- ÐẠI VƯƠNG THỐNG SỬ
- MAHÀVAMSA
[10]
CHƯƠNG XXXII
SỰ ÐI VÀO CÕI
TRỜI ÐÂU SUẤT
Trước khi công việc làm đỉnh tháp
và công trình tô quét trên cái vòm được hoàn thành, thì đức vua ngã bịnh,
báo trước giờ phút lâm chung. Vua cho mọi người em trai Tissa từ
Diighavaapi đến và nói rằng: "hoàng đệ hãy ráng làm cho xong công
trình xây dựng bảo tháp còn dang dở." Vì sức của người anh đã cạn
kiệt nên vị hoàng tử em sai những người thợ may làm một tấm vải phủ
bằng vải trắng đắp lên bảo tháp, rồi sai những người thợ sơn làm một
khung chắn ở trên đó và những dãy bình lọ có đựng nước và một dãy
vật trang sức hình năm ngón tay (pa~nca"ngulikapantikaa). Rồi vị ấy sai
những người thợ đan làm một cái đỉnh tháp bằng những cây trúc và
ở khung chắn bên trên, sai làm một mặt trời và hình mặt trăng của
Kharapatta. Và khi đã dùng mẹo sai người làm bảo tháp bằng sơn và
Ka"nku.t.thaka (một loại đất có màu của vàng hay bạc) Tissa bèn công
bố với đức vua rằng "những công việc mà vẫn còn phải làm đối
với bảo tháp đã được làm xong."
Nằm trên chiếc cáng, đức vua đi đến
đó, và khi nằm ở trên chiếc cáng, nhiễu quanh bảo tháp, đi theo chiều
kim đồng hồ, vua làm lễ bảo tháp ở lối vào phía nam, sau đó, khi nằm
trên chiếc long sàng được kê ở trên đất, nghiêng người về bên phải,
nhìn ngắm Ðại bảo tháp uy nghi, rồi nằm nghiêng về phía trái, nhìn ngắm
Thanh đồng điện (Lohapaasaada), vị ấy vui sướng thỏa mãn, được vây
quanh bởi chúng Tỳ kheo.
Vì người ta đã đến từ chỗ này
chỗ kia để nghe tin tức về tình trạng bịnh hoạn của vua, nên có hiện
diện trong hội chúng ấy chín mươi sáu Ko.ti Tỳ kheo. Những vị Tỳ khưu,
nhóm này đến nhóm khác, cùng nhau tụng kinh. Vì không thấy trưởng lão
Theraputtaabhaya ở đâu nên vua suy nghĩ rằng "vị đại dũng sĩ, đã đánh
thắng trong hai mươi tám trận chiến lớn cùng với ta, chưa bao giờ chịu
đầu hàng, xét thấy rằng cuộc chống chọi với tử thần đã bắt đầu,
nên bây giờ trưởng lão không đến để giúp ta, vì vị ấy đã thấy trước
sự chiến bại của ta."
Khi vị trưởng lão, đang trú ngụ ở
bên ngoài của con sông Karinda, trên núi Pa~njali, biết được ý nghĩ của
vua, bèn đi đến cùng với một hội chúng gồm năm trăm vị Tỳ khưu đã
đoạn tận các lậu hoặc, dùng thần thông bay xuyên qua hư không, và trưởng
lão đã đứng trong số vị Tỳ khưu đứng quanh đức vua. Khi vua trông thấy
trưởng lão, đầy vui sướng, vua thỉnh trưởng lão ngồi trước mặt mình
và bạch rằng: "trước kia trẫm đã cùng với ngài ra chiến trận,
bên cạnh trẫm có mười dũng sĩ; Bây giờ một mình trẫm không thể nào
đánh thắng kẻ thù là tử thần được."
Trưởng lão trả lời rằng: "tâu
đại vương, đừng sợ, hỡi đấng trị vì của muôn dân, nếu không đánh
thắng được kẻ thù là tội lỗi, thời không thể nào đánh thắng kẻ
thù là tử thần được. Tất cả pháp nào sanh lên trong cõi hữu đổi
thay này đều phải diệt mất, tất cả những gì có hiện hữu đều phải
diệt mất; Bậc Ðạo Sư đã dạy như thế. Tử thần còn chinh phục cả
chư Phật, là những bậc không bị sự xấu hổ hay ghê sợ đụng chạm đến;
Do đó bệ hạ nên nghĩ rằng: tất cả pháp nào có tồn tại đều phải bị
diệt mất, những pháp ấy đem lại sầu khổ và có tánh chất không thật.
Trong kiếp sanh tử cuối cùng của bệ hạ, tình cảm của bệ hạ đối với
chánh pháp quả thật to lớn. Dẫu cõi chư thiên ở trước mặt của bệ hạ,
tuy thế bệ hạ hãy từ bỏ hạnh phúc của thiên giới, hãy trở lại thế
gian này và làm nhiều việc phước bằng nhiều cách. Hơn nữa, sự xây dựng
quyền bá chủ của bệ hạ đã giúp đem lại sự vinh quang cho giáo pháp,
ôi! bệ hạ là người giàu về phước đức, hãy nghĩ đến tất cả những
việc phước mà bệ hạ đã làm ngay trong kiếp sống hiện tại đây, như
thế mọi chuyện sẽ kiết tường ngay cho bệ hạ!"
Khi nghe qua những lời của trưởng lão,
đức vua hoan hỉ và bạch rằng: "ngài đã giúp trẫm trong một cuộc
chiến đơn độc."
Và đầy vui sướng, vua truyền lịnh
đem đến cuốn sách ghi lại những việc phước, và bảo người sao chép bản
thảo đọc to nó lên, và ông ta đọc to cuốn sách công đức:
"Chín mươi chín tịnh xá đã được
xây dựng bởi đại vương, tịnh xá Marivava.t.tivihaara được dựng lên với
phí tổn mười chín ko.ti đồng tiền vàng, Thanh đồng điện nguy nga được
xây dựng với chi phí ba mươi ko.ti. Còn những thứ khác được dùng để
làm Ðại bảo tháp bởi vị vua có trí tuệ trị giá đến một ngàn ko.ti,
tâu đại vương", người sao chép sách đã đọc như vậy. Khi ông ta đọc
thêm rằng: "ở vùng núi có tên là Ko.t.ta, vào thời có nạn đói gọi
là nạn đói Akkaayika, hai chiếc bông tai quí báu đức vua đã cho đi, và như
vậy kiếm được một món cháo kê chua dành cho năm vị trưởng lão đã
đoạn tận các lậu hoặc, và đã dâng đến các ngài với tâm tịnh tín.
Khi bị chiến bại ở trận Cu.langaniya, vua bỏ chạy, và khi công bố giờ
ăn, vua đã dâng vật thực của mình mà chẳng nghĩ gì đến chính mình, đến
vị Sa-môn Tissa, đã thoát khỏi các lậu hoặc, đi đến đó xuyên qua hư
không - sau đó đức vua làm mới câu chuyện:
"Trong một tuần lễ hiến dâng tịnh
xá Paricava.t.tivihaara cũng như ở lễ hiến dâng Thanh đồng điện, trong tuần
lễ mà Ðại bảo tháp được bắt đầu cũng như khi Xá-lợi được tôn
trí, một cuộc bố thí vật thực đắt giá, to lớn và toàn diện do ta sắp
xếp đến tập thể nam nữ đông đảo từ khắp bốn phương. Ta đã tổ
chức hai mươi bốn đại lễ Vesaakha (lễ mừng đản sanh, thành đạo, và
nhập Niết bàn của Ðức Phật); Ba lần ta đã cúng dường ba chiếc áo đến
chúng tăng trên hải đảo.
Năm lần, mỗi lần bảy ngày, ta, với
lòng tịnh tín, đã dâng địa vị cai trị khắp đảo này đến Giáo pháp.
Ta đã sai đốt một ngàn cây đèn với những tim bấc trắng thường xuyên
ở mười hai chỗ, để cúng dường Ðức Phật bằng lễ vật này. Ở mười
tám chỗ, ta đã sai bố thí đều đặn món cơm đê hồ có trộn mật ong,
và cũng đã bố thí những cục cơm có dầu ở nhiều chỗ, và những cái
bánh lớn tên là bánh Jaala ở nhiều chỗ, được nướng bằng bơ và có
giả thêm gạo nữa. Ở tám tịnh xá trên hải đảo Tích Lan này, ta đã
truyền lịnh phân phát dầu, mỗi tháng một ngày, để đốt đèn. Vì ta đã
nghe rằng sự bố thí pháp cao quí hơn bố thí của cải trên thế gian
này, nên ta đã nói rằng: ở dưới chân của Thanh đồng điện, trên chiếc
ghế của vị Pháp sư, giữa chúng tăng, ta sẽ thuyết giảng bài kinh Hạnh
phúc (Ma"ngalasutta) đến chư tăng; Nhưng khi ta ngồi ở trên đó, thì ta
không thể nào thuyết được vì lòng kính trọng của ta đối với chư
tăng. Từ đó ta truyền lịnh cho thuyết pháp ở khắp mọi nơi trong các tịnh
xá ở Tích Lan, cho những phần thưởng đến những pháp sư. Mỗi vị pháp
sư ta cho một naalii bơ, mật mía và đường; Ngoài ra ta còn cho họ một nắm
cam thảo, dài bốn inch, ta còn cho họ một bộ y. Nhưng tất cả sự bố thí
này trong khi ta còn trị vì, vẫn không làm ta vui sướng. Chỉ có hai sự bố
thí, không quan tâm đến mạng sống của ta trong khi ta ở trong thời kỳ khốn
đốn, hai vật thí ấy làm ta vui sướng.
Khi trưởng lão Abhaya nghe qua điều này,
ngài mô tả hai vật thí ấy, để làm cho đức vua hoan hỉ thêm, bằng nhiều
cách:
"Khi một trong năm vị trưởng lão
là trưởng lão Malayamahaadeva, sau khi nhận lãnh món cháo kê chua, và đã
dâng món cháo ấy đến chín trăm vị Tỳ khưu ở trên núi Sumanakuu.ta, trưởng
lão mới tự mình ăn nó. Còn trưởng lão Dhammagutta, người có thể làm
cho quả đất rung chuyển, đã chia phần vật thực ấy cho các vị Tỳ khưu
ở tịnh xá Kalyaa.nika-vihaara gồm năm trăm vị, rồi mới tự mình ăn. Trưởng
lão Dhammadinna, ngụ ở núi Tala"nga đã chia vật thực đến mười hai
ngàn Tỳ kheo ở núi Piya"ngudiipa, rồi mới tự mình ăn. Trưởng lão
Khuddatissa, bậc có thần thông lực, ngụ ở Ma"nga.na, đã chia phần vật
thực cho sáu chục ngàn vị Tỳ khưu ở tịnh xá Kelaasa, rồi mới tự
mình ăn. Trưởng lão Mahaavyaggha đã phân phát vật thực cho bảy trăm vị
Tỳ khưu ở tịnh xá Ukkanagaravihaara rồi mới tự mình ăn.
Một vị trưởng lão nọ nhận lãnh vật
thực rồi chia cho mười hai ngàn vị Tỳ khưu ở Piya"ndiipa rồi mới tự
mình ăn.
Bằng những lời như vậy trưởng lão
Abhaya đã làm cho tâm của đức vua thêm hoan hỉ, và đức vua đầy sung sướng,
bèn bạch vơi trưởng lão rằng: "Trong hai mươi bốn năm, trẫm đã
làm người bảo trợ cho chúng tăng, và thân của trẫm cũng sẽ là người
bảo trợ cho chúng tăng! Tại một chỗ mà đứng từ đó người ta có thể
trông thấy Ðại bảo tháp, ở trong một khu vực có vòng rào quanh để
chư tăng tiến hành những buổi lễ, tại đó, xin ngài hãy đốt xác của
trẫm, là người hầu của chúng tăng." Rồi đức vua nói với vị
hoàng đệ rằng: "tất cả công trình xây dựng Ðại bảo tháp vẫn chưa
được hoàn thành, này ngự đệ, hãy làm cho xong công trình này, hãy quan
tâm đúng mức. Sáng chiều ngự đệ hãy cúng dường hoa đến Ðại bảo
tháp một cách long trọng, ba lần một ngày. Tất cả những buổi lễ mà
ta đã kể ra để cúng dường Chánh pháp, ngự đệ hãy thực hiện, đừng
bám bíu vào một cái gì. Ðừng bao giờ buông lơi với phận sự đối với
chư tăng", khi đức vua đã khuyên vị hoàng đệ rồi, vị ấy nín
thinh.
Ngay khi ấy chúng Tỳ kheo bắt đầu tụng
kinh, và chư thiên đem đến đó sáu chiếc xe có sáu vị chư thiên đi theo,
và chư thiên đã nhiều lần mời mọc đức vua khi họ đứng trong những
chiếc xe: "hãy đi vào cõi thần tiên đầy vui sướng của chúng tôi,
tâu đại vưong."
Khi đức vua nghe qua những lời của họ,
vị ấy khiến họ dừng lại bằng cử chỉ vẫy tay: "các ngươi hãy
đợi để ta nghe pháp đã." Khi ấy các vị Tỳ khưu suy nghĩ rằng:
"đức vua muốn ngưng tụng kinh", họ bèn ngưng tụng, đức vua hỏi
lý do của sự gián đoạn. "Vì dấu hiệu bảo chúng tôi giữ yên lặng
do bệ hạ dưa ra", họ trả lời. Nhưng đức vua nói rằng: "không
phải vậy, bạch chư đại đức tăng." vua cho họ biết vấn đề vừa
mới xảy ra.
Khi nghe qua điều này, một số người
suy nghĩ rằng "bị khiếp đảm vì nỗi sợ chết, nên vua mới nói ra
những lời lảm nhảm." và để đoạn trừ những hoài nghi của họ,
Abhaya bèn nói với đức vua như vầy: "làm sao có thể cho người khác
biết được rằng có những chiếc xe đã được đem đến đây?" vị
vua có trí tuệ bèn sai người tung những tràng hoa vào trong không trung, những
tràng hoa này tự chúng quấn quanh nhiều lần vào những gọng xe và thòng
xuống như thế.
Khi mọi người trông thấy những
tràng hoa đang đứng lơ lửng trong khung trung như thế, thì họ diệt được
hoài nghi; Còn đức vua thì nói với trưởng lão rằng: "bạch đại đức
cõi chư thiên nào khả ái nhất?" và trưởng lão trả lời rằng:
"thành phố Ðâu suất đà (Tusita), tâu đại vương, là khả ái nhất,
những bậc thiện nhân nghĩ như vậy. Ở thành phố Tusita ấy có Bồ-tát
Metteyya, đầy lòng bi mẫn, đang trú ngụ để chờ đợi thời gian trở thành
một vị Phật.
Khi vị vua có trí tuệ nhất nghe qua
những lời của trưởng lão, sau khi nhìn vào Ðại bảo tháp lần cuối,
bèn nhắm mắt lại.
Ngay khi ấy, sau khi mạng chung, vị ấy
được trông thấy đã tái sanh và đang đứng trong chiếc thiên xa mang hình
tướng một vị chư thiên. Ðó là chiếc thiên xa đến từ cõi trời Ðâu
suất đà. Và để phô trương quả báu của những việc phước mà đức
vua gieo tạo, khi đứng ở trong chính chiếc thiên xa ấy, để cho mọi người
trông thấy mình với tất cả sự vinh quang rực rỡ, sau khi đi như thế với
vai phải hướng về Ðại bảo tháp, và sau khi đã làm lễ Ðại bảo tháp
và chúng tăng, vị ấy đi vào cõi trời Tusita.
Ngay tại chỗ mà những vũ nữ đã
đi đến đó và cởi ra những nữ trang trên đầu của họ, tại chỗ đó
có một giảng đường được dựng lên gọi là Maku.tamuttasaalaa. Ngay tại
chỗ mọi người than khóc khi xác thân của đức vua được đặt trên hỏa
đài, tại đó có tòa nhà Raviva.t.tisaalaa được dựng lên.
Ở khu vực có rào quanh ở bên ngoài
khuôn viên của tịnh xá, nơi mà người ta đốt xác của đức vua, chỗ
ấy mang tên là Raajamaalaka. Ðại vương Du.t.thagaama.ni, người xứng danh với
một vị vua, sẽ là người đệ tử đầu tiên của đức Metteyya tối thắng,
cha và mẹ của đức vua sẽ là cha mẹ của vị ấy (tức của đức
Metteyya). Người em trai Saddhaatissa sẽ là người đệ tử thứ hai của ngài,
nhưng Saaliraajakumaara, con trai của đức vua, sẽ là con trai của đức
Metteyya tối thắng.
Người mà hằng xem đời sống thiện
là việc thiện vĩ đại nhất, làm những những việc phước, khi lấp kín
nhiều điều đã từng là việc ác, sẽ đi về thiên giới như đi vào
chính nhà của mình vậy; Do đó người có trí tuệ hãy thường xuyên vui
thích trong những việc phước.
Ở đây chấm dứt chương thứ ba
mươi hai, được gọi là "Sự đi vào cõi trời Ðâu suất", trong bộ
Mahaava.msa, được biên soạn vì niềm tín lạc và xúc động của những
thiện nhân.
-ooOoo-
CHƯƠNG XXXIII
MƯỜI VỊ VUA
Dưới sự cai trị của vua
Du.t.thagaama.ni, thần dân trong vương quốc sống trong hạnh phúc;
Saaliraajakumaara là đứa con trai nổi tiếng của vua.
Hoàng tử là người có đại phước
và hằng vui thích trong những việc phước; Hoàng tử đã dịu dàng yêu thương
một thiếu nữ Chiên-đà-la cực kỳ xinh đẹp. Bởi vì hoàng tử quá yêu
thương Asokamaalaa -devii, bởi lẽ trong kiếp quá khứ nàng đã từng là vợ
của hoàng tử, do tánh chất yêu kiều đầy quyến rũ của nàng, nên hoàng
tử chẳng quan tâm chút nào đến vương quyền. Do đó người em của
Du.t.thagaama.ni, là Saddaahaatissa, là vị vua đã được phong vương sau khi
Du.t.thagaama.ni thăng hà, là một vị vua có một không hai, đã trị vì trong
mười tám năm.
Vua Tissa đã làm xong công trình về đỉnh
tháp, và công trình tô quét và bức tường voi (có hình những con voi trên
bức tường) của Ðại bảo tháp, là người có niềm tin nên vị ấy được
cái tên là Saddhaatissa.
Thanh đồng điện nguy nga bị bốc cháy
do lửa từ một ngọn đèn. Do đó vị ấy dựng lên một Thanh đồng điện
mới cao bảy tầng. Và bây giờ lâu đài trị giá chỉ chín chục lần một
trăm ngàn. Vua đã xây dựng tịnh xá Dakkhi.naagiri-vihaara và tịnh xá
Kallakaalena, tịnh xá Kalambaka-vihaara, tịnh xá Petta"ngavaalika, những tịnh
xá Vela"ngaavi.t.thika, và Maatuvihaaraka. Vua cũng xây dựng những tịnh xá
từ Anuraadhapura đến Diighaavaapi, mỗi tịnh xá cách nhau một do tuần.
Hơn nữa, vua cũng dựng lên tịnh xá
Diighaaviipi-vihaara cùng với bảo tháp; Vua đã sai làm một mạng lưới bằng
ngọc phủ lên bảo tháp này, ở trong mỗi mắc lưới của nó có treo một
bông hoa bằng vàng rực rỡ, lớn bằng bánh xe bò. Ðể tỏ lòng tôn trọng
tám mươi bốn ngàn pháp môn, vua đã sai cúng dường tám mươi bốn ngàn lễ
vật. Khi đức vua thực hành viên mãn những việc phước như vậy, sau khi
mạng chung, vị ấy tái sanh vào cõi trời Ðâu suất đà.
Trong khi đại vương Saddhaatissa vẫn còn
sống, ở Diighavaapi thì đứa con trai đầu tên là La~njatissa đã xây dựng
một tịnh xá xinh đẹp tên là Girikumbhila; Và đứa con trai nhỏ của vua, tên
là Thuulathana, xây dựng tịnh xá tên là Kandara. Khi người cha là
Saddhaatissa ở Anuraadha đi đến người anh trai của vị ấy là
Du.t.thagaama.ni ở Anuraadhapura, thì Thuulathana cũng đi theo, để dâng đất đến
chư tăng cho trọn quyền sử dụng trên tịnh xá của vị ấy.
Khi Saddhaatissa thăng hà, các quan thần
hội họp lại, và khi họ mời tất cả chư tăng ở Thuupaaraama đến họp,
và được chư tăng đồng ý, họ làm lễ phong vương cho hoàng tử
Thuulathana. Khi La~njathana nghe tin này, vị ấy bèn đi đến đó, hạ bệ vị
vua mới lên ngôi, và giành quyền cai trị về cho chính mình. Như vậy
Thuulathana chỉ làm vua được một tháng mười ngày.
Suốt ba năm La~njatissa đã xem nhẹ và
thờ ơ với chư tăng, vì vị ấy nghĩ rằng: "họ đã không quyết định
theo tuổi tác." Nhưng về sau, khi vị ấy đã hòa với chư tăng, để
chuộc lỗi, đức vua đã bỏ ra một trăm ngàn đồng để xây dựng ba cái
bệ bằng đá để đặt những lễ vật bằng hoa cúng dường đến Ðại bảo
tháp, sau đó vua bỏ ra một trăm ngàn để sai đổ đất ở giữa tịnh xá
Thuupaaraama và tại bảo tháp, làm cho khoảng đất được bằng phẳng. Vua
còn làm một tảng đá rực rỡ để đắp vào bảo tháp ở Thuupaaraama, và
ở về hướng đông của Thuupaaraama một bảo tháp nhỏ bằng đá được dựng
lên, và giảng đường La~njakaasaana dành cho chư tăng. Vua còn sai làm một lớp
bọc ngoài bằng đá cho bảo tháp Khandhakathuupa. Và sau khi đã chi ra một trăm
ngàn cho tịnh xá Cetiya-vihaara (là tịnh xá ở núi Cetiyapabbata) vua truyền lịnh
cúng dường sáu bộ tam y cho sáu chục ngàn vị tỳ kheo trong dịp lễ hiến
dâng tịnh xá có tên Girikumbhila.
Vua còn xây dựng tịnh xá Ari.t.tha và
tịnh xá Kuĩjarahiinaka, và cúng dường những loại thuốc trị bịnh đến
những vị Tỳ khưu trong các ngôi làng. Bố thí gạo đến những vị Tỳ
khưu ni nhiều theo số lượng họ muốn. Vua đã trị vì ở đây chín năm một
nửa tháng.
Khi La~njakatissa thăng hà, người em
trai của vị ấy tên là Khallàỉanaaga lên trị vì được sáu năm. Ở khắp
quanh Thanh đồng điện, vị ấy dựng lên ba mươi hai điện xinh đẹp khác
để làm cho Thanh đồng điện thêm nguy nga tráng lệ. Quanh Ðại bảo tháp,
có tên là tràng hoa vàng (hemmaalii), vua rải cát ở sân và dựng một bức
vách để làm ranh giới. Vua còn xây dựng tịnh xá Kurundavaasokavihaara, và
làm những việc phước khác nữa.
Một vị nguyên soái tên là
Kammahaarattaka, đánh bại nhà cai trị, là vua Khallaỉanaaga, ngay trong kinh đô.
Nhưng người em của đức vua tên là Vattagaamani đã giết chết tên nguyên
soái tàn ác và nắm quyền cai trị. Vua nhận đứa con trai nhỏ của anh mình,
là Mahaacuulika, con trai của Khallaỉanaaga, làm con của vị ấy, và người mẹ
của đứa bé, tên là Anulaadevii, vua tấn phong làm hoàng hậu. Bởi vì vị
ấy đứng vào địa vị của một người cha nên người ta gọi vị ấy là
Pitaraajaa.
Vào tháng thứ mười lăm sau khi
Va.t.tagaama.ni được phong vương, một chàng trai Bà-la-môn tên là Tissa, ở
Rohana, trong thành phố mà bộ tộc của hắn trú ngụ, là kẻ thiêu trí, đã
lắng nghe lời tiên tri của một vị Bà-la-môn và trở thành kẻ phản loạn,
và tùy tùng của hắn tăng lên nhiều. Vào thời bấy giờ có tám vị
Dami.la đáp đất liền với những đoàn quân của họ tại Mahaatittha.
Bà-la-môn Tissa và tám vị Dami.la gởi đến đức vua một bức tối hậu
thư đòi trao quyền, vị vua tài trí bèn gởi đến Bà-la-môn Tissa một bức
đề rằng: "vương quốc bây giờ là của ngươi, vậy ngươi hãy đánh
bại những tên Dami.la". Vị Bà-la-môn trả lời rằng: "được",
và đánh một trận với những tên Dami.la nhưng những vị Dami.la đã đánh
bại hắn.
Nhân đó những tên Dami.la tuyên chiến
với đức vua; trong một trận đánh ở gần Kolambaalaka, đức vua bị bại
(gần cổng của khu già lam Titthaaraama vị ấy bước vào xe và bỏ chạy.
Nhưng Titthaaraama được xây dựng bởi vua Pa.n.dukaabhaya và đã từng có hai
mốt vị vua đến trú ngụ). Khi một vị Niga.ntha tên là Giri trông thấy đức
vua bỏ chạy, ông ta bèn kêu to lên rằng: "con sư tử đen to lớn đang
bỏ chạy". Khi vị đại vương nghe qua câu ấy, bèn nghĩ rằng: "nếu
ước nguyện của ta được thành tựu thời ta sẽ xây dựng ở đây một
tịnh xá".
Vua dẫn theo hoàng hậu Anulaadevii,
đang có thai, khi nghĩ rằng: "nàng phải được bảo vệ", và
Mahaacuula cũng vậy và đứa con trai của vị ấy là hoàng tử Mahaanaaga, khi
nghĩ rằng: "chúng phải được bảo vệ". Nhưng để làm nhẹ bớt
chiếc xe, vua cho đến Somadevii (người vợ thứ hai của vua) viên bảo châu
rực rỡ trên vương miện của mình và để nàng xuống, khi nàng đã bằng
lòng.
Sau khi đã lên đường ra chiến trận,
đầy sợ hãi, mang theo hai đứa con trai còn nhỏ và hai bà hoàng hậu. Vì bị
bại trận vua bỏ chạy, và không thể mang theo cái bát của bậc Chiến thắng
(cái bát này đến Tích Lan trong thời của vua Devaana.mpiya), vua vào trốn
trong rừng Kupikkala. Khi trưởng lão Mahaatissa ở tịnh xá Kupikkala trông thấy
đức vua ở đó, trưởng lão bèn cho vị ấy vật thực, tránh không cho vật
thực chưa được đụng tay vào (theo luật vị Tỳ khưu phải ăn trước mới
được phép cho đến người cư sĩ, trưởng lão Mahaatissa đã làm như thế).
Nhân đó đức vua, đầy vui sướng, khi ghi lại điều ấy trên ngọn lá
Ketaka, chia những phần đất đến tịnh xá của trưởng lão để tăng chúng
sử dụng. Từ đó vua đi đến Silaasobbhaka.n.daka và lưu lại ở đó; Rồi
đi đến Maatuvelanga gần Saamagalla và ở đó gặp trưởng lão
Kupikkala.mahaatissa, là người mà đức vua đã gặp trước kia rồi. Trưởng
lão bèn sai người cận sự của mình là Tanasiiva, chăm sóc đức vua cẩn
thận và chu đáo. Sau đó vua sống trong nhà của một thần dân của vua là
Tanasiiva, suốt mười bốn năm, được vị cư sĩ này nuôi dưỡng.
Trong số bảy vị Dami.la, một người,
vì say mê hoàng hậu Somadevii vì yêu kiều, nên lấy nàng làm sở hữu của
mình và ngay tức thì trở lại bờ biển bên kia (Ấn Ðộ). Một người khác
lấy cái bát của bậc Ðạo Sư, bậc có Thập lực, tại Anuraadhapura, và
đầy thỏa mãn, trở về ngay ở bờ biển bên kia.
Còn vị Dami.la Pu.lahattha thì trị vì
được ba năm, phong cho vị Dami.la tên là Baahiya vào chức nguyên soái,
Baahiya giết Pu.lahattha và trị vì được hai năm; vị nguyên soái của
Baahiya là Panayamaara giết chết Baahiya và làm vua được bảy năm; vị nguyên
soái của Panayamaara là Pi.layamaara giết Panayamaara và làm vua được bảy tháng;
Vị nguyên soái của Pi.layamaara là Daa.thika giết Pi.layamaara và trị vì được
hai năm ở Anuraadhapura. Như vậy thời gian cai trị của năm vị Dami.la là mười
bốn năm bảy tháng.
Tại Malaya, có một lần nọ,
Anulaadevii đi kiếm vật hằng ngày, bị bà vợ của Tanasiiva dùng chân đá
vào cái giỏ của nàng. Và nàng nổi giận, đi đến đức vua khóc lóc. Khi
Tanasiiva nghe tin này, vị ấy vội vã đi ra khỏi nhà, cầm cây cung. Khi đức
vua nghe hoàng hậu nói, vị ấy cùng với hai đứa con trai và vợ vội vã
ra khỏi nhà, trước khi Tanasiiva đi đến. Khi gắn tên vào cây cung, vị anh
hùng vinh quang bắn xuyên thủng siiva khi ông ta đi đến. Khi ấy đức vua
xưng tên tuổi của mình và thâu nạp tùy tùng quanh vị ấy. Vị ấy có
được tám dũng sĩ và cho họ làm quan thần, và tùy tùng cũng như khí giới
của đức vua đã tăng lên nhiều.
Vị vua nổi tiếng tìm đến trưởng
lão Mahaatissa của tịnh xá Kupikkala và truyền lịnh tổ chức một lễ hội
ở tịnh xá Acchagalla để cúng dường Ðức Phật. Ngay khi vị quan
Ka.nasiiva, sau khi đi lên đến sân của bảo tháp aakaasa-cetiya, đã đi xuống
khỏi đó, và đức vua đang đi chung với hoàng hậu, trông thấy vị quan
đang ngồi bên đường, tức giận vì vị quan kia không sụp mình trước
vua, nên vua xuống tay giết chết Kapisiiva. Sau đó vì phẩn nộ đức vua, nên
bảy vị quan kia bỏ đức vua mà rút lui và khi đi đến chỗ mà xem ra tốt
đối với họ, họ bị tước đoạt những vật ở hữu trên đường đi bởi
những tên cướp, và họ vào nương náu trong tịnh xá Hambugallaka, ở đó họ
tìm đến trưởng lão uyên bác Tissa. Trưởng lão, là người thông thạo bốn
bộ Nikaaya (Diigha, Majjhima, Samyutta và Anguttara Nikaaya). Trưởng lão lấy y phục,
đường, dầu và gạo đã nhận được cho đến họ.
Khi đã làm cho khỏe khoắn trở lại
rồi, trưởng lão bèn hỏi họ rằng: "các người đang đi đâu thế?"
họ tự giới thiệu về mình và kể cho trưởng lão nghe qua vấn đề này.
Nhưng sau đó khi được hỏi rằng: "do ai giáo pháp của Ðức Phật có
thể được phát triển mạnh? nhờ những tên Dami.la hay đức vua?" họ
trả lời rằng "do đức vua điều này mới có thể xảy ra được".
Và khi đã thuyết phục được họ, hai vị trưởng lão, Tissa và Mahaatissa,
bèn dẫn họ đi khỏi đó và đem họ đến đức vua và giải hòa họ với
đức vua. Ðức vua và các vị quan tìm đến các vị trưởng lão và nói rằng:
"nếu công việc của chúng tôi được tốt đẹp, thời các ngài phải
đến với chúng tôi khi chúng tôi đã nhắn tin đến các ngài". Hai vị
trưởng lão đồng ý và mỗi người trở về chỗ ngụ riêng của mình.
Khi vị vua nổi tiếng đã đến
Anuraadhapura và đã giết tên Dami.la Daa.thika, giành lấy quyền cai trị. Và
ngay tức thì vua sai phá tan khu già lam của những ngoại đạo sư Niga.ntha và
xây dựng ở đó một tịnh xá với mười hai cái cốc. Khi hai trăm mười
bảy năm mười tháng và mười ngày đã trôi qua kể từ khi thành lập Ðại
tịnh xá Mahaavihaara thì đức vua, với tâm rất chí thành chí kính, đã
xây dựng tịnh xá Abhayagiri-vihaara. Vua cho mời hai vị trưởng lão đến và
dâng tịnh xá đến trưởng lão Mahaatissa để tỏ lòng kính trọng trưởng
lão. Bởi vì vua Abhaya đã xây dựng tịnh xá tại khu già lam Giri của những
vị Niga.n.tha, nên tịnh xá ấy được mang tên là Abhayagiri.
Khi vua đã cho gọi Somadevii đến, bèn
đưa nàng lên địa vị cũ, và để tôn trọng nàng, vua xây dựng khu già
lam Somaaraama, mang tên của nàng vì người đàn bà xinh đẹp này, đã xuống
xe tại chỗ này và giấu mình trong bụi hoa Kadamba, trông thấy một vị
Sa-di tại chính chỗ ấy đang đi vệ sinh, trang nghiệm dùng tay để che đậy,
nên khi đức vua nghe qua câu chuyện của nàng, vua bèn dựng lên ở đó một
tịnh xá.
? về hướng bắc của Mahaathưpa, chính
vị vua này đã xây dựng trên chỗ cao quí ấy một bảo tháp tên là
Silaasobhaka"ndaka.
Một trong bảy dũng sĩ của đức vua
tên là Uttiya, đã xây dựng một tịnh xá tên là Dakkhi.na-vihaara, ở về hướng
nam của thành phố. Trong cùng chỗ ấy, một vị quan tên là Muula, đã xây
dựng tịnh xá Mưlavokaasa-vihaara, là tịnh xá mang tên vị quan này. Vị quan
tên là Saaliya, xây dựng già lam Saaliyaaraama, vị quan tên là Pabbata xây dựng
khu già lam Pabbataaraama; còn vị quan Tissa thì xây dựng già lam
Uttaratissaaraama. Khi những tịnh xá xinh đẹp đã được hoàn thành, họ
tìm đến trưởng lão Tissa và tác bạch những lời này để dâng đến các
ngài: "Ðể tỏ lòng tri ơn lòng tốt của ngài, chúng con xin dâng đến
ngài những tịnh xá này do chúng con xây dựng".
Trưởng lão bèn cử nhiều vị Tỳ khưu
ở khắp nơi vào trú ngụ trong những tịnh xá này, theo địa vị của họ,
và các quan dâng bốn món vật dụng đến chúng Tỳ kheo. Ðức vua cũng dâng
cúng bốn món vật dụng đến các vị Tỳ khưu ấy, để không còn thiếu
thốn cái gì nữa. Do đó số Tỳ kheo tăng lên nhiều.
Một vị trưởng lão nọ, được biết
đến qua cái tên là Mahaatissa, là người hay lui tới các gia đình của cư
sĩ, bị chư tăng trục xuất ra khỏi tịnh xá vì lỗi này, là lỗi thường
xuyên đi đến các gia đình cư sĩ. Người đệ tử của vị ấy, là trưởng
lão Bahalamasautissa, bất bình, đi đến tịnh xá Abhayagiri và trú ngụ ở đó,
lập nên một hội chúng riêng biệt. Và từ đó trở đi những vị Tỳ
khưu này không còn đi đến tịnh xá Mahaavihaara nữa; Như vậy những vị Tỳ
khưu của tịnh xá Abhayagiri đã tách rời khỏi Theravaada "Phật giáo
nguyên thủy". Về sau những vị Tỳ khưu ở tịnh xá Dakkhiía-vihaara
tách rời khỏi nhóm Tỳ khưu ở Abhayagiri; bằng cách này những vị Tỳ khưu
đã tách rời khỏi những vị Tỳ khưu trung thành với Theravaada, họ hình
thành hai phái.
Ðức vua xây dựng thêm những cái cốc
cho tịnh xá để số Tỳ khưu gia nhập vào được tăng lên, vì vua nghĩ rằng:
"bằng cách này mới có thể duy trì các ngài".
Xưa kia những vị Tỳ khưu có trí tuệ
bậc nhất đã truyền lại Tam tạng và chú giải của Tam tạng bằng miệng,
nhưng vì thấy rằng có nhiều người xuống dốc trong chánh pháp, nên các
vị Tỳ khưu hội họp lại, và đã cho giáo pháp được trường tồn, các
ngài mới chép lại những lời kinh vào các bộ sách.
Như vậy từ đầu chí cuối, vua
Va.t.tagaama"ni-Abhaya đã trị vì được mười hai năm và năm tháng.
Như vậy bậc có trí tuệ, sau khi lên
nắm quyền cai trị đã làm việc vì sự an lạc của những người khác
và cho chính mình, nhưng người thiếu trí, dầu có nhiều của cải, vẫn
không chịu bố thí để đư?c an lạc cho cả hai vì tánh tham lam, muốn có
của cải nhiều hơn.
Ở đây chấm dứt chương thứ ba
mươi ba, được gọi là "mười vị vua", trong bộ Mahaava.msa, được
biên soạn vì niềm tín lạc và xúc động của những thiện nhân.
-ooOoo-
CHƯƠNG XXXIV
MƯỜI MỘT VỊ
VUA
Sau khi đức vua thăng hà, Mahaatissa trị
vì mười bốn năm một cách trung chánh.
Bởi vì vua nghe rằng vật thí do
chính tay của mình cho ra đem lại phước báu đầy đủ, nên đức vua trong
chín năm cai trị đầu tiên, đã cải trang đi gặt lúa, và bằng số tiền
công nhận được, vị ấy mua vật thực cúng dường đến trưởng lão
Mahaasumana. Khi đức vua cũng đã làm việc ở nhà máy mía trong ba năm, và
đã nhận được những cục đường thù lao, vua cầm lấy những cục đường,
và khi đã trở về kinh đô của mình, vị chúa của muôn dân sai cúng dường
đại thí đến chúng Tỳ kheo. Vua cúng dường y phục đến ba chục ngàn vị
Tỳ khưu và đến mười hai ngàn vị Tỳ khưu ni.
Khi người bảo vệ quả đất đã
xây dựng một tịnh xá được khéo thiết kế, vị ấy cúng dường sáu bộ
tam y đến sáu chục ngàn vị Tỳ khưu và sáu bộ tam y đến ba chục ngàn
vị Tỳ khưu ni. Ðức vua cũng xây dựng tịnh xá Ma.n.davaani-vihaara,
Abhayagallaka-vihaara, Va"nkaava.t.-takagalla và Diighabaahu- gallaka cùng
Jaalagaama-vihaara.
Khi đức vua đã làm những việc phước
bằng nhiều cách do niềm tin thúc dục, sau mười bốn năm trị vì, vị ấy
mạng chung và sanh về thiên giới.
Con trai của Va.t.tagaama.ni, là
Coranaaga, sống như một kẻ phản loạn dưới sự cai trị của Mahaacuu.la.
Khi Mahaacuu.la đã ra đi, vị ấy đi đến và cai trị. Những nơi mà không nương
náu được trong suốt thời gian sống cuộc đời phản loạn, đó là mười
tịnh xá, đã bị kẻ ngu này phá hủy. Coranaaga trị vì mười hai năm. Và
vì ăn nhằm vật thực có tẩm độc dược do bà chánh hậu của vị ấy
đem đến, nên kẻ ác kia đã chết và tái sanh vào địa ngục Lokantarika.
Sau cái chết của vị vua này, con trai
của vua Mahaacuu.la tên là Tissa, lên ngôi trị vì ba năm. Còn bà vợ của
Coranaaga, là người đàn bà ô danh Anulaa, sau khi đã giết người chồng ác
của nàng, bằng cách đầu đ?c vị ấy, bởi vì nàng đã thông tình với một
tên thị vệ. Và để bảo vệ mối tình với tên thị vệ này, Anulaa bấy
giờ cũng giết chết Tissa bằng thuốc độc và trao quyền cai trị cho người
kia.
Khi người thị vệ, có tên là Siva,
là người lính canh cổng đầu tiên, đã tấn phong cho Amulaa lên ngôi hoàng
hậu, vị ấy cai trị trong kinh đô được một năm và hai tháng, nhưng
Anulaa lại thông tình với tên Dami.la Va.tuka, nên đã giết chết vị vua
này bằng độc dược và trao quyền cai trị cho Va.tuka. Vị Dami.la Va.tuka
là người thợ mộc trong kinh đô, sau khi đã tôn phong Anulaa lên ngôi hoàng
hậu, sau đó trị vì được một năm và hai tháng trong kinh đô.
Nhưng Anulaa, khi trông thấy một người
gánh củi đi đến nhà, nàng đem lòng yêu thương anh ta, và khi nàng đã giết
Va.tuka bằng độc dược, nàng trao quyền cai trị cho người gánh củi này.
Người gánh củi tên là Tissa, khi đã phong hoàng hậu cho Anulaa, trị vì
được một năm và một tháng trong kinh đô. Vị ấy vội vã sai làm một
cái hồ tắm ở Mahaameghavana. Nhưng Anulaa, khởi dục tình với một tên
Dami.la là Niliya, là một vị Bà-la-môn làm chức tư-tế-quan, và vì muốn
được ăn nằm với vị tư-tế-quan này, nên đã giết Tissa, người gánh củi,
bằng độc dược và trao quyền cai trị cho Niliya. Vị Bà-la-môn Niliya cũng
phong nàng làm hoàng hậu và dưới sự bảo vệ của nàng, đã trị vì được
sáu tháng ở đây tại Anuraadhapura.
Khi bà hoàng hậu dâm đãng Amulaa muốn
hưởng lạc với ba mươi hai người lính thị vệ, bèn giết Niliya bằng độc
dược và đứng ra trị vì trong bốn tháng.
Nhưng đứa con trai thứ hai của vua
Mahaacuu.lika, tên là Ku.taka.n.na-Tissa, đã bỏ chạy vì sợ Anulaa và xuất
gia. Lúc thời cơ đến sau khi chiêu tập quân sĩ, vị ấy trở về và giết
chết người bàn độc ác Anulaa, và lên ngôi vua trị vì hai mươi hai năm.
Vua xây dựng một ngôi nhà phát lồ to lớn ở trên núi Cetiya, và ở về hướng
đông của ngôi nhà phát lồ này, đức vua dựng lên một bảo tháp bằng
đá, và trong cùng chỗ ấy ở trên Cetiya, vua đã trồng cây Bồ-đề.
Ở miền đất giữa hai con sông, vua
xây dựng tịnh xá Pe.lagaama-vihaara và trong cùng chỗ ấy, vua sai đào một
con kênh tên là Va.n.naka và hồ nước Ambadugga và con sông giữa Bhayoluppala,
vua còn sai làm một bức tường thành cao bảy hắc tay và một đường hào
quanh thành phố. Khi vua đã đốt xác người đàn bà dâm đãng Anulaa trên hỏa
đài, hơi cách xa chỗ ấy, vua sai xây dựng một cung điện mới. Vua cũng lập
nên vườn ngự uyển Madumassara ngay trong thành phố. Bà mẫu hậu của vua
xuất gia trong giáo pháp của Bậc Chiến thắng sau khi bà vừa mới đánh răng.
Ở chỗ đất dùng để xây dựng hoàng cung, vua xây dựng một ni viện cho
mẹ của mình; do đó ni-viện này mang tên là Dantageha "để kỷ niệm lúc
bà đánh răng", danta (răng).
Sau khi vua Ku.tanka.n.na Tissa thăng hà,
con trai tên là Bhaa.tikaabhaya, lên kế ngôi trị vì hai mươi tám năm. Bởi vì
vị vua sùng đạo này, là anh (em) của vua Mahaadaa.thika, nên mọi người trên
hải đảo biết vị ấy qua cái tên là Bhaa.tikaraaja. Ở đây vị ấy đã sửa
sang - Thanh đồng điện và làm hai hàng rào (vedikaa) cho Mahaathuupa, và thêm
ngôi nhà phát lồ trong tịnh xá lấy tên của Bảo tháp (tức là
Thuupaaraama).
Và để thực hiện công việc nặng
nhọc của mình vua đã trồng những cây hoa Sumana và Ujjuka trên một khoảng
đất rộng một do tuần quanh thành phố. Và sau khi vua đã truyền lịnh rằng,
Ðại bảo tháp, từ chân hàng rào đến đỉnh tháp, phải được tô phết
bằng một loại vữa làm bằng chất dẻo có mùi thơm, dày bốn lóng tay
và những cây hoa phải được rào quanh bằng những cái cọc. Vào một dịp
khác, vua truyền cho người ta tô phết Bảo tháp bằng chất vữa dày tối
thiểu tám lóng tay, và như vậy vua đã biến bảo tháp ấy thành một đồi
hoa. Lại một lần khác, vua truyền lịnh cho rải hoa từ những bậc cấp
lên đỉnh tháp và như vậy vua đã phủ lên bảo tháp bằng một khối hoa.
Sau đó, khi vua đã sai người đưa nước từ bể chứa Abhaya lên, bằng
cách tưới những khối nước lên bảo tháp, vua đã làm công việc cúng dường
nước. Từ một trăm cỗ xe ngọc trai vua sai trộn vữa pha dầu, làm thành
một lớp phủ cho bảo tháp, vua sai làm một mạng lưới bằng san-hô và phủ
lên Ðại bảo tháp, và khi vua sai người buộc vào những mắt lưới những
hoa sen bằng vàng, lớn bằng những bánh xe bò và sai treo những chùm ngọc
trai trên những hoa sen này cho thấu đến hoa sen ở bên dưới. Vua đã cúng
dường bảo tháp bằng vật cúng dường này.
Một hôm nọ, khi vua nghe trong phòng
xá-lợi có tiếng tụng kinh của những vị A-la-hán, vua quyết định rằng:
"ta sẽ không đứng dậy cho đến khi nào ta trông thấy - phòng xa-lợi
ấy mới thôi", và vua nhịn đói, nằm ở chân của cái cột trụ bằng
đá ở hướng đông. Những vị A-la-hán tạo ra một cánh cửa dành cho vị
ấy và đưa vị ấy vào phòng Xá-lợi. Khi vị đại vương đã trông thấy
tất cả vật trang sức của phòng Xá-lợi, vua bèn đi ra và làm một lễ vật
cúng dường bằng đất sét được nặn giống như những hình tượng trong
phòng Xá-lợi.
Ðức vua đã bảy lần cúng dường đến
Ðại bảo táp bằng những thứ như: những tô mật ong, các loại nước
hoa, những cái bình đựng đầy hoa và những loại trầm hương, bột màu
để làm mỡ bôi và bột thoa Ðan-duyên (minima): những hoa sen được rải
đầy trong sân của Bảo tháp lên đến mắt cá chân làm cho cái sân nhuộm
màu đỏ rực; những hoa sen được buộc vào những kẽ hở của những tấm
thảm, được trải trên đất thơm đầy cả sân của bảo tháp; nhiều ngọn
đèn đã được thắp sáng, tim đèn bằng những dải vật liệu thô được
nhúng trong thục tô, những thứ ấy được đổ vào trong sân của bảo
tháp sau khi đã bít kín các kẽ hở không cho thục tô chảy ra ngoài; Ngoài
ra còn có - những ngọn đèn bằng tim bấc được nhúng trong dầu Madhuka
và dầu mè.
Hơn nữa, do niềm tin thôi thúc, vua
truyền lịnh tổ chức lễ hội hằng năm cho công trình tô mới và những
lễ hội tưới nước vào cây Ðại bồ đề, lại thêm hai mươi tám lễ
Vesaakha lớn và tám mươi bốn lễ nhỏ, ngoài ra vua còn tổ chức những đội
ca vũ đờn kèn để cúng dường Ðại bảo tháp. Mỗi ngày thường xuyên
vua làm lễ Phật ba lần và sai cúng dường hoa - thường xuyên mỗi ngày
hai lần.
Vua cũng thường xuyên cúng dường vật
thực vào lúc có thuyết pháp và vào dịp lễ tự tứ, ngoài ra vua còn
cúng dường nhiều vật dụng Sa-môn, như dầu, mật mía, y phục và những
thứ khác đến chư tăng. Hơn nữa, vua còn cúng dường đất ở khắp nơi
dành cho các bảo tháp để người có dùng mà sửa chữa các bảo tháp. Vua
thường xuyên cúng dường vật thực lãnh bằng phiếu đến một ngàn vị
Tỳ khưu trong tịnh xá Cetiya-Pabbata. Tại năm chỗ là ba cung điện ở bên
trong hoàng cung: Cittupa.t.thaanapaasaada, Ma.niupa.t.thaanapaasaada, và
Mucalupa.t.thaanapaasaada, nhà hoa sen và cung điện xinh đẹp Chattapaasaada để
cúng dường các vị Tỳ khưu chuyên về kinh tạng, vua luôn luôn cung cấp
cho họ tất cả những gì cần đến, với lòng tịnh tín đối với giáo
pháp. Ngoài ra vua Bhaatika cũng làm những việc phước mà các vị vua trước
đã từng làm cho giáo pháp.
Sau khi Bhaatikajaara thăng hà, người em
trai của vị ấy tên là Mahaadaa.thikamahaanaaga trị vì được mười hai
năm, vị vua này hằng siêng năng làm những việc phước. Vua sai đắp một
lớp đá Ki~ncikkha ở bốn mặt của Ðại bảo tháp và làm lại con đường
nhỏ rải cát ở quanh bảo tháp thành cái sân rộng; vua còn sai đặt những
pháp tọa ở trong các tịnh xá dành cho các vị pháp sư. Ðức vua cũng xây
dựng bảo tháp Ambatthala-thuupa; bởi vì vì tòa tháp không vững chắc, nên
vua đã liều mình nằm trong chỗ ấy, tưởng niệm ân đức của Phật. Khi
vị ấy đã làm cho tòa tháp được vững chắc và đã làm xong bảo tháp,
ở bốn lối vào, vua sai làm bốn cái cổng hình cung có cẩn châu báu, được
khéo thiết kế bởi các nghệ nhân và lấp lánh những loại ngọc. Vua làm
một lớp phủ bằng vải len đỏ và thêm những quả cầu bằng vàng và những
chuỗi ngọc trai ở giữa hai quả cầu, tấm thảm ấy vua sai đắp vào bảo
tháp.
Khi vua đã sửa soạn một vùng đất
rộng một do tuần quanh núi Catiya, bốn cổng vào và một con đường xinh
đ?p quanh khắp ngọn núi, và sai dựng lên những cửa tiệm buôn bán ở hai
bên con đường và trang hoàng khắp con đường những cờ xí, cổng vòng
cung và những cái cổng khải hoàn và đã làm cho sáng rực lên bằng những
dãy đèn, vua truyền lệnh cho múa, hát và hòa nhạt. Ðể mọi người có
thể đi trên con đường từ sông Kadamba đến núi Cetiya bằng chân không
mà không bị dơ, vua sai trải xuống những tấm thảm - chính các vị chư
thiên cũng có thể tổ chức buổi họp cho ngày hội ở đó bằng điệu múa
và tiếng nhạc - Vua còn bố thí dồi dào ở bốn cổng của kinh đô. Khắp
toàn thể hải đảo vua sai treo chằng chịt những dãy đèn, ngay cả trên mặt
biển xa một do tuần. Tại buổi lễ khánh thành bảo tháp, đức vua đã
cúng dường những lễ vật xinh đẹp này; mọi người trong hải đảo này
gọi lễ hội ấy là "Sơn đăng cúng dường".
Khi vị chúa của địa cầu đã truyền
lịnh cúng dường vật thực ở năm chỗ đến các vị Tỳ khưu đã đến
để dự lễ hội, bằng cách sai đánh những cái trống bằng vàng đã được
đặt ngay ở đó, đức vua đã bố thí dồi dào đến hai mươi bốn ngàn Tỳ
khưu. Vua phân phát sáu bộ y phục, truyền lịnh ân xá cho những tội
nhân, và sai thợ cạo thường xuyên làm công việc của họ ở bốn cổng.
Hơn nữa tất cả những việc phước mà các vị vua quá khứ thực hiện
đức vua cũng thực hiện theo một cách đầy đủ không chểnh mãng. Vua cũng
cống hiến chính bản thân mình, hoàng hậu và hai đứa con trai (là
Aama.n.dagaamani và Tissa) con voi và con ngựa - của vua cưỡi đến chư tăng
để làm của riêng của các ngài, dầu chư tăng đã khuyên can vua. Ðức
vua đã dâng những vật thí đến chư tăng trị giá sáu trăm ngàn, còn những
vật thí đến chúng Tỳ kheo ni thì trị giá một trăm ngàn đồng, và để
bố thí đến các ngài, do có trí tuệ hiểu biết về luật, vua đã bỏ tiền
ra để chuộc lại bản thân mình, và dùng số tiền đó mua tứ sự cúng dường
đến chư tăng. Tại Kaakaayanaka.n.nika, chúa của quả đất cho dựng lên tịnh
xá Ma.ninaagapabbata và tịnh xá Kalanda, và lại còn sai dựng lên tịnh xá
Samudda-vihaara ở trên bờ sông Kubukanda và tịnh xá mang tên Cuulanaagapabbata
ở Huvaacaka.n.nika. Khi đức vua đứng ra xây dựng tịnh xá Paasaa.nadiipaka, một
vị sadi đã giúp đỡ vua kéo nước, và hoan hỉ với việc làm ấy của vị
sa-di, đức vua bèn ban cho tịnh ấy một dãi đất rộng nửa do tuần để
chúng tăng tùy nghi xử dụng.
Và cũng hoan hỉ với việc làm của vị
sa-di ở tịnh xá Ma.n.davaapi-vihaara, đức vua đã cho đất để chư tăng xử
dụng đối với tịnh xá này.
Như vậy những người thiện kiến,
đã chinh phục ngã mạn và biếng nhác, đã tự mình thoát ra khỏi luyến
ái, khi họ đã đạt được năng lực lớn, không làm hại mọi người,
vui thích trong những việc phước, hoan hỉ với chánh pháp, họ luôn luôn
gieo tạo các thiện nghiệp.
Ở đây chấm dứt chương thứ ba
mươi bốn, được gọi là "mười một vị vua", trong bộ
Mahaava.msa, được biên soạn vì niềm tín lạc và xúc động của những
thiện nhân.
-ooOoo-