- ÐẠI VƯƠNG THỐNG SỬ
- MAHÀVAMSA
[9]
CHƯƠNG XXIX
SỰ KHỞI CÔNG
XÂY DỰNG ÐẠI BẢO THÁP
Khi vật liệu xây dựng đã được
đem về chung lại như vậy, đức vua bắt đầu công việc xây dựng đại
Bảo tháp vào ngày rằm tháng tư (Â. L., Visaakhaa), nhằm lúc chòm sao
Visaakhaa xuất hiện. Khi đã truyền lịnh lấy đi cái cột trụ đá, vị
chúa của loài người sai đào chỗ đất làm Bảo tháp sâu bảy hắc tay để
làm móng. Vua sai người đập bể những tảng đá tròn do quân sĩ đem về
đây, bằng búa, và sau khi biết chắc thế nào là đúng và thế nào là
sai, vị ấy truyền lịnh nghiền nát đá để làm cho cái nền được chắc
chắn hơn, sai những con voi lớn đã được bọc da dưới bàn chân giần xuống
cho cứng nền.
Ðất sét mịn được tìm thấy ở chỗ
luôn luôn ẩm ướt, là chỗ mà con sông thiêng Hằng giang đổ xuống trên
đất một khoảng rộng ba mươi do tuần khắp quanh, vì tánh chất mịn và
dẻo của nó nên được gọi là "đất sét bơ." Những vị Sa-di đã
đoạn trừ các lậu hoặc mang loại đất sét từ chỗ đó đem về đây,
đức vua truyền lịnh trát đất sét ấy lên lớp đá và đặt gạch trên
lớp đất sét ..., và trên những lớp này có trét thêm xi-măng thô và chất
thần sa, ở trên lớp gạch và đá này có một mạng lưới bằng sắt và
trên đó là một loại đất thơm có tên là Marumba được các vị sa-di
đem về từ Hy-mã-lạp-sơn, rồi vua truyền lịnh đặt lên một lớp pha
lê, trên lớp pha lê vua sai rải sỏi, và đất sét bơ được dùng trong
toàn bộ công trình. Bằng chất nhựa của cây Kapi.t.tha, được hòa tan
trong nước đường, vị chúa của các xe sai đặt một tấm đồng dày tám
inch trên lớp sỏi ấy, và trên lớp đồng này, một tấm bạc dày bảy
inch có trét đất tỳ sương trộn với dầu mè, được đặt lên.
Khi đức vua, đầy hoan hỉ, sai làm những
công việc khởi đầu như vậy, tại chỗ xây dựng Bảo tháp, vào ngày mười
bốn tháng Aasa.lha (tháng sáu âm lịch), vua tổ chức một cuộc họp gồm
chúng Tỳ kheo và các bạch như vầy "bạch chư đại đức, ngày mai con
sẽ đặt nền đá của Bảo tháp. Khi ấy xin thỉnh toàn thể chư tăng cu hội
ở đây, với mục đích tổ chức lễ kỷ niệm đức Phật, là bậc hằng
quan tâm đến hạnh phúc của chúng sanh, và dân chúng hãy ăn mặc y phục của
ngày lễ, vào ngày mai hãy mang theo những hoa thơm vân vân đến chỗ xây dựng
Ðại Bảo tháp".
Vua giao phó cho các quan làm công việc
trang hoàng khu vực của Bảo tháp thừa lịnh của vua, các quan, đầy lòng
tín cẩn đối với Bậc Ðại Sa-môn (Ðức Phật) đã trang hoàng chỗ ấy
một cách phong phú toàn thể thành phố cũng như các con đường dẫn đến
đó, đức vua đều sai trang hoàng tươm tất với muôn màu muôn vẻ. Vào buổi
sáng hôm sau, đức vua cắt cử những người thợ cạo và những người hầu
làm công việc tắm rửa và cắt tóc, vua sai đặt y phục và những hoa thơm,
những loại bánh ngọt ở đó để cho mọi người được lợi ích, đức
vua là người vui thích trong hạnh phúc của muôn dân. Khi lấy những vật
như vậy, theo ý của họ, được đặt trước mặt họ, những người dân
thị thành và thôn quê cùng nhau đi đến chỗ của Bảo tháp, đức vua được
đỡ lên bởi nhiều vị quan, theo thứ tự cao thấp của họ, được vây
quanh bởi nhiều vũ nữ ăn mặc xinh đẹp giống như những tiên nữ, chính
vua mặc quốc phục, được theo hầu bởi bốn chục ngàn người, trong khi
đó quanh vị ấy, tiếng nhạc vang rền, vua rực rỡ như chúa của chư thiên;
Vào buổi chiều, vua, người có trí tuệ, biết rõ những chỗ thích hợp
và những chỗ không thích hợp, đi đến chỗ của Ðại Bảo tháp, dân
chúng đang hân hoan với cảnh đang diễn ra. Một ngàn cỗ xe chứa y phục
được cuốn thành những bó, đức vua sai đặt ở giữa và ở bốn bên,
sai chất lên nhiều y phục; vua cũng sai đặt mật ong, bơ đã lóng trong,
đường vân vân, để ở đó để đóng góp cho buổi lễ.
Nhiều vị Tỳ khưu từ nhiều vùng xa
xôi đến đây, đừng nói gì chư tăng sống ở đây trên hải đảo này,
thì đông biết bao. Trưởng lão Indagutta dẫn đầu một đại chúng đã đi
đến từ Raajagaha cùng với tám chục ngàn vị tỳ kheo. Từ Isipatana, có mười
hai ngàn Tỳ kheo dẫn đầu là trưởng lão Dhammasena, đã đi đến chỗ xây
dựng Bảo tháp.
Từ tịnh xá Jetaaraama-vihaara có chục
ngàn vị Tỳ khưu đi đến, dẫn đầu là đại trưởng lão Piyadassi. Từ tịnh
xá Mahaavana tại Vesaalii có mười tám vị Tỳ kheo đi đến, dẫn đầu là
trưởng lão Urubuddharakkhita. Từ Ghositaaraama tại Kosambi, có ba chục ngàn vị
tỳ kheo đi đến, dẫn đầu là trưởng lão Urudhammarakkhita. Từ
Dakkhi.naagiri tại Ujjenii có bốn chục ngàn vị Sa-môn đi đến dẫn đầu là
trưởng lão Urusa.mgharakkhita.
Từ khi già lam Asokaaraama, tại
Pupphapura, có một trăm sáu chục ngàn vị Tỳ kheo đi đến, dẫn đầu là
vị trưởng lão tên là Mi.t.ti.n.na. Từ Kasmiira có trưởng lão U.t.ti.n.na
đi đến đem theo hai trăm tám chục ngàn vị Tỳ kheo. Bậc trí tuệ
Mahaadeva đến từ Pallavabhoga cùng với bốn trăm sáu chục ngàn vị tỳ
kheo, và từ Alasanda, kinh đô của những người Yona, có trưởng lão Yona
Mahaadhammarakkhita đi đến cùng với ba chục ngàn vị tỳ kheo. Từ chỗ ngụ
của trưởng lão, bằng con đường xuyên qua dãy núi Vi~njhaa, trưởng lão
Uttara đi đến cùng với sáu chục ngàn vị Tỳ kheo.
Ðại trưởng lão Cittagutta đi đến
đây từ Bodhimandavihaara cùng với ba chục ngàn vị Tỳ kheo. Ðại trưởng
lão Candagutta đi đến đây từ Vanavaasa với tám chục ngàn vị Sa-môn. Ðại
trưởng lão Suriyagutta đi đến từ Ðại tịnh xá Kelaasa-vihaara với chín mươi
sáu ngàn vị Tỳ kheo. Nói về số lượng Tỳ kheo đang sống trên hải đảo
đã đến cu hội từ khắp mọi nơi, các vị tiền bối đã không kẻ lại
con số chính xác. Trong số tất cả những vị Tỳ khưu đã đến hội họp
ở đây rồi, riêng những vị Tỳ khưu đã đoạn trừ các lậu hoặc, theo
lời kể lại, có chín trăm sáu chục triệu (chín mươi sáu ko.ti).
Những vị Tỳ kheo này đứng quanh chỗ
xây dựng Bảo tháp theo thứ tự lớn nhỏ, để lại một khoảng trống
ở giữa dành cho đức vua. Khi đức vua bước vào chỗ này và trông thấy
chúng Tỳ kheo đang đứng như vậy, vị ấy vui sướng đảnh lễ các ngài,
với lòng tịnh tín, khi dâng cúng các ngài những hoa thơm và đi quanh các
ngài ba vòng, xoay về phía trái để bên phải của vị ấy hướng về các
ngài, vua đi vào chỗ giữa, đến chỗ đã thánh hóa có cái bình rót chứa
đầy nước. Bằng năng lực của tâm tín lạc đã khởi sanh, bậc sốt sắng
với phúc lạc của chúng sanh, bèn truyền lịnh cho vị quan thuộc dòng quí
tộc, đang mặc lễ phục rực rỡ, nắm chắc chiếc gậy quay thanh tịnh,
để làm theo đường ranh giới hình vòng cung, chiếc gậy được làm bằng
bạc, và được buộc chắc chắn bằng một sợi dây thừng vào một cái cột
bằng vàng, được nắm chắc bởi một vị quan thuộc dòng quí tộc đang mặc
bộ y phục lễ hội xinh đẹp, và khi quyết định chọn một khoảng lớn
dành cho Bảo tháp, vua truyền lịnh cho vị quan kia đi quanh với chiếc gậy
quay trong tay lần theo chỗ đất đã sửa soạn sẵn. Nhưng vị trưởng lão
có thắng trí, tên là Siddhattha, là người nhìn xa thấy rộng, đã ngăn cản
đức vua khi vị ấy làm điều này, khi suy xét rằng:"nếu đức vua của
chúng ta khởi công xây dựng một Bảo tháp quá lớn như vậy, thời cái chết
sẽ đến với vị ấy, trước khi bảo tháp được làm xong; Hơn nữa, một
bảo tháp quá lớn sẽ khó sửa chữa". Trưởng lão, khi nhìn vào tương
lai, đã ngăn sự định đặt kích thước to lớn như vậy. Ðể chìu theo
chư tăng và do lòng kính trọng đối với trưởng lão, đức vua dầu muốn
làm bảo tháp to lớn đồ sộ, đã nghe theo lời trưởng lão và làm theo lời
chỉ dẫn của trưởng lão, vua quyết định một khoảng vừa để làm bảo
tháp, để đá sỏi làm nền có thể đủ lát.
Với nhiệt tâm không mỏi mệt, vua
sai đặt tám cái lọ bằng vàng và tám cái lọ bằng bạc ở giữa, rồi
sai đặt một ngàn lẻ tám cái lọ mới thành một vòng tròn quanh mười sáu
cái lọ này, dường thế ấy, quanh mỗi cái lọ, sai đặt một trăm lẻ tám
chiếc y. Tám viên gạch đẹp lộng lẫy vị ấy sai đặt cách khoảng. Và
sau khi đã truyền lịnh cho một vị quan đã được chọn để làm công việc
này, đang mặc y phục chỉnh tề, đứng ra lấy một viên gạch, vua đặt
ở hướng đông, nơi đã được chuẩn bị sẵn sàng nhiều nghi lễ, một
viên đá nền đầu tiên, trên đất sét thơm một cách long trọng.
Khi người ta đã cúng dường những bông
lài vào trong chỗ ấy thì đại địa rung chuyển. Vua sai bảy vị quan đặt
bảy viên đá khác, và những buổi lễ thánh hóa diễn ra. Như vậy, vua đã
sai đặt những viên đá vào ngày đã chọn, đó là ngày Bố-tát (uposatha)
rằm tháng sáu (tháng Aasa"nha).
Khi đức vua đã cung kính đảnh lễ các
vị trưởng lão đã đoạn trừ các lậu hoặc, đứng ở đó tại bốn hướng
thiêng liêng, và khi vua đã cúng dường những vật thí đến các ngài, đầy
vui sướng, vị ấy đi về hướng đông bắc, và ở đây sau khi đảnh lễ
trưởng lão Piyadassii, bậc đã đoạn trừ các lậu hoặc, đức vua bèn đứng
gần bên trưởng lão. Ðể làm cho buổi lễ ở đó thêm phần long trọng,
vị trưởng lão này bèn thuyết diệu pháp đến đức vua; Thời pháp của
trưởng lão đem lại nhiều phúc lạc cho mọi người. Có bốn chục ngàn
người được quy ngưỡng chánh pháp, và thêm bốn chục ngàn nữa chúng đắc
quả thánh Tu-đà-huờn. Một ngàn cư sĩ chứng đắc nhị đạo, một ngàn
khác chứng đắc quả bất-lai, và một ngàn nữa chứng đắc đạo quả
A-la-hán. Mười tám ngàn Tỳ kheo và mười bốn ngàn Tỳ kheo ni chứng đắc
đạo qua A-la-hán.
Mong rằng mọi người có tâm hướng
đến niềm tin trong ba ngôi Tam bảo cũng vậy, sau khi biết rằng nhờ có một
người hằng đem lại lợi lạc cho nhân loại, hằng để tâm trong việc bố
thí rộng rãi, đã đem lại phước báu cao tột cho thế gian, hãy nỗ lực
cố gắng để đạt đến nhiều ân đức như tín đức vân vân.
Ở đây chấm dứt chương thứ hai
mươi chín, được gọi là "Sự khởi công xây dựng Ðại Bảo
tháp", trong bộ Mahaava.msa, được biên soạn vì niềm tín lạc và xúc
động của những thiện nhân.
-ooOoo-
CHƯƠNG XXX
SỰ XÂY DỰNG
PHÒNG XÁ LỢI
Khi đức vua đã cung kính đảnh lễ
chư tăng, vị ấy thỉnh các ngài với lời tác bạch rằng: "trong lúc
chờ đợi Bảo tháp được làm xong, cầu mong các ngài hãy thọ lãnh vật
thực bố thí nơi con." Chư tăng không bằng lòng. Do sự nài nỉ càng
lúc càng nhiều, vua thỉnh cầu các ngài thọ thực trong một tuần lễ và
được một nửa số Tỳ kheo nhận lời. Khi đã được các ngài nhận lời,
vua, đầy thỏa mãn, sai dựng lên những cái giả ốc ở mười tám chỗ
quanh khu vực của Bảo tháp, và trong một tuần lễ sai cúng dường vật thực
dồi dào đến chư tăng. Rồi đức vua cho phép chư tăng ra đi.
Sau đó, vua sai đánh trống triệu tập
gấp rút năm trăm người thợ xây dựng bậc thầy. Và một người trong bọn
họ trả lời với đức vua khi được hỏi rằng: "ngươi sẽ làm Bảo
tháp bằng cách nào đây?" "khi đem theo năm trăm người thợ, thần
sẽ dùng một xe cát trong một ngày."
Ðức vua không đồng ý, nhân đó họ
đề nghị làm việc với số cát ít hơn một nửa, rồi lại giảm xuống
thêm một nửa, cuối cùng chỉ còn lại hai Amma.na (1 amma.na = 5 lần 36
lít). Ðức vua cũng từ chối lời đề nghị của bốn người thợ bậc thầy
này. Rồi người thợ mộc bậc thầy giàu kinh nghiệm và thiện xảo tâu với
vua rằng: "thần sẽ giã cát trong một cái cối, và khi cát đã nhuyễn
mịn như vậy thần sẽ cho nghiền nát trong máy xay, và sẽ dùng một
Amma.na cát nhuyễn như vậy."
Và khi chúa của quả đất, có lòng
can đảm giống như lòng can đảm của Indra, đồng ý với những lời này,
do nghĩ rằng: "sẽ không có cỏ hay rong riêu nào trên Bảo tháp của
chúng ta," và khi đức vua hỏi ông ta, "người sẽ làm Bảo tháp
theo kiểu nào?" ngay khi ấy Vissakamma nhập vào người thợ. Người thợ
bậc thầy lấy bàn tay múc nước và để cho nó rơi xuống trên mặt nước.
Một bong bóng lớn nổi lên giống như nửa quả cầu bằng pha lê, ông ta
nói rằng: "thần sẽ làm Bảo tháp giống như vậy." Rất hài
lòng, đức vua ban thưởng cho ông ta một cặp y phục trị giá một ngàn đồng
và một đôi giày có gắn vật trang sức và mười hai ngàn đồng tiền vàng.
"Làm sao ta có thể khiến đem gạch mà không làm dân chúng phải vác nặng?"
Ðức vua nghiền ngẫm suốt đêm. Khi các vị chư thiên biết được ý nghĩ
này, bèn mang những viên gạch từ đêm này qua đêm khác đến bốn cổng của
Bảo tháp và đặt chúng xuống đó, số gạch luôn luôn đủ cho một ngày
sử dụng. Khi đức vua nghe qua tin này đầy, hoan hỉ, vị ấy bắt đầu công
việc xây dựng Bảo tháp. Vua sai công bố: "công việc được làm ở
đây đều được trả công sòng phẳng". Vua sai đặt mười sáu trăm
ngàn Kahaapana ở mỗi cổng, rất nhiều y phục, nhiều loại trang sức, những
loại vật thực cứng và lỏng và thức uống thêm vào đó, những hoa thơm,
đường vân vân, cũng như năm loại vật thơm để dùng cho thơm miệng.
"Hãy cho mọi người lấy những
thứ này tùy thích khi họ đã làm việc tùy thích." Khi xem xét mệnh lệnh
này, những người lao động của đức vua bèn phân phối mức thù lao.
Một vị Tỳ khưu muốn tham dự trong
công việc xây dựng Bảo tháp, lấy một cục đất sét đã được nhồi
trộn, đi đến chỗ của Bảo tháp và để gạt những người nhân công của
đức vua, vị Tỳ khưu bèn cho cục đất sét ấy đến một ông thợ. Ngay
khi ông ta nhận lấy cục đất sét, ông ta biết đó là cái gì (do tánh vô
tư của cục đất sét) và biết được ý định của vị Tỳ khưu. Một
cuộc tranh luận khởi lên ở đó về sau; khi đức vua nghe được điều này,
vua bèn đi đến hỏi người thợ ấy.
"Tâu bệ hạ, các vị Tỳ khưu với
một tay cầm những bông hoa, thường cho thần một cục đất sét bằng
bàn tay kia; Nhưng thần chỉ biết bấy nhiêu là liệu họ là một vị Tỳ
khưu ở nước khác đến đây hay ở trong nước này."
Khi nghe qua lời nói này, vua bèn sai người
giám thị chỉ cho vua thấy vị Sa-môn đã đưa cục đất sét. Người khác
chỉ vị Sa-môn cho người giám thị trông thấy và ông ta tâu lại với đức
vua. Ðức vua sai đặt ở trước sân của cây bồ-đề thiêng ba cái bình
có hoa lài và bảo người giám thị trao chúng cho vị Tỳ khưu (để vị Tỳ
khưu biết phần thưởng làm Bảo tháp của mình là như thế đó). Khi vị
ấy cúng dường mà không xem xét chuyện gì, người giám thị nói cho vị
ấy biết chuyện này khi vị Tỳ khưu đứng ở đó. Sau đó vị Sa-môn hiểu.
Một vị trưởng lão đang sống ở
Piya"ngalla tại quận Ko.t.tivaala, cũng muốn tham gia xây dựng Bảo tháp
và vị trưởng lão này là quyến thuộc của người công dân làm gạch,
đi đến đây và khi vị ấy làm một viên gạch bằng cỡ của viên gạch
được dùng ở đó, sau khi đã biết rõ kích thước chính xác, vị trưởng
lão muốn cho những công nhân đừng biết chuyện gì, bèn trao nó cho một
người công nhân. Người công nhân đặt nó vào đúng vị trí trong Bảo
tháp, và một cuộc bàn tán khởi lên về vấn đề này. Khi đức vua biết
rõ chuyện này, bèn hỏi rằng: "có thể nhận ra được viên gạch ấy
không?" Dầu người công nhân biết nó, ông ta vẫn trả lời với đức
vua rằng: "không thể được." Khi được hỏi: "ngươi có biết
vị trưởng lão không?" ông ta trả lời rằng: "tâu biết" Ðể
có thể biết vị trưởng lão, đức vua bèn để người đốc công đứng
gần vị ấy. Nhờ vậy, khi đã biết được trưởng lão và được đức
vua cho phép, người đốc công đi thỉnh vị trưởng lão ở tại
Ka.t.thahaala-vihaara và nói với ngài; khi trưởng lão đã biết ngày ra đi của
vị trưởng lão kia và nơi mà vị ấy đang đi đến và đã nói với vị
trưởng lão kia rằng: "tôi đang đi chung với ngài đến ngôi làng của
ngài", vị ấy kể lại mọi chuyện với đức vua. Ðức vua sai dâng đến
trưởng lão muốn tham dự làm Bảo tháp một bộ y phục trị giá một
ngàn đồng một tấm thảm đỏ đắt giá và thêm nhiều vật dụng của
Sa-môn đường và thêm một naalii dầu thơm (1 naalii = 4 cốc tay).
Khi ông ta đi chung với trưởng lão,
và khi Piya"nngallaka hiện ra, ông ta mời trưởng lão ngồi dưới một
chỗ có bóng mát, là nơi có nước, và khi đã dâng đến trưởng lão nước
đường và đã thoa dầu thơm vào đôi chân của trưởng lão, và rắc bột
thơm lên chúng, ông ta dâng trưởng lão những vật dụng cần thiết khi
nói rằng: "con đã mang theo những thứ này cho vị trưởng lão đến nhà
của con, nhưng hai chiếc áo này dành cho con trai của con. Bây giờ con xin
dâng tất cả những thứ này đến ngài." Vị trưởng lão sau khi nhận
lãnh chúng, lại tiếp tục lên đường, còn ông ta, khi cáo từ trưởng lão,
nói cho trưởng lão biết những lời của đức vua, tức lệnh truyền của
đức vua.
Trong khi Bảo tháp đang được xây dựng,
dân chúng từng đoàn đông đảo, đã làm việc để lấy công, được cải
chánh theo chánh pháp, tất cả đều được sanh về thiên giới. Một người
có trí tuệ biết rằng chỉ do niềm tin nội tại nơi Bậc Thánh hiền thì
con đường dẫn đến thiên giới mới được tìm thấy. Do đó mới sốt sắng
đem những vật đến cúng dường Bảo tháp.
Hai người đàn bà, vì họ đã làm
công việc ở đây, được sanh về cõi trời Ba-mươi-ba, đã suy xét về thời
gian bảo tháp được làm xong, nơi mà trước kia họ đã làm, khi cả hai đều
biết rõ quả phước về những nghiệp của mình, họ đem những hoa thơm và
đến cúng dường bảo tháp. Khi đã cúng dường những hoa thơm, họ làm lễ
bảo tháp.
Ngay lúc này, trưởng lão Mahaasiiva,
là người sống ở Bhaativa.nka, đi đến với ý nghĩ rằng: "ta sẽ làm
lễ bảo tháp vào ban đêm. Khi trưởng lão dựa vào cây Sattapa.n.na, trông
thấy hai nữ nhân ấy và vì không muốn để họ trông thấy mình, bèn đứng
nhìn chăm chú vào hiện tượng lỳ lạ ấy, khi việc trang hoàng của họ
đã xong, trưởng lão bèn hỏi họ rằng: "Toàn thể hải đảo ở đây
chiếu sáng rực rỡ từ nơi thân của các người; Các ngươi đã làm việc
phước gì khiến các ngươi sau khi mạng chung ở đây được sanh về thiên
giới?" Các tiên nữ bèn kể cho trưởng lão nghe về việc làm của họ
trong việc xây dựng bảo tháp; Như vậy niềm tin nơi đức Tathaagata đem lại
quả phước dồi dào.
Những vị trưởng lão có năng lực
thần thông đã khiến cho ba cái nền cao đi đến bảo tháp, chìm xuống
ngay khi người ta đặt vào những viên gạch, làm cho chúng bằng với mặt
đất. Các ngài đã khiến cho chúng chìm xuống chín lần khi người ta đặt
gạch vào. Rồi đức vua triệu tập chúng Tỳ kheo. Tám chục ngàn chúng Tỳ
kheo đã tụ họp ở đó. Ðức vua đi đến chúng Tỳ kheo, và khi đã cúng
dường các ngài những vật thí và cung kính đảnh lễ các ngài, vua hỏi
lý do khiến những viên gạch được hạ xuống. Chư tăng trả lời rằng:
"tâu đại vương, điều này được làm bởi các vị Tỳ khưu có năng
lực thần thông, để cho bảo tháp tự nó không lún xuống; họ sẽ không
làm điều ấy nữa, không tạo ra sự xê dịch và sẽ hoàn thành Ðại bảo
tháp".
Khi đức vua nghe qua điều này, đầy
hoan hỉ, vua truyền lịnh tiếp tục làm bảo tháp. Mười ko.ti gạch được
dùng để làm bậc nền. Chư tăng giao phận sự cho hai vị Sa-di, là Uttara
và Sumana, khi nói rằng: "hãy đem về đây những tảng đá có màu mỡ
để làm phòng xá lợi" và hai vị sa-di lên đường đi đến Bắc kuru
và mang từ đó về sáu khối đá có màu mỡ, dài và rộng tám mươi hắc
tay, óng ánh như mặt trời, dày tám inch và giống như những bông hoa
Ga.ndhi. Khi đã đặt một khối ở giữa trên nền hoa và bốn khối khác
ở bốn bên theo hình cái hòm, những vị trưởng lão có năng lực thần thông
đặt khối thứ sáu để làm nắp về sau, ở hướng đông, làm cho ẩn
hình không ai thấy được.
Giữa phòng xá lợi, đức vua sai đặt
một cây bồ đề bằng những loại châu báu, rực rỡ về mọi phương diện.
Thân của nó cao mười tám hắc tay và có năm nhánh; Gốc bằng san hô ở
trên bích ngọc. Thân cây làm toàn bằng bạc, được tô điểm bởi những
ngọn lá bằng các loại ngọc, lá vàng và những quả bằng vàng và những
chồi non bằng san hô. Có tám bức hình biểu tượng của may mắn ở trên
thân cây và những dãy hoa và những hàng thú bốn chân xinh đẹp và những
hàng thiên nga. Bên trên của cây Bồ đề, trên viền của chiếc lọng xinh
đẹp là một mạng lưới chuông bằng ngọc trai và những chuỗi chuông nhỏ
bằng vàng có những cờ xí xen kẽ. Từ bốn góc của chiếc lọng có thả
xuống những dây ngọc trai, mỗi dây trị giá một trăm ngàn đồng. Những
hình mặt trời, mặt trăng và những ngôi sao có nhiều hoa sen khác nhau,
được làm bằng các loại châu báu, chúng được gắn vào cái lọng. Một
ngàn lẻ tám miếng vải len đủ loại, quí báu và có nhiều màu sắc được
treo vào chiếc lọng. Quanh cây Bồ-đề có một khung chắn làm bằng đủ
loại châu báu; Nền lát ở bên trong được làm bằng những viên ngọc
trai Myrobalan lớn.
Những dãy lọ, một số rỗng, một số
chứa những bông hoa được làm bằng tất cả các loại châu báu và chứa
đầy bốn loại nước thơm được đặt ở gốc của cây bô-đề.
Trên cái bồ-đoàn, trị giá của nó
là một ko.ti, được đặt ở phía đông của cây bồ đề, vua đặt một
tượng Phật bằng vàng óng ánh. Thân và tứ chi của pho tượng được làm
chính xác bằng những loại châu báu có đủ màu, óng ánh xinh đẹp. Ðại
phạm thiên đứng ở đó cầm chiếc lọng bằng bạc và Sakka tán dương bằng
cái tù và Vijayuttara, Pa~ncasikha với cây đàn luýt trong tay, và Kaalanaaga với
những vũ nữ, và Ma-vương với một ngàn cánh tay cùng với con voi và đoàn
tùy tùng của vị ấy. Những cái bồ đoàn khác giống như cái ngai vàng
được dựng lên về hướng đông, mỗi cái ngai vàng được dựng lên về
hướng đông, mỗi cái trị giá một ko.ti, xoay mặt về bảy vùng của các
tầng trời. Ðể cây bồ-đề nằm ở đầu, một chiếc giường (làm chỗ
để Ðức Phật nằm nhập Niết bàn) được đặt, cũng trị giá một
Ko.ti, được trang hoàng bằng đủ loại châu báu.
Vua sai khắc nổi đúng mức những biến
cố xảy ra trong suốt bảy tuần lễ, ở khắp trong phòng Xá-lợi, luôn cả
lời thỉnh cầu của Phạm thiên, sự chuyển pháp luân, sự thâu nhận Yasa
vào tăng chúng, sự xuất gia của những vị Bhaddavaggiya và sự nhiếp phục
những người jatila, cuộc viếng thăm của Bimbisaara và sự đi vào thành vương
xá, sự thọ lãnh Ve.luvana, Tám mươi vị đệ tử, chuyến đi đến
Jetavana, sự thị hiện thần thông ở gốc cây xoài, sự thuyết giảng ở
cõi chư thiên, phép lạ khi đi xuống từ cõi chư thiên, cuộc họp với sự
hỏi pháp của trưởng lão. Bài kinh Mahaasamayasuttanta, lời giáo giới đến
Raahula, bài kinh Mahaa-Ma"ngalasutta, cuộc chạm trán với voi Dhanapaala (tức
voi Naalaagiri), sự nhiếp phục dạ xoa Aa.laavaka, tên cướp A"ngulimaala và
rồng chúa Apalaala, cuộc gặp với những vị Paaraayanaka, sự từ bỏ mạng
sống, sự thọ lãnh món thịt heo (Do người thợ rèn Cunda dâng đến), và
hai chiếc y có sắc vàng, sự uống nước trong và sự viên tịch Ðại Niết
bàn; Sự ta thán của chư thiên và nhân loại, Trưởng lão đảnh lễ đôi
chân của Ðức Phật, sự hỏa thiêu nhục thân (của Ðức Phật), sự dập
tắt ngọn lửa (do dòng nước từ cõi trời đổ xuống) những nghi lễ mai
táng trong chính chỗ ấy và sự phân phát xá-lợi do Do.na. Vị vua cao quí cũng
đưa vào đây nhiều câu chuyện Bổn sanh thích hợp dể làm khởi dậy niềm
tin. Vua truyền lịnh khắc đầy đủ câu chuyện Vessantara-jaataka, và biến
cố xảy ra bắt đầu từ lúc giáng sanh từ cõi trời Tusita đến lúc đắc
đạo trên bồ đoàn giác ngộ.
Ở bốn hướng có hình của bốn vị
thiên vương đứng, Ba-mươi-ba vị chư thiên và ba-mươi hai tiên nữ, và
hai mươi tám vị dạ xoa lãnh đạo, nhưng ở trên những hình này có những
vị chư thiên chắp tay, cũng như những cái bình có đựng hoa, những vị
chư thiên đang múa và những vị chư thiên chơi nhạc, những vị chư thiên
cầm những chiếc gương soi, những vị chư thiên cầm những bông hoa và những
nhánh, những vị chư thiên cầm hoa sen vân vân và nhiều loại chư thiên
khác, những dãy vòng cung bằng ngọc và những dãy Dhammacakka (biểu tượng
của giáo pháp); những dãy chư thiên mang kiếm và cầm những bình nước
trên đầu của họ là những bình nước cao năm hắc tay, chứa đầy dầu
thơm, với những tim bấc bằng sợi Dukuula luôn luôn được đốt sáng. Ở
trong cửa tò vò bằng pha lê tại bốn góc, mỗi góc có một viên gạch lớn,
hơn nữa trong bốn góc có bốn đống vàng lấp lánh, đá quí, ngọc trai,
và san hô. Trên bức vách đá màu mỡ có lóe lên những đường cong queo, dùng
làm nét trang sức cho phòng xá lợi. Ðức vua truyền lịnh cho người ta làm
tất cả hình tượng này ở đây trong phòng xá lợi hấp dẫn bằng vàng
khối.
Ðại trưởng lão Indagutta, là bậc
có sáu thắng trí, bậc có trí tuệ bậc nhất, đã hướng dẫn tất cả
những thứ này ở đây, để trùm lên toàn thể công trình. Tất cả những
thứ này được hoàn thành mà không gặp chướng ngại nào do bởi năng lực
kỳ diệu của đức vua, năng lực mầu nhiệm của các vị chư thiên, và năng
lực thần thông của các vị thánh trưởng lão.
Nếu bậc có trí tuệ có những thiện
pháp về đức tin, đã làm lễ đức Thế Tôn, bậc tối thượng Tôn, bậc
cao thượng nhất trong thế gian, bậc đã thoát khỏi bóng tối trong khi
ngài vẫn còn sống, và rồi làm lễ đến Xá-lợi của ngài, được phân
tán rộng rãi bởi bậc thấy rõ sự cứu rỗi của nhân loại; Và nếu sau
đó người ấy hiểu rằng: ở đây phước báu cũng ngang bằng; thời người
ấy quả thật sẽ tôn kính Xá-lợi của bậc Ðại Sa-môn y như khi Ðức
Phật còn tại tiền.
Ở đây chấm dứt chương thứ ba
mươi, được gọi là "sự xây dựng phòng Xá-lợi", trong bộ
Mahaavamsa, được biên soạn vì niềm tín lạc và xúc động của những thiện
nhân.
-ooOoo-
CHƯƠNG XXXI
SỰ TÔN TRÍ XÁ
LỢI
Khi bậc Chiến-thắng-kẻ-thù đã
hoàn thành công trình xây dựng bảo tháp thờ Xá-lợi, vị ấy triệu tập
chúng Tỳ kheo và tác bạch như vầy: "con đã làm xong công trình xây dựng
phòng Xá-lợi, ngày mai con sẽ tôn trí Xá-lợi, bạch chư đại đức tăng,
xin các ngài hãy cẩn trọng quan tâm đến Xá-lợi." Khi vị đại
vương đã nói như vậy, vị ấy từ đó vào thành phố; Còn chúng Tỳ kheo
thì tìm đến một vị Tỳ khưu mà sẽ đem Xá-lợi về đây và các ngài
giao phó công việc mang về Xá-lợi cho một vị Sa-môn tên là So.nuttara, bậc
có sáu thắng trí, ở tại tịnh xá Puujaa-parivena.
Có một thời nọ, khi Bậc Ðạo Sư
đang đi đây đó trên quả đất để hóa độ thế gian, ở bờ của con sông
Hằng có một vị Bà-la-môn tên là Nanduttara, thỉnh mời Ðức Chánh biến
tri và tiếp đãi ngài tử tế cùng với chính Tỳ kheo. Gần chỗ cặp bến
Payaana, Bậc Ðạo Sư cùng với chư tăng xuống thuyền. Ngay khi ấy, trưởng
lão Bhaddaji có năng lực siêu nhiên, bậc có sáu thắng trí, trông thấy ở
đó có một chỗ mà những dòng nước đang xoáy mạnh, trưởng lão bèn
nói với các vị Tỳ khưu rằng: "cái cung điện bằng vàng, có kích thước
hai mươi lăm do tuần mà xưa kia tôi đã sống trong đó, đến nay đã chìm
sâu ở đây. Khi nước của sông Hằng chảy đến cung điện ở đây, thì
tạo thành những dòng nước xoáy và nhận chìm nó".
Các vị Tỳ khưu không tin trưởng lão,
bèn bạch lại chuyện này với Bậc Ðạo Sư. "Hãy đoạn diệt hoài
nghi nơi các vị Tỳ khưu." Rồi để cho thấy năng lực sai khiến của
trưởng lão, ngay cả trong cõi phạm thiên, ngài bay lên hư không, bằng năng
lực thần thông của ngài, và khi đứng lơ lửng trong không trung, cao bảy
cây thốt nốt, vị ấy mang bảo tháp Dussa-thuupa ở cõi Phạm thiên, trên
lòng bàn tay của trưởng lão, và sau khi đã đem bảo tháp ấy đến đây,
và để cho dân chúng xem, trưởng lão đặt nó về chỗ cũ. Nhân đó, trưởng
lão dùng năng lực thần thông, lặn vào trong con sông Hằng, và khi giữ lấy
cung điện bằng ngón chân cái của trưởng lão chạm vào mút nhọn ở nóc
của cung điện, trưởng lão đưa nó lên cao, và khi đã cho mọi người trông
thấy cung điện của trưởng lão, bèn để nó rơi xuống trở lại chỗ
cũ, khi vị bà-la-môn, Nanduttara trông thấy phép lạ này, bèn thốt lên lời
nguyện rằng: "trong một thời gian nào đó, xin cho tôi có đủ năng lực
để có thể kiếm về những Xá-lợi do những người khác sở hữu giữ
gìn." Vì lý do đó mà chư Tăng đã giao phó công việc cho Sonuttara, dầu
vị sư này chỉ mới mười sáu tuổi. "con sẽ mang Xá-lợi về từ nơi
nào"vị sa-di hỏi chư tăng, và nhân đó chư tăng mô tả Xá-lợi như
sau:
"Trong lúc sắp nhập Niết bàn, Bậc
Ðạo Sư của thế gian, để ngài có thể hóa độ thế gian bằng Xá-lợi
của ngài, Bậc Ðạo Sư đã nói với Sakka: "hỡi chúa của chư thiên,
trong tám Do.na Xá-lợi của Như Lai, một Do.na (1 Do.na = 1/3 giạ, 1 giạ = 36
lít) đầu tiên những người Koơiya tại Raamagaama tôn thờ, sẽ được
mang đi từ đó đến cõi rồng, và khi các vị rồng tôn thờ số Xá-lợi
ấy ngay tại đó, cuối cùng Xá-lợi sẽ được tôn trí tại Ðại bảo
tháp ở đảo Tích Lan. Khi ấy, vị trưởng lão nhìn xa thấy rộng và có
trí tuệ bậc nhất Mahaakassapa, hằng quan tâm đến phần Xá-lợi dành cho
Dhammadoka, đã sai đặt số Xá-lợi to lớn và được khéo bảo vệ ở gần
Raajagaha (kinh đô của vua Ajaatasattu). Khi vị ấy đem đến đó bảy Do.na
Xá-lợi; Nhưng Do.na ở Raamagaama thì trưởng lão không lấy, vì biết ý định
của Bậc Ðạo Sư. Khi vua Dhammasoka trông thấy kho Xá-lợi to lớn, thì vị
ấy nghĩ rằng sẽ đem về Do.na Xá-lợi thứ tám đến đó luôn. Nhưng khi
xét thấy rằng số Xá-lợi ấy đã được bậc Chiến thắng quyết định
tôn trí ở Ðại bảo tháp, các vị Sa-môn trong thời bấy giờ cản
Dhammasoka làm điều này. Bảo tháp ở Raajagaama được xây dựng ở trên bờ
của sông Hằng, còn cái hũ đựng Xá-lợi thì trôi vào đại dương, và nằm
ở đó trong dòng nước rẽ hai ở trên chiếc ngai vàng bằng ngọc đa sắc,
được bao trùm bởi những vòng hào quang. Khi các long vương trông thấy hũ
Xá-lợi, họ đi đến cõi rồng Ma~njerika của vua Kaalanaaga và tâu lại với
vị ấy. Và vị long vương và mười ngàn Ko.ti rồng đi đến đó, và khi
đã đem Xá-lợi về cung điện của mình, tôn thờ cúng bái những Xá-lợi
ấy bằng những vật cúng dường, và đã xây dựng một bảo tháp bằng tất
cả những loại châu báu, và cũng làm một cái điện thờ ở bên trên của
bảo tháp. Ðầy tịnh tấn, vua rồng thường xuyên mang đến những vật cúng
dường, những vị rồng khác cũng vậy. Ở đó có một đoàn binh rồng bảo
vệ; Ngươi hãy đi và mang những Xá-lợi ấy về đây. Ngày mai vị chúa của
xứ sở bắt đầu tôn trí Xá-lợi"
Khi nghe qua những lời này của chư
tăng, vị sa-di trả lời rằng: "vâng, con sẽ làm như vậy", và trở
về cốc nghiền ngẫm về thời gian thích hợp mà mình sẽ ra đi. "Ngày
mai lễ tôn trí Xá-lợi sẽ được tổ chức", đức vua công bố như vậy
bằng cách sai người đánh trống rao truyền trong thành phố, vua truyền lịnh
cho tất cả thành phố và con đường dẫn đến đây phải được trang hoàng
đầy đủ và những người dân thành thị phải ăn mặc lễ phục. Sakka,
vua của chư thiên gọi Vissakamma đến và truyền lịnh cho vị ấy làm công
việc trang hoàng toàn thể đảo Tích Lan theo nhiều cách.
Ở bốn cổng của thành phố, vua sai
đặt y phục, đồ ăn vân vân để dân chúng tùy nghi sử dụng.
Vào buổi chiều của ngày rằm bồ
tát, đức vua, tâm hoan hỉ, rành mạch về các bổn phận của các vị vua,
trang phục với tất cả những vật trang sức của mình, quanh khắp là tất
cả những vũ nữ, những dũng sĩ nhung giáp chỉnh tề, một đại chúng gồm
những đội quân binh, cũng như những con voi đã được trang sức phong phú,
những con ngựa và xe, vua bước lên chiếc long xa được kéo bởi bốn con
bạch mã thuần chủng và đứng ở đó, khi khiến cho con voi Ma.n.dala xinh đẹp
và được trang hoàng lộng lẫy, đi đến trước mặt đức vua, giữ lấy
cái hộp bằng vàng dưới cái lọng trắng (để tiếp nhận Xá-lợi).
Một ngàn lẻ tám thiếu nữ xinh đẹp
từ thành phố, cầm những cái bình nước, đứng quanh chiếc long xa và cũng
có nhiều thiếu nữ khác mang những cái hộp đựng các loại hoa, và những
thiếu nữ khác thì cầm đèn và những chiếc gậy, Một ngàn lẻ tám
chàng trai mặc lễ phục hầu quanh vua, cầm những cây cờ nhiều màu sắc
xinh đẹp. Trong khi đó, quả đất dường như muốn nứt nẻ ra bởi tất cả
các loại âm thanh của nhiều nhạc cụ, bởi tiếng ré vang của những con
voi, ngựa và tiếng xe rộn ràng, vị vua nổi tiếng ấy, tựa như đi vào
khu rừng Mahaameghavana, sáng chói trong vinh quang giống như vua của chư thiên
đi vào vườn Nandana vậy.
Khi vị Sa-môn Sonuttara đang ngồi trong
cốc của mình, nghe tiếng nhạc trong thành phố lúc vua bắt đầu lên đường,
vị sa-di bèn độn thổ xuống đến điện của những vị rồng và xuất
hiện ở đó trong một thời gian ngắn trước mặt chúa rồng. Khi chúa rồng
đã đứng lên và đảnh lễ vị Sa-môn và mời ngồi trên chiếc ngai vàng,
thể hiện những phận sự tôn kính đúng mức đối với một vị khách
và rồi hỏi vị Sa-môn từ đâu đến. Khi biết rõ từ đâu đến rồi, chúa
rồng bèn hỏi lý do đi đến của trưởng lão. Và trưởng lão kể lại
toàn thể vấn đề và truyền đạt lời căn dặn của chư tăng: "Xá-lợi
nằm ở đây trong quyền sở hữu của ngài, được đức Phật chỉ định
cho tôn trí ở Ðại bảo tháp; Vậy xin ngài hãy trao những Xá-lợi ấy đến
cho tôi." Khi chúa rồng nghe qua điều này, vị ấy buồn rầu thảm não
và nghĩ rằng: "vị Sa-môn ấy có khả năng dùng sức mạnh để lấy
những Xá-lợi khỏi tay ta; Do đó Xá-lợi phải được đem đi một nơi khác,"
bèn ra hiệu cho đứa cháu trai đang đứng ở đó. Và kẻ có tên là
Vaasuladatta, biết được ẩn ý này, bèn đi đến bảo tháp thờ Xá-lợi
và khi đã nuốt hũ Xá-lợi, vị ấy đi đến chân núi Sineru và nằm khoanh
tròn ở đó. Vị rồng này dài một trăm do tuần và thân có đường vòng
một do tuần. Khi vị rồng có năng lực thần thông đã tạo ra nhiều ngàn
cái đầu với những cái mang phình ra, vị ấy phun khói và lửa khi đang nằm
ở đó. Sau khi hóa ra nhiều ngàn con rắn giống y như vị ấy, vị long
vương cháu này khiến chúng nằm quanh mình trong một vòng tròn. Nhiều vị
chư thiên và rồng đi đến đó nghĩ trong tâm rằng: "chúng ta sẽ xem
cuộc chiến đấu của hai vị Naaga (naaga vừa có nghĩa là rồng, cũng có
nghĩa là bậc anh hùng, con người vĩ đại).
Khi người cậu biết rằng Xá-lợi đã
được người cháu đem đi khỏi đó, bèn nói với trưởng lão rằng:
"chẳng có Xá-lợi nào bên tôi cả." Trưởng lão bèn kể lại từ
đầu câu chuyện về Xá-lợi đi đến như thế nào, rồi nói với vị long
vương rằng: "ngài hãy trao Xá-lợi đi".
Và để làm thỏa mãn trưởng lão bằng
một số cách khác, long vương bèn dẫn trưởng lão đi đến bảo tháp và
mô tả với trưởng lão về bảo tháp ấy: "hãy xem, thưa ngài Tỳ
kheo, bảo tháp này được trang hoàng bởi nhiều loại ngọc rực rỡ và
có điện thờ cao quí dành cho bảo tháp. Nói đúng hơn tất cả những châu
báu ở kháp toàn đảo Tích Lan cũng không sao sánh bằng được tảng đá
ở chân của những bậc cấp; đừng nói gì những báu vật ở đây. Thưa
ngài Tỳ khưu, thật ra chẳng thích hợp chút nào để ngài mang đi những Xá-lợi
từ chỗ có sự tôn kính lớn đến chỗ có sự tôn kính nhỏ hơn".
"Thật ra, chẳng có sự hiểu biết về chân lý trong những vị rồng
các ngươi. Ðúng ra, điều thích hợp là cần phải đem đi những Xá-lợi
đến chỗ có sự hiểu biết chân lý. Các Ðấng Như Lai xuất hiện trên
thế gian để đem lại sự giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, ý định
của Ðức Phật là như thế đó, do vậy ta sẽ mang đi những Xá-lợi.
Chính ngày hôm nay, Ðức vua sẽ bắt đầu tôn trí Xá-lợi; Hãy nhanh chóng
trao Xá-lợi cho ta không được chậm trễ."
Vị long vương nói rằng: "Bạch
đại đức, nếu ngài thấy có Xá-lợi ở đâu thì ngài cứ tự nhiên lấy
đi." Ba lần trưởng lão khiến vị long vương lập lại lời này, rồi
trưởng lão khi đang đứng ngay tại đó, tạo ra một cánh tay dài mãnh khảnh,
và ngay tức thì duỗi bàn tay xuống cuống họng của vị rồng cháu, lấy
đi hũ Xá-lợi và reo lên rằng, "này naaga hãy ở lại!" Vị ấy lặn
xuống đất và nổi lên khỏi đó ở trong cốc của trưởng lão. Vị long
vương nghĩ rằng: "Vị Tỳ khưu đã đi khỏi đây rồi, đã bị chúng
ta gạt," và sai người cháu đem Xá-lợi về lại. Nhưng khi người cháu
không thể tìm thấy hũ Xá-lợi trong cái bụng mình, bèn đi đến, vừa ta
thán và kể lại với người cậu. Sau đó vị long vương cũng ta thán:
"chúng ta đã bị gạt rồi", và tất cả những vị rồng đã xúm
lại thành đám, cũng ta thán. Nhưng vui mừng với chiến thắng của vị Tỳ
khưu vĩ đại, chư thiên hội họp lại, và để tôn kính Xá-lợi bằng những
vật cúng dường, họ cùng nhau kéo đến trưởng lão.
Sau khi ta thán, các vị rồng đi đến
chư tăng và kêu than thảm thiết về việc Xá-lợi bị mang đi mất. Vì
lòng bi mẫn, các vị Tỳ khưu đồng ý để lại cho họ một ít Xá-lợi.
Ðầy vui sướng, họ đi và đem đến những châu báu để làm lễ vật
cúng dường.
Sakka cùng với chư thiên đi đến chỗ
ấy, mang theo một bộ ngai bằng những châu báu ở trong một cái hộp bằng
vàng. Trong mỗi cái giả ốc xinh đẹp bằng châu báu được Vissakamma dựng
lên ở chỗ đó, nơi mà trưởng lão đã trổi lên khỏi đất, vị ấy đặt
vào chiếc ngai và khi đã nhận hũ Xá-lợi từ tay của trưởng lão, và đặt
những Xá-lợi ấy trong một cái hộp, vị ấy đặt cái hộp ấy ở trên
chiếc ngai.
Ðại phạm thiên cầm chiếc lọng,
Sa.mtusita cầm cái phất trần bằng lông đuôi của con bò Yak, Suyaama cầm
quạt có cán châu báu, Sakka cầm cái vỏ sò đựng nước. Bốn vị thiên vương
đứng với bốn cây đao nắm chắc trong tay và ba mươi ba vị chư thiên có
thần thông lực cầm những cái giỏ. Khi họ đã đi đến đó để cúng dường
những bông hoa Paaricchattaka, ba mươi hai tiên nữ đứng ở đó cầm những
cây đèn trên những chiếc gậy. Hơn nữa, để ngăn ngừa những dạ xoa
ác, hai mươi tám vị nguyên soái dạ xoa đứng canh phòng. Pa~ncasikha đứng
ở đó đang chơi cây đàn luýt, và Timbara, sau khi đã dựng lên một cái bục,
khiến cho tiếng nhạc trổi lên. Nhiều vị chư thiên đứng ở đó hát những
bản nhạc mê ly và chúa của loài rồng Mahaakaala ngâm những bài kệ tán dương
bằng nhiều cách. Những nhạc cụ của chư thiên trổi lên tiếng nhạc, một
đoàn ca sĩ chư thiên xướng âm, những vị chư thiên cho rơi xuống một đám
mưa hoa gồm những hương liệu của chư thiên và những vật cúng dường
khác. Còn trưởng lão Indagutta, để ngăn chặn Ma-vương, đã tạo ra một
cái lọng bằng đồng mà ngài đã làm cho lớn ra như một vũ trụ. Ở phía
đông của Xá-lợi và rải rác khắp nơi trong năm châu (nghĩa là ở đông,
tây, nam, bắc) các vị Tỳ khưu đồng thanh ngâm những bài kệ tán dương.
Ðại vương Du.t.thagaamani vui mừng đi
đến đó, và khi đã đặt cái hộp dựng Xá-lợi trong một cái hộp bằng
vàng mà vua đã mang đi trên đầu, và đã đặt cái hộp ấy trên chiếc
ngai, vua đứng ở đó với hai tay chắp lại, làm lễ và dâng những vật
thí đến Xá-lợi.
Khi vị hoàng tử trông thấy cái lọng,
những vật thơm của chư thiên, và những thứ khác nữa, và nghe tiếng đờn
ca xướng hát của chư thiên, dầu vua không thấy được những vị Phạm
thiên, nhưng tâm đã khởi dậy niềm vui sướng và kinh ngạc trước hiện
tượng kỳ diệu, vua đã cung kính làm lễ Xá-lợi bằng vật cúng dường
là chiếc lọng và thêm vào đó vương quyền trên toàn cõi Tích Lan.
"Tôi xin dâng hiến ba lần địa vị vương quyền của tôi đến vị chúa
tể của thế gian, đến bậc Ðạo Sư mang ba chiếc lọng: của chư thiên,
chiếc lọng trên địa cầu và chiếc lọng giải thoát." Bằng những lời
này, đầy hoan hỉ, vua ba lần dâng vương quyền trên toàn cõi nước Tích
Lan đến Xá-lợi.
Như vậy, cùng với chư thiên và nhân
loại, khi tôn kính Xá-lợi bằng những vật cúng dường, vị hoàng tử đặt
Xá-lợi với hai cái hộp trên đầu của mình, và được vây quanh bởi
chúng Tỳ kheo, vua đi ba vòng quanh bảo tháp theo chiều kim đồng hồ, rồi
đi lên bảo tháp ở hướng đông và lại đi xuống để bước vào phòng
Xá-lợi. Chín mươi sáu ko.ti A-la-hán chắp tay đứng quanh bảo tháp uy nghi.
Ðức vua đầy hoan hỉ, sau khi đã bước vào bảo tháp, suy nghĩ rằng:
"ta sẽ đặt Xá-lợi trên một cái bệ xinh đẹp và đắt giá,"
thì cái hộp đựng Xá-lợi liền bay lên khỏi đầu của vị ấy, và khi
đứng lơ lửng trong không trung cao bảy cây thốt nốt, ngay tức thì cái hộp
tự nó dở nắp ra, Xá-lợi bay lên khỏi cái hộp và khi tụ lại thành
hình tướng của Ðức Phật, rạng ngời những tướng chánh và tướng phụ,
Xá-lợi ấy đã tụ lại thành hình tướng giống như khi Ðức Phật ở dưới
gốc cây Ga.ndamba, thị hiện song thông, là loại song thông mà trước kia,
khi Ðức Phật còn tại tiền đã thị hiện. Khi mọi người trông thấy hiện
tượng kỳ diệu này, với tâm tín lạc, mười hai Ko.ti chư thiên và nhân
loại chứng đắc đạo quả giải thoát A-la-hán; Những kẻ chứng đắc ba
quả thánh giải thoát khác thì không đếm được.
Khi xả bỏ hình tướng của Ðức Phật
những Xá-lợi ấy trở lại chỗ cũ trong cái hộp; Còn cái hộp thì bay xuống
và nằm trở lại trên đầu của đức vua. Cùng với trưởng lão Indagutta
và những cung nữ, vị vua vinh quang đi đến ngay tại cái bệ xinh đẹp và
đặt cái hộp ở trên chiếc ngai bằng châu báu. Ðầy sốt sắng, khi rửa
lại hai bàn tay trong nước thơm và đã thoa lên năm loại vật thơm, vua mở
ra cái hộp, sau khi lấy ra Xá-lợi, vị chúa tể của hải đảo, người hằng
quan tâm đến lợi ích của dân chúng, suy nghĩ như vầy "nếu Xá-lợi
này trú không bị quấy rầy bởi một ai và nếu những Xá-lợi này dùng
làm nơi nương tựa cho dân chúng, sẽ luôn luôn tồn tại, thời xin Xá-lợi
này hãy an ngự trong hình tướng của Bậc Ðạo Sư y như khi Ngài nằm nhập
Niết bàn, ở trên cái bệ được tôn thờ kỹ lưỡng và quí báu".
Khi nghĩ như vậy, vua đặt Xá-lợi
trên cái bệ uy nghi; Những Xá-lợi bèn nằm trên cái bệ huy hoàng trong
hình tướng như vậy. Vào ngày rằm Bố-tát của tháng Aasaa.lha, dưới chòm
sao Utturaasa.lha, những Xá-lợi đã được tôn trí theo cách này. Vào lúc
Xá-lợi được tôn trí, đại địa rung chuyển và nhiều hiện tượng kỳ
lạ xảy ra theo nhiều cách.
Ðức vua, với lòng tịnh tín, đã
làm lễ Xá-lợi bằng cách dâng hiến cái lọng trắng, và quyền chúa thể
toàn đảo Tích Lan trong bảy ngày.
Tất cả những vật trang sức trên
thân, vua cúng dường hết đến phòng Xá-lợi, các cung nữ, quần thần,
tùy tùng và chư thiên cũng làm như vậy. Khi đức vua đã phân phát y phục,
đường, bơ trong và những thứ khác đến chúng tăng, và đã thỉnh chư
tăng tụng kinh suốt đêm khi trời sáng, vua, người quan tâm đến lợi ích
của chúng dân, sai đánh trống rao truyền trong khắp thành phố rằng:
"tất cả dân chúng sẽ làm lễ Xá-lợi trong suốt tuần lễ này."
Trưởng lão Indagutta, bậc có thần thông nguyện rằng: "những người
trên hải đảo Tích Lan muốn đến làm lễ Xá-lợi sẽ đến đây cùng một
lúc, và khi họ đã làm lễ Xá-lợi ở đây, mỗi người sẽ về nhà của
mình." Ðiều này xảy ra y như lời nguyện của trưởng lão.
Khi vị đại vương có danh tiếng lớn
đã truyền lịnh cho cúng dường vật thực to lớn đến chúng Tỳ kheo
trong bảy ngày không gián đoạn, vị ấy công bố rằng: "tất cả điều
gì cần làm trong phòng Xá-lợi, trẫm đã làm xong rồi, bây giờ xin chư
tăng lãnh trách nhiệm đóng cửa phòng Xá-lợi."
Chư tăng giao công việc này hai vị
sa-di. Họ đóng cửa phòng Xá-lợi bằng tảng đá có màu mỡ mà hai vị đã
đem đến (hai vị sa-di là Uttara và Summna).
"Những bông hoa sẽ không héo úa,
những tảng đá có màu mỡ sẽ nằm chung với nhau mãi mãi, những vật thơm
sẽ không khô, những ngọn đèn sẽ không tắt". Tất cả những điều
này do vị trưởng lão đã đoạn tận các lậu hoặc phát nguyện lúc bấy
giờ.
Vị đại vương có lòng mong mỏi đến
hạnh phúc của muôn dân, đưa ra lệnh truyền rằng:"dân chúng sẽ tôn
trí Xá-lợi như vậy chừng nào họ còn đủ khả năng làm như thế".
Và trên kho Xá-lợi to lớn, dân chúng, theo khả năng của họ đã tôn trí
hằng ngàn viên Xá-lợi. Sau khi đã rào quanh tất cả, đức vua đã hoàn
thành công việc bảo tháp. Hơn nữa, vua cũng hoàn thành công việc xây dựng
điện đài bốn mặt ở trên bảo tháp.
Như vậy Chư Phật thật bất khả tư
nghì, ân đức của chư Phật cũng bất khả tư nghì, và phước báu của
những người đặt niềm tin trong những bậc bất khả tư nghì cũng bất
khả tư nghì.
Như vậy, các thiện nhân có lòng mộ
đạo hãy tự mình làm những công việc phước trong sạch, để đạt được
phước báu rực rỡ nhất; Và họ với tâm trong sạch, cũng nên khiến những
người khác làm những việc phước như thế để có được đoàn tùy
tùng gồm những người tối thắng ở trong nhiều giai cấp.
Ở đây chấm dứt chương thứ ba
mươi mốt, được gọi là "Sự tôn trí Xá-lợi", trong bộ
Mahaava.msa, được biên soạn vì niềm tín lạc và xúc động của những
thiện nhân.
-ooOoo-