biến
mất.
Khi nghĩ rằng: "nếu vị ấy trông
thấy quá nhiều người thì vị ấy sẽ rất sợ hãi,"Trưởng lão bèn
khiến cho đức vua trông thấy chỉ một mình ngài. Khi đức vua trông thấy
trưởng lão, thì vị ấy đứng yên và đầy sợ hãi. Trưởng lão nói với
vua rằng: "hãy đến đây, này Tissa." Rồi từ tiếng gọi tên
Tissa, đức vua nghĩ rằng: đó là một vị dạ xoa. "Tâu đại vương,
chúng tôi là những vị Sa-môn, là những đệ tử của đấng pháp vương.
Do lòng bi mẫn đối với bệ hạ chúng tôi đã đến đây từ
jampudiipa", Trưởng lão đã nói như vậy. Khi nghe qua những lời ấy, thì
nỗi sợ hãi của đức vua biến mất. Và khi nhớ đến bức thư của người
bạn mình, và tin rằng đây là những vị Sa-môn, vị ấy để cây cung và
tên qua một bên. Rồi khi đi đến vị Sa-môn, đức vua trao đổi những lời
chào hỏi với trưởng lão và ngồi xuống gần ngài.
Rồi những tùy tùng của vua đi đến
và vây quanh đức vua và trưởng lão khiến cho hiện ra những vị trưởng
lão khác đã đi chung với ngài. Khi trông thấy những vị này, đức vua bèn
nói rằng: "những người này đã đến đây lúc nào vậy?" trưởng
lão trả lời rằng: "Họ đến cùng với bần tăng" và được đức
vua hỏi tiếp, "Tại Jambudiipa còn có những vị Sa-môn khác như ngài
không?" trưởng lão nói rằng: "Jambudiipa đang chói sáng bởi những
chiếc y vàng; Và ở đó có nhiều vị A-la-hán thông thuộc Tam phệ đà,
có những năng lực thần thông, thiện xảo về những việc xem tâm của những
người khác, có thiên nhĩ: là những đệ tử của đức Phật."
Khi ấy đức vua hỏi rằng: "Các
ngài đến đây bằng con đường nào?" và vì câu trả lời là:
"chúng tôi đến đây không phải bằng đường bộ cũng không phải bằng
đường thủy". Ðức vua hiểu ra rằng các ngài đã đến xuyên qua hư
không.
Ðể thử đức vua, vị trưởng lão
có trí tuệ bậc nhất ấy bèn hỏi một câu hỏi vị tế, và ngay khi được
hỏi đức vua đã nhiều lần trả lời nhiều câu hỏi. "Tâu bệ hạ,
cây này mang tên gì?"
"Cây này là cây xoài."
"Có cây xoài nào khác bên cạnh
cây này không?"
"Có nhiều cây xoài."
"Và có những cây khác ngoài cây
xoài này và những cây xoài khác không?"
"Bạch ngài, có nhiều cây; nhưng
đó là những cây mà không phải là xoài."
"Bên cạnh cây xoài khác và những
cây không phải xoài, còn có những cây khác không?"
"Bạch ngài, có cây xoài
này."
"Hỡi chúa của loài người, ngài
có trí tuệ sắc bén!"
"Tâu đại vương, ngài có quyến
thuộc không?"
"Bạch ngài, có nhiều."
"Và tâu đại vương, có chăng một
số người không phải là quyến thuộc của bệ hạ không?"
"Những người ấy có nhiều hơn
những quyến thuộc của trẫm".
"Có ai ngoài những quyến thuộc
và những người khác không?"
"Bạch ngài, vẫn còn chính trẫm."
"Lành thay, hỡi chúa của loài người,
bệ hạ có trí tuệ sắc bén".
Khi trưởng lão đã biết rằng đức
vua là người có trí tuệ bén nhạy, vị trưởng lão trí tuệ bèn thuyết
pháp cho vị hoàng đế bài kinh Cuulahattthipaaduupamasuttanta (Tượng tích dụ
tiểu kinh). Vào lúc kết thúc của thời pháp, đức vua cùng với bốn chục
ngàn tùy tùng qui y Tam bảo.
Vào buổi chiều, người ta dọn cơm
cho đức vua dầu đức vua biết rằng những vị Tỳ khưu này không ăn
trong giờ ấy, Vua cũng mời các vị Sa môn thọ thực, với ý nghĩ rằng:
"mời các ngài là phép lịch sử tối thiểu." Khi các ngài cho đức
vua biết rằng: "chúng tôi không ăn bây giờ" đức vua dò hỏi về
giờ thọ thực là lúc nào. Và khi các ngài cho biết giờ thọ thực của
các ngài, vua bèn nói rằng: "chúng ta sẽ đi vào thành phố."
"Tâu đại vương, đại vương hãy
đi, chúng tôi sẽ ở lại đây."
"Nếu thế thì chàng trai trẻ này
phải đi chung với chúng tôi".
"Chàng trai này là người đã dạt
đến mục tiêu rồi, đã liễu ngộ giáo pháp và chờ ngày xuất gia, do đó
cậu ấy phải ở gần chúng tôi. Chúng tôi muốn truyền phép xuất gia bây
giờ, tâu đại vương, đại vương cứ đi."
Rồi khi đức vua cáo từ các vị trưởng
lão bằng những lời này: "Ngày mai trẫm sẽ gởi đến một cỗ xe và
mời các vị vào đó và đi đến thăm thành phố." Ðức vua dẫn
Bha.n.du qua một bên và hỏi vị ấy rằng các trưởng lão định làm gì.
Và vị ấy nói cho đức vua biết mọi chuyện. Khi đức vua đã nghe tên của
trưởng lão! vua rất vui sướng và nghĩ rằng: "đây là hạnh phúc
dành cho ta," Và bây giờ đức vua đã hết sợ hãi vì Bha.n.du là một
cư sĩ, biết rằng đây là những con người. Khi nói rằng: "chúng ta
hãy truyền phép xuất gia cho vị ấy", trưởng lão bèn truyền phép xuất
gia và phép cụ túc giới cho Bha.n.du bên trong những đường ranh giới của
ngôi làng ấy và bên trong nhóm Tỳ khưu, ngay lúc ấy vị tân tỳ kheo kia
chứng đắc đạo quả A-la-hán.
Rồi trưởng lão truyền lịnh cho
sa-di sumanaa rằng: "ngươi hãy loan báo giờ thuyết pháp đi". Vị
sa-di hỏi rằng: "bạch ngài, khi con loan báo giờ để nghe pháp, con sẽ
loan báo xa đến đâu?" Khi trưởng lão trả lời rằng: "Khắp xứ
Tambapa.n.ni" vị sa-di bèn công bố giờ nghe pháp bằng năng lực thần
thông của mình, làm cho âm thanh ấy vang khắp toàn cõi Tích Lan.
Khi đức vua, đang ngồi bên cái bể nước
của núi đá tại làng Naagacatukka và đang thọ thực, nghe được tiếng gọi
lớn, vua bèn nhắn tin đến trưởng lão để hỏi rằng: "có điều rủi
ro nào đã xảy ra chăng?" Trưởng lão trả lời - rằng không có điều
rủi ro nào xảy ra cả; chỉ có tiếng công bố giờ để nghe lời kim ngôn
của Ðức Chánh Giác Tôn mà thôi."
Khi những vị chư thiên địa cầu
nghe những tiếng gọi của vị sa-di, họ làm cho tiếng gọi ấy vang đi và
như vậy tiếng gọi dần dần lên đến cõi phạm thiên. Do những tiếng gọi
ấy khiến cho một đại chúng đông đảo chư thiên đến cu hội; và trưởng
lão thuyết pháp trước hội chúng bài kinh Samacitta-sutta (Bình đẳng tâm
kinh).
Chư thiên vô số kể được tỏ ngộ
chánh pháp và nhiều vị rồng và Supa.n.na (kim-xí-điểu) qui y tam bảo.
Cũng như khi trưởng lão Saariputta nói ra bài kinh này, cũng vậy chư thiên cũng
đã cu hội để nghe bài kinh ấy từ Mahinda.
Vào ngày hôm sau, đức vua gởi đến
một cỗ xe. Người xa phu đến và nói rằng: "Hãy bước vào cỗ xe,
chúng tôi sẽ đưa đến thành phố". "Chúng ta sẽ không bước vào
cỗ xe, ngươi hãy đi đi, chúng ta sẽ đi theo ngươi." Khi nói vậy, đầy
thiện ý, các ngài cho người đánh xe ra đi và họ bay vào không trung và bằng
năng lực thần thông của các ngài, các ngài đi xuống ở phía đông của
thành phố tại chỗ mà về sau có đệ nhất bảo tháp. Từ ấy đến nay,
bảo tháp được xây lên tại chỗ mà các vị trưởng lão đáp xuống đầu
tiên được gọi là đệ nhất bảo thá Pathamacetiya.
Bởi vì những nữ nhân trong hoàng
cung, nghe nói về vị vua của giới đức trong các vị trưởng lão nên muốn
được trông thấy các ngài do đó vị hoàng đế sai dựng lên một giả
ốc dành cho các ngài ở bên trong khuôn viên của hoàng cung, được che bằng
những loại vải len trắng và những bông hoa được trang hoàng xinh đẹp.
Và đức vua đã nghe trưởng lão nói
rằng các ngài không ngồi trên những chỗ ngồi cao, nên vị ấy cứ băn
khoăn tự hỏi rằng: "thật sự trưởng lão có muốn ngồi trên chỗ
ngồi cao hay không?" trong lúc đó, người đánh xe trông thấy các ngài
đang đứng ở đó mặc những chiếc y vàng và đầy ngạc nhiên, vị xa phu
tâu lại với đức vua. Khi nghe qua tất cả điều này, đức vua biết rõ rằng:
"các ngài sẽ không ngồi trên ghế. Và khi truyền lịnh rằng:
"hãy trải những tấm thảm đẹp nhất ở trên đất" đức vua đi
đến đón tiếp các vị trưởng lão, cung kính vái chào các ngài, lấy bát
từ tay của đại trưởng lão Mahinda và dẫn trưởng lão vào trong thành phố,
vì đó là tục lệ tôn kính và đón tiếp nồng hậu.
Và các nhà tiên tri, khi họ trông thấy
những chỗ ngồi đã được sửa soạn, bèn tiên đoán rằng: "quả đất
được chiếm hữu bởi các vị Tỳ khưu này; Họ sẽ là những vị chúa
trên hải đảo này". Khi tỏ sự tôn kính đến các ngài, đức vua dẫn
các vị trưởng lão đi vào hoàng cung. Ở đó theo địa vị của các ngài,
các ngài ngồi vào những chỗ ngồi được phủ bằng những tấm vải len
trắng, chính đức vua đứng ra hầu hạ các ngài bằng món cháo và những
loại vật thực loại cứng và loại mềm: Và khi bữa ăn đã xong, đức
vua ngồi dưới chân của các ngài và gọi Anulaa đến, là vợ của người
em trai của đức vua, tức là phó vương Mahaanaaga, sống trong hoàng cung. Khi
hoàng hậu Anulaa đã đến với năm trăm nữ nhân, đã đảnh lễ và cúng dường
đến các vị trưởng lão, nàng bước qua một bên. Trưởng lão bèn thuyết
về Petavatthu (Ngạ-quỉ-sự), Vimaanavatthu (Thiên cung sự) và Sacca-samyutta (Đế
tương ưng). Các nữ nhân chứng đắc tầng thánh thứ nhất. Và nhiều người
trong thành phố, khi nghe từ những người đã thấy các ngài trong ngày hôm
trước, về giới đức của các vị trưởng lão, cũng kéo đến vì muốn
xem trưởng lão và đã tạo ra một sự xôn xao lớn tại các cổng thành.
Ðức vua nghe tiếng ồn ào ấy và nghe tâu lại, là người chăm lo lợi
ích của họ, bèn nói rằng: "ở đây không đủ chỗ cho tất cả những
người này; Hãy cho họ dọn sạch nhà lớn cuả con voi kiết tường, và
ở đó dân thành thị mới có thể nhìn vào các vị trưởng lão khi họ đã
dọn sạch nhà lớn của voi và đã nhanh chóng trang hoàng nó bằng những
cái lọng cùng những thứ khác, họ sắp xếp những chỗ ngồi của các vị
trưởng lão, theo địa vị của các ngài. Ðại trưởng lão đi đến đó với
những vị trưởng lão khác và khi ngài đã an tọa, ngài bậc thuyết giảng
tối thắng, bèn thuyết bài kinh Devaduuta-stta (thiên sứ kinh), dân thành thị,
sau khi đã hội họp ở đó, nghe bài pháp ấy, họ khởi lòng tịnh tín và
một ngàn người trong số đó chứng đắc quả thánh tu đà hườn. Như vậy
khi ở tại đảo Tích Lan vị trưởng lão vô song, giống như bậc đạo
sư,để bảo vệ nước Tích Lan, đã thuyết pháp ở hai chỗ, bằng tiếng
nói của người Tích Lan, ngài, ngọn đèn sáng của hải đảo, đã để lại
di sản về chánh pháp như vậy.
Ở đây chấm dứt chương thứ mười
bốn, được gọi là "sự đi vào kinh đô", trong bộ Mahaavamsa, được
biên soạn vì niềm tín lạc và xúc động của những thiện nhân."