- ÐẠI VƯƠNG THỐNG SỬ
- MAHÀVAMSA
[2]
CHƯƠNG V
CUỘC KIẾT TẬP
LẦN THỨ BA
Cuộc kiết tập chánh pháp này, được
sắp đặt vào lúc ban đầu do trưởng lão Mahaakassapa và những vị trưởng
lão khác được gọi là cuộc kiết tập của những vị trưởng lão. Trường
phái của những vị trưởng lão trong một trăm năm đầu là nhất thống.
Nhưng về sau có sanh lên những trường phái Phật giáo khác. Những vị Tỳ
khưu tà kiến, bị đánh bại bởi những vị trưởng lão đứng ra đã tổ
chức cuộc kiết tập lần thứ hai, tất cả họ có mười ngàn, đã thành
lập trường phái riêng mang tên là Mahaasa.mghika (Ðại chúng bộ).
Từ đây có sanh lên hai trường phái
là Gokulika và Ekavyohaarika. (Kê dẫn toàn bộ và Nhứt thiết bộ). Từ
Gokulika phát sanh lên hai phái nữa là Pa.nnatti và Bahulikaa, rồi phái Cetiya
phát sanh lên từ hai phái này. Như vậy có sáu bộ phái gồm có
Mahaasa.mghika, lại có thêm hai nhóm nữa tách rời khỏi những vị theo phái
thượng tọa bộ; là nhóm Tỳ khưu Mahimsaasakaa và Vajjiputta. Và cũng có
tách rời khỏi họ là nhóm Tỳ khưu Dhammuttariyaa và bhadrayaanikaa, nhóm Tỳ
khưu Chandaagaarika, Sammitii và Vaajjiputtiya. Từ nhóm Tỳ khưu Mahimsaasaka có
hai nhóm tách rời là những vị Tỳ khưu chấp theo thuyết Sabbattha và những
vị Tỳ khưu thuộc phái Dhammagu.ttika, từ nhóm Sabbattha phát sanh lên nhóm
kassapiyaa, từ nhóm những vị Tỳ khưu này phát sanh lên nhóm gồm những vị
Tỳ khưu Sa.mkantiya, từ nhóm Tỳ khưu này có sanh lên nhóm Sutta. Ðây là mười
hai bộ phái cùng với một phái thượng tọa bộ, thêm vào đó có sáu bộ
phái được đặt tên và cùng với những bộ phái này có mười tám bộ
phái.
Như vậy trong thế kỷ thứ hai có
sanh lên mười bảy bộ phái, và những bộ phái khác sanh lên về sau. Phái
Hemavataa và Raajagiriyaa cũng như Siddhatthakaa, nhóm Tỳ khưu Seliya thứ nhất,
và nhóm Seliyaa khác, và nhóm Vaajiriyaa; sáu nhóm này tách rời khỏi những
nhóm trước tại jampudiipa, hai nhóm dhammarucì và Saagaliyaa tách rời nhóm
còn lại tại đảo Tích Lan.
Ở ÐÂY CHẤM DỨT CÂU CHUYỆN VỀ NHỮNG
BỘ PHÁI AACARIYA
-ooOoo-
Những người con trai của Kaalaasoka gồm
có mười anh em. Họ trị vì được hai mươi năm. Về sau, chín vị Manda
là những vị vua kế tiếp; họ cũng trị vì hai mươi hai năm.
Sau đó Bà-la-môn Caa.nakka tôn phong cho
chàng thanh niên cao quí, tên là Candagutta, lên làm vua khắp xứ jampudiipa,người
này sanh ra từ một dòng tộc quí phái là những người Moriya. Khi nổi cơn
phẫn nộ, vị ấy đã giết vị Nanda thứ chín là Dhanananda.
Vị vua này trị vì hai mươi bốn
năm, và đứa con trai của vị ấy tên là Bindusaara trị vì hai mươi tám năm.
Bindusaara có một trăm lẻ một người con trai; Asoka trội hơn tất cả họ
về sự dũng cảm, oai lực, sức mạnh, và những năng lực kỳ diệu. Khi
đã giết chết chín mươi chín người anh em sanh ra khác mẹ với mình, vị
ấy lên nắm quyền thống trị không bị chia chẻ trên toàn thể xứ
jampudiipa, hãy biết rằng thời gian trải qua từ lúc bậc đạo sư nhập Niết
bàn đến lúc lên ngôi vua của Asoka là hai trăm mười tám năm.
Bốn năm sau khi vị Asoka nổi tiếng dành
lại cho mình quyền thống trị không bị chia chẻ, vị ấy tự tôn phong
mình là vua ở thành phố Paataliputta ngay sau lễ tôn phong, mệnh lệnh của
Asoka ảnh hưởng xa một do tuần về phía bên trên không trung và phía dưới
sâu xuống lòng đất.
Ngày này qua ngày khác những vị chư
thiên đem đến nước từ hồ Anotatta, số lượng bằng tám người mang;
Vua phân phối số lượng nước ấy cho dân chúng. Từ Himalaya, vị chư thiên
đem đến những nhánh non của cây leo Naagà để chùi răng, dùng đủ cho
nhiều ngàn người, những loại trái cây bổ khỏe, trái Myrobalan và những
loại trái xoài cũng từ chỗ ấy, toàn hảo về màu sắc, mùi và vị. Những
vị chư thiên trong không trung đem đến những y phục có năm màu, và vải
len vàng để làm khăn ăn, và thức uống từ hồ Chaddanta nữa. Từ cõi rồng
các vị rồng đem đến vải len, có màu sắc giống như hoa lài và không
có những đường may nối, và những hoa sen của chư thiên và hắc nhãn thủy
và những loại dầu xức; những con chim két hằng ngày đem đến từ hồ
Chaddanta chín chục ngàn cổ xe lúa, những con chuột bóc vỏ số lúa này
thành gạo và được dùng làm vật thực cung cấp cho những người trong hoàng
cung. Những con ong hút mật không ngừng để làm mật cho vua, và ở trong những
lò rèn những con gấu đưa lên giáng xuống những cái búa. Những con chim
Karaviika (Ca-lăng-tần-già), có giọng hót du dương và lảnh lót, bay đến và
trổi nhạc cho đức vua nghe. Là một vị vua đã được tôn phong, Asoka
phong cho người em trai út của vị ấy là Tissa, lên làm phó vương.
Ở ÐÂY CHẤM DỨT SỰ PHONG VƯƠNG CỦA
VỊ VUA MỘ ÐẠO ASOKA
-ooOoo-
Cha của Asoka đã ân cần tiếp đãi
sáu chục ngàn vị Bà-la-môn, rành mạch về giáo lý của phạm thiên, và dường
thế ấy chính Asoka cũng nuôi dưỡng chu cấp cho họ trong ba năm. Nhưng khi
thấy rằng họ thiếu tự chế trong lúc phân phối vật thực: "từ nay
về sau trẫm sẽ bố thí theo sự lựa chọn của trẫm." Vị vua khôn
ngoan bảo họ đem những người thuộc các trường phái khác nhau đến trước
mặt vị ấy, thử thách họ giữa một hội chúng, cho họ ăn và cho họ
đi ra khỏi đó sau khi vị ấy đã tiếp đãi họ.
Có một lần nọ, khi vị ấy đang đứng
ở cửa sổ, trông thấy một vị Sa-môn thanh tịnh, đó là vị Sa-di
Nigrodha, đang đi qua con đường, vua đem lòng cảm mến vị Sa-di. Chàng trai
kia là con trai của hoàng tử Sumana, là người con trai đầu trong tất cả
những người con trai của Bindusaara.
Khi Bindusaara ngã bệnh, Asoka bỏ lại
sự cai trị xứ Ujjenii do người cha ban cho vị ấy, và đi đến Pupphapura,
và khi vị ấy đã tự mình lên làm chủ của thành phố sau cái chết của
vua cha, Asoka sai người giết chết người anh cả và tự mình nắm quyền
thống trị trong thành phố hoa lệ.
Bà vợ chánh của hoàng tử Sumana cũng
có tên là Sumanaa, đã có thai, liền bỏ chạy bằng cổng thành phía đông
và đi đến ngôi làng Ca.n.daala, và ở đó vị chư thiên bảo hộ cây
Nigrodha gọi tên của bà, dựng lên một cái chòi và cho nó đến bà. Và
khi, chính ngày hôm ấy bà sinh ra một bé trai khôi ngô tuấn tú, bà đặt tên
cho con trai của bà là Nigrodha, hưởng được sự bảo vệ của vị hộ thần.
Khi người trưởng của nhóm người Ca.n.ddaala trông thấy người mẹ, ông
ta xem bà như chính vợ của mình và tôn kính bảo vệ bà trong bảy năm. Rồi,
khi trưởng lão Mahaavaruịa thấy rằng cậu bé có căn cơ, vị A-la-hán này
bèn xin phép mẹ của cậu bé và truyền phép xuất gia cho cậu ta, và ngay
trong phòng nơi mà người ta cạo tóc cho cậu, cậu ta chứng đắc đaọ quả
A-la-hán. Khi đi từ đó để thăm mẹ của mình, vị ấy đi vào thành phố
rực rỡ qua cổng phía nam, rồi đi theo con đường dẫn đến chỗ ấy và
đi qua sân triều của đức vua. Ðức vua rất hoan hỷ với diện mạo trang
nghiêm của vị ấy, tình thương mến cũng sanh lên trong đức vua vì trong
kiếp quá khứ họ đã sống chung với nhau.
Trong một kiếp quá khứ nọ có anh
em, là những người buôn mật ong; Một người đi bán mật ong, hai người
kia lấy mật ong. Một vị Phật độc giác nọ bị bịnh lở loét, và một
vị Phật độc khác, đi kiếm mật ong cho vị kia, ngay khi ấy đi đến thành
phố trên con đường đi khất thực thường ngày của ngài. Một thiếu nữ
đang đi đến bờ sông để lấy nước, trông thấy ngài, sau khi hỏi ngài,
biết rằng ngài kiếm mật ong, nàng dùng bàn tay duỗi ra để chỉ đường
và nói rằng: "Bạch ngài, ở đằng kia là tiệm bán mật ong, hãy đi
đến đó".
Vị thương nhân, với tâm tịnh tín,
đã cho Ðức Phật độc giác một tô mật ong, để nó chảy tràn cả miệng
bát. Khi vị thương nhân trông thấy mật ong đầy cả bát và đang chảy tràn
miệng bát và đang chảy xuống đất, đầy lòng tịnh tín, vị ấy nguyện
rằng: "bằng sự bố thí này, xin cho con có được quyền thống trị
không bị chia phân trên toàn cõi jampudiipa, và xin cho mệnh lệnh của con
đi xa một do tuần lên đến hư không và xuống sâu dưới đất. Về phần
hai người anh em kia, khi họ đi đến, vị ấy cũng nói rằng, "mật ong
mà tôi đã cúng dường đến bậc như vậy, xin hãy hoan hỉ với phước thí
ấy, bởi vì mật ong cũng là của các anh." Người anh đầu hằn học
nói rằng: "chắc đó là một người Chiên-đà-la. Bởi vì những người
Chiên-đà-la thường mặc chiếc áo màu vàng". Người thứ hai nói rằng:
"quăng vị độc giác của mày xuống biển đi!" Nhưng khi họ nghe lời
hứa của người kia là cho họ hưởng chung phước thì họ tùy hỷ. Rồi
người thiếu nữ đã chỉ tay đến cửa tiệm nguyện rằng xin cho nàng trở
thành đệ nhất chánh hậu của vua, và muốn có một thân hình kiều diễm
với những nét tuyệt mỹ trên thân.
Asoka là người đã cho mật ong, hoàng
hậu Asa.mdhimittaa là người thiếu nữ, Nigrodha là người đã thốt ra lời
"Chiên-đà-la", tissa là người muốn quăng vị ấy qua bên kia bờ
biển. Người đã thốt ra lời nói "Chiên-đà la", để trả quả của
lời nói ấy, đã phải sống trong một ngôi làng Chiên-đà-la, nhưng vì vị
ấy muốn pháp giải thoát, nên ngay vào năm thứ bảy, vị ấy cũng chứng
đắc pháp giải thoát.
Ðức vua, đã có tình thương mến đối
với vị Sa-di Nigrodha, bèn vội vã gọi vị ấy đến trước mặt của mình.
Nhưng vị Sa-di đi đến đó một cách điềm đạm và lặng lẽ. Và đức
vua nói với vị Sa-di rằng: "này cưng, hãy ngồi vào một chỗ ngồi
thích hợp". Vì không thấy có vị Tỳ khưu nào ở đó cả nên vị ấy
đi đến chiếc ngai vàng, rồi khi vị ấy bước tới chiếc ngai vàng, đức
vua, suy nghĩ rằng: "ngày hôm nay vị Sa-di này sẽ là người chủ trong
nhà của ta!" Khi tựa vào cánh tay của đức vua vị Sa-môn bước lên
chiếc ngai vàng và ngồi trên chiếc ngai vàng dưới cái lọng trắng. Khi
trông thấy vị Sa-di ngồi ở đó, vua Asoka vô cùng vui sướng rằng mình đã
tôn trọng vị ấy theo đúng với địa vị Sa môn kia. Khi đức vua đã làm
thỏa mãn vị Sa-di bằng những loại vật thực gồm cả loại cứng và loại
mềm, được sửa sang dành cho vua, Ðức vua hỏi vị Sa-di liên quan đến giáo
pháp được giảng dạy bởi đức Chánh biến tri. Rồi vị Sa-di thuyết
pháp cho vua nghe về phẩm bất phóng dật (appamaadaavagga)
Khi vị chúa của quả đất đã nghe vị
Sa-di thuyết pháp, vị ấy nắm được giáo lý của bậc Chiến thắng, và
nói với vị ấy rằng: "này cưng, ta ban cho ngươi tám loại thực vật
thường xuyên." và vị Sa-di trả lời: "Những món vật thực này
tôi sẽ dâng cho thầy của tôi." Khi được ban cho tám phần vật thực
khác vị ấy lại hứa dâng cho ông thầy A-xà-lê của mình, và khi tám phần
vật thực được hứa ban cho vị Sa-di, vị Sa-di hứa cho chúng đến chúng
Tỳ kheo. Và khi thêm tám phần vật thực nữa được ban đến, vị ấy, là
người có pháp tri túc, đã bằng lòng thọ lãnh chúng. Vào ngày hôm sau,
cùng với ba mươi hai vị Tỳ khưu, vị Sa-di tiếp tục đi đến hoàng cung,
và khi vị ấy đã được đức vua tự tay đứng ra phục vụ, đã thuyết
pháp đến người cai trị. Vị ấy đã an trú cho đức vua cùng với nhiều
tùy tùng của vua trong tam qui và ngũ giới.
Ở ÐÂY KẾT THÚC CUỘC VIẾNG THĂM CỦA
SA-DI NIGRODHA
-ooOoo-
Sau đó, đức vua với tâm tịnh tín,
ngày này qua ngày khác đã tăng gấp đôi số lượng Tỳ khưu lên đến sáu
chục ngàn người và khi loại trừ sáu chục ngàn ngoại đạo sư, vị ấy
ban tặng vật thí thường xuyên đến sáu chục ngàn vị Tỳ khưu trong nhà
của mình. Khi đã truyền lệnh nhanh chóng sửa soạn vật thực thượng vị,
loại cứng và loại mềm, để tiếp đãi sáu chục ngàn vị Tỳ khưu và
khi đã sai trang hoàng rực rỡ thành phố, vị ấy đi đến chư tăng và thỉnh
các ngài về nhà của mình, và sau khi đã thỉnh các ngài đến đó, tiếp
đãi các ngài một cách ân cần chu đáo và bố thí rộng rãi những vật dụng
của Sa-môn, vị ấy hỏi các ngài như vầy: "nội dung của dhamma được
thuyết giảng bởi bậc đạo sư nhiều chừng nào?" và trưởng lão
Moggaliputta-tissa trả lời đức vua câu hỏi này. Khi vị ấy nghe rằng:
"có tám mươi bốn ngàn pháp môn", "trẫm sẽ cúng một tịnh
xá đến mỗi pháp môn ấy. Rồi khi xuất ra chín mươi sáu ko.ti đồng tiền
vàng từ tám mươi bốn ngàn thị trấn, nhà cai trị bảo các vị vua ở khắp
quả đất bắt đầu xây dựng những tịnh xá và chính vị ấy bắt đầu
xây dựng tịnh xá Asokaaraama.
Bằng sự cúng dường đến tam bảo,
đến Nigrodha và đến những người bịnh, để ủng hộ đức tin cho mỗi
vị trong các ngài, vị ấy đã chi ra một trăm ngàn đồng mỗi ngày. Bằng
của cải được dùng xài cho Ðức Phật, các vị Tỳ khưu đã tổ chức
cúng dường bảo tháp bằng nhiều loại lễ vật liên tục trong nhiều tịnh
xá. Với của cải được dùng xài cho dhamma dân chúng liên tục sửa soạn
bốn món vật dụng cần thiết để cúng dường các vị Tỳ khưu rành mạch
về giáo pháp. Trong những cỗ xe nước được lấy từ hồ Anotatta, vị
ấy cúng dường bốn cỗ xe đến chúng tăng, mỗi ngày cúng dường một xe
đến sáu chục vị trưởng lão rành mạch về Tam-tạng (.Tipi.taka) Nhưng vị
ấy đã truyền lịnh cho một xe đến hoàng hậu Asa.mdhimittaa, trong khi đó
đức vua chỉ để lại hai cỗ xe để dùng riêng cho mình. Hằng ngày vua
cho những cái tăm chà răng gọi là naagalataa đến sáu chục ngàn vị Tỳ
khưu và đến sáu chục ngàn nữ nhân.
Vào một hôm nọ, khi vị hoàng đế
nghe nói về vị long vương Mahaakaala, có oai lực phi thường, đã trông thấy
bốn vị Phật tổ, đã sống suốt một đại kiếp, vua đem vị long vương
ấy đến trước mặt mình được buộc bằng sợi xích bằng vàng, và khi
vị ấy đã đem vị long vương đến và để vị long vương ngồi trên chiếc
ngai vàng dưới cái lọng trắng, khi đức vua đã cúng dường vị long
vương bằng những lễ vật gồm hoa đủ loại, và bảo mười sáu ngàn thiếu
nữ hầu hạ quanh vị ấy, đức vua bèn nói như vầy: "hãy cho chúng
tôi xem hình tướng của vị Ðại Sa-môn chánh đẳng cháng giác, của bậc
có trí tuệ vô biên đã, lăn bánh xe diệu pháp". Vị long vương tạo
ra hình tướng xinh đẹp của đức Phật, có ba mươi hai hảo tướng và
tám mươi tướng phụ của đức Phật, được bao quanh bởi một vầng hào
quang dài một hắc tay và được trang điểm bởi cái vương miệng bằng những
ngọn lửa (nhục kế).
Khi thấy hình ảnh ấy, đức vua đầy
hoan hỉ và sửng sốt và nghĩ rằng: "hình tướng được tạo ra bởi
vị Mahaakaalaa mà còn như thế, huống hồ hình tướng thật của đức
tahaagata còn hơn thế nào nữa!" và vị ấy càng ngày càng được tăng
thêm hoan hỉ, và trong bảy ngày không ngừng, vị đại vương có năng lực
phi thường đã tổ chức cuộc cúng dường vĩ đại, được gọi là
"akkhipuujaa".
Ở ÐÂY CHẤM DỨT SỰ ÐI VÀO GIÁO
PHÁP CỦA ASOKA
-ooOoo-
Bấy giờ vị vua hùng mạnh và ngoan
đạo và trưởng lão Moggaliputta trong những kiếp quá khứ đã được trông
thấy bởi những bậc phạm hạnh.
Trong thời gian của cuộc kiết tập lần
thứ hai, những vị trưởng lão, khi nhìn về tương lai, trông thấy sự suy
sụp về đức tin trong thời kỳ của vị vua ấy - Khi nhìn quanh khắp toàn
cõi thế gian để tìm một người có khả năng ngăn chặn sự suy sụp ấy,
họ trông thấy brahmà tissa là vị chư thiên không còn sống lâu trong cõi
phạm thiên nữa. Họ đi đến vị ấy và thỉnh cầu vị ấy, là bậc có
trí tuệ vĩ đại, xin vị ấy ra tay làm tiêu tan sự suy sụp này bằng
cách tái sanh vào nhân loại. Và vị ấy chấp thuận lời thỉnh cầu của
các ngài khi mong muốn cho giáo pháp chiếu sáng rực rỡ. Nhưng đối với
Siggava và Ca.n.davajji, là những vị còn trẻ, các vị trưởng lão nói với
hai vị này như vầy: "khi một trăm mười tám năm đã trôi qua thì sự
suy sụp của giáo pháp sẽ bắt đầu. Chúng ta sẽ không sống để trông
thấy thời kỳ ấy. Các vị đã không dự phần trong tránh-sự này (ima.m
adhikara.na.m nghĩa trong công việc của cuộc kiết tập lần thứ hai), do đó
các vị đang bị hành phạt và sự hành phạt của các vị sẽ như thế này:
để giáo pháp có thể chiếu sáng rực rỡ, Phạm thiên Tissa, bậc có trí
tuệ vĩ đại, sẽ tái sanh vào trong nhà của bà-la-môn Moggali. Khi thời
gian trôi qua, một trong hai người sẽ thâu nhận cậu bé vào tăng chúng, người
kia phải cẩn thận chỉ dạy cho vị ấy về lời dạy của Ðức Chánh Biến
Tri.
Có một trưởng lão tên Daasaka, là đệ
tử của trưởng lão Upaali. So.naka là đệ tử của Daasaka, và hai vị trưởng
lão kia là những đệ tử của trưởng lão So.naka.
Trong thời quá khứ tại Vesaali có một
vị bà-la-môn uyên bác tên là Daasaka, là huynh trưởng của ba trăm môn đệ,
vị ấy sống với ông thầy của mình và vào lúc cuối của hai mươi hai
năm sau khi đã kết thúc việc học Vedas, vị ấy, khi đi quanh với những
người đệ tử khác, đã gặp trưởng lão Upaali đang sống ở tịnh xá
Vaalika, sau khi vị ấy đã thành lập dhamma trong cuộc kiết tập và khi
đang ngồi gần trưởng lão, vị ấy hỏi trưởng lão về những đoạn khó
trong bộ Veda và trưởng lão giải thích những đoạn kia cho vị ấy. Này
bà-la-môn, một giáo lý đến "Sau tất cả những giáo lý, thế mà tất
cả những giáo lý đều kết thúc trong một giáo lý, giáo lý ấy là giáo
lý nào?"
Như vậy trưởng lão đã nói về tên
của chánh pháp, nhưng chàng trai bà-la-môn không biết về giáo lý ấy. Cậu
ta hỏi rằng: "Ðây là loại Manta gì thế?" và khi nghe câu trả lời
rằng: "Manta của đức Phật", chàng trai nói rằng, "hãy truyền
Manta ấy cho con" và trưởng lão trả lời rằng: "chúng ta chỉ truyền
Manta ấy đến người nào mặc y của chúng ta mà thôi."
Và Daasaka xin phép ông thầy của mình
và cha mẹ để học Manta ấy. Khi vị ấy với ba trăm chàng trai bà-la-môn
này đã thọ phép xuất gia từ trưởng lão, đúng lúc vị Bà-la-môn kia thọ
cụ túc giới rồi sau đó trưởng lão Upaali thuyết giảng toàn thể Tam-tạng
(.Tipi.taka) đến một ngàn đệ tử đã đoạn trừ các lậu hoặc, trong số
đó có trưởng lão Daasaka. Số lượng của vị thánh tăng khác không đếm
xuể, và trong số những người vẫn còn đứng ngoài giáo pháp họ cũng học
được Tam Tạng từ trưởng lão.
Trên dãy đất của xứ kaasi có một
người con trai cả vị trưởng đoàn thương buôn, tên là So.naka. Vị ấy
đi buôn với cha mẹ đến xứ giribbaja, (kinh đô xưa của nước Magadha). Dầu
còn trẻ, chỉ mới mười lăm tuổi, vị ấy đã đi vào tịnh xá Trúc Lâm
(Ve.luvana). Năm mươi lăm chàng trai bà la môn là những người bạn đồng hành
với vị ấy, cũng đi đến trưởng lão Daasaka.
Khi trông thấy trưởng lão Daasaka với
những đệ tử ở quanh ngài, đức tin đến với cậu ta và cậu xin trưởng
lão truyền phép xuất gia cho mình. Trưởng lão nói hãy xin thầy của con
đi. Về sau, chàng thanh niên so.naka. Sau khi đã nhịn đói ba bữa ăn và đã
được cha mẹ cho phép gia nhập vào tăng chúng, đã đến trở lại, rồi
khi cậu ta đã thọ phép xuất gia từ trưởng lão Daasaka và sau đó thọ cụ
túc giới, cùng với những chàng trai kia vị ấy thông thuộc Tam-tạng. Giữa
hội chúng gồm một ngàn đệ tử của trưởng lão đã đoạn trừ các lậu
hoặc và thông suốt tam-tạng, vị Sa-môn So.naka là tối thắng. Trong thành
phố mang tên của loài hoa paatali (tức là Paa.taliputta) có bậc trí tuệ
siggava, là con trai của một vị quan. Khi đến tuổi mười tám và đang sống
trong ba cung điện thích hợp với ba mùa của năm, cậu ta đi chung với một
người bạn tên là Ca.n.davajji, là con trai của một vị quan, và được
theo hầu bởi năm trăm vị tùy tùng, đi đến tịnh xá Kukku.taaraama (ở
trong thành Paa.taliputta) và viếng thăm trưởng lão Sa.naka.
Và khi cậu ta biết rằng trưởng lão
đã ngồi nhập định với các căn được thâu nhiếp và không đáp lời
chào hỏi của cậu ta, cậu ta bèn hỏi chư tăng về vấn đề này. Các
ngài đáp lại rằng: "những người mà đã ở sâu trong tầng thiền
thì không trả lời". Bởi vậy cậu ta hỏi rằng "họ xuất khỏi
tầng thiền như thế nào?" và các vị Tỳ khưu nói rằng: "khi có
lời kêu gọi của bậc đạo sư, hay lời kêu gọi từ tăng chúng, hay khi
thời gian đã định chấm dứt, hay khi tử thần đi đến, các ngài mới xuất
khỏi tầng thiền.
Khi các ngài đã nói như vậy, họ thấy
rằng những chàng trai này có duyên lành để tỏ ngộ chánh pháp, họ bèn
cho công bố lời kêu gọi của chư tăng và trưởng lão xuất hỏi tầng
thiền và đi đến họ. Chàng trai hỏi rằng: "kính bạch đại đức, lúc
nãy, tại sao đại đức không nói chuyện với con. Trưởng lão nói rằng:
"chúng ta đang thọ hưởng pháp dành cho chúng ta". Chàng trai bèn
nói rằng: "hãy cho chúng con thọ hưởng pháp này với." Trưởng lão
trả lời rằng: "chỉ ai giống như chúng ta, thời chúng ta mới có thể
khiến cho họ hưởng được pháp ấy.
Sau đó, được phép của cha mẹ họ,
chàng trai Siggava và Ca.n.davajji và năm trăm tùy tùng của họ đều thực hiện
phép xuất gia và về sau thọ cụ túc giới từ trưởng lão So.naka. Với trưởng
lão là thầy của họ, hai người kia đã siêng năng học hỏi tam tạng
(Pi.taka) và đã chứng đắc sáu thắng trí (lục thông).
Về sau khi siggava biết rằng tissa đã
tái sanh vào thế gian này, từ dạo đó trưởng lão thường hay đến nhà của
vị ấy trong bảy năm. Và chẳng phải trong bảy năm để vị ấy nghe những
lời "hãy đi tiếp" (được nói với vị ấy). Nhưng trong năm thứ
tám vị mới nghe những lời nói ấy "hãy đi tiếp qua bên kia", ở
trong ngôi nhà ấy. Khi điều ấy xảy ra thì Bà-la-môn Moggali, ngay khi ấy
đang đi vào, trông thấy trưởng lão và hỏi rằng: "ông đã nhận được
gì trông nhà của chúng tôi chưa?" và trưởng lão trả lời:
"có". Khi ông Moggali nghe chuyện đã xảy ra và khi trưởng lão đi
đến nhà trở lại vào ngày thứ hai sau đó, ông ta lăng mạ ngài là đã
nói dối. Và khi ông ta nghe qua những lời của trưởng lão thì vị
Bà-la-môn, đầy tịnh tín, bèn cúng dường trưởng lão vật thực thường
xuyên và dần dần người trong nhà của ông ta cũng trở thành những tín
đồ và vị Bà-la-môn ân cần tiếp đãi trưởng lão một cách liên tục,
mời ngài ngồi trong nhà của ông ta.
Bởi vậy, khi thời gian trôi đi, chàng
thiếu niên Tissa đến tuổi mười sáu và đạt đến bờ bên kia của đại
dương kiến thức Tam phệ đà thì trưởng lão, khi nghĩ rằng vị ấy có
thể nói chuyện với chàng trai theo cách này, bèn khiến cho tất cả ghế
ngồi trong nhà của cậu ta biến mất, chỉ chừa lại ghế ngồi của
chàng trai Bà-la-môn. Vì từ cõi phạm thiên chàng trai này thích sự sạch sẽ
nên người ta thường treo cái ghế của cậu ta lên cao để giữ gìn nó
cho sạch sẽ gọn gàng.
Rồi những người ở trong nhà vì
không thấy có cái ghế nào khác, nên lấy làm bối rối, bởi vì trưởng
lão đã phải đứng; họ bèn bày ra cái ghế của chàng trai Tissa cho ngài.
Khi chàng trai Bà-la-môn trở về từ nhà ông thầy của mình và thấy trưởng
lão đang ngồi ở đó, cậu ta nổi giận và nói với ngài một cách không
thân thiện Trưởng lão nói với cậu ta rằng: "này cậu, cậu có biết
Manta không?" và chàng trai Bà-la-môn để trả lời câu hỏi đã hỏi lại
trưởng lão cùng câu hỏi như thế. Bởi vì trưởng lão đáp lại rằng:
"ta biết nó," nên cậu ta hỏi ngài về những đoạn khó trong Tam
phệ đà. Trưởng lão giải thích chúng đến cậu ta, vì khi còn sống cuộc
đời tại gia, ngài đã học hết Tam phệ đà rồi. Lại nữa, ngài đã nắm
vững tứ-tuệ-phân-tích, thì làm sá gì Tam-phệ-đà ngài không thể giải
thích được?
"Ðối với người có tâm sanh và
không diệt, thời tâm sẽ diệt và không sanh trở lại, nhưng đối với
người có tâm diệt và không sanh, thời tâm sẽ sanh trở lại và không diệt."
(nghĩa là: bất cứ ai thấu rõ chân lý, thời trí tuệ của người ấy sẽ
thấu rõ Niết bàn không bao giờ trở lại nhưng ngược lại, người nào
không suy nghĩ chơn chánh và không thực hành theo giáo pháp, sẽ phải đi vào
kiếp sống mới và không đạt đến giải thoát).
Vị trưởng lão trí tuệ đã hỏi
câu hỏi này từ phẩm tâm song-luận trong Tạng Abhidhamma (Cittiayamaka) và tựa
như bóng tối của đêm đen đến với chàng trai Bà-la-môn, và cậu ta nói
với trưởng lão rằng: "đó là loại Manta gì thế, hởi ông Tỳ khưu",
Manta của đức Phật trưởng lão đáp lại; và khi Tissa nói rằng:
"hãy truyền nó cho con, trưởng lão bèn nói rằng:"ta chỉ truyền
nó cho những người nào mặc y của chúng ta mà thôi!"
Bởi vậy được sự cho phép của cha
mẹ chàng trai thọ xuất gia, để học Manta ấy, và trưởng lão, khi đã
cho cậu ta xuất gia rồi bèn chỉ dạy cho cậu ta pháp môn Ramama.t.thaana
(quán pháp). Do sự thiền quán con người tài cao này đã sớm chứng đắc
quả thánh tu-đà-hườn, và khi biết rõ trạng thái này trưởng lão siggava
bèn sai vị đệ tử đi đến trưởng lão Ca.n.davajji để vị ấy có thể
học tạng-kinh (Suttapi.taka) và tạng A-tỳ-đàm (Abhidhammapi.taka) nơi vị
trưởng lão này và vị ấy đã học những tạng này từ trưởng lão
Ca.n.davajji.
Và về sau vị Sa-môn siggava, sau khi đã
truyền pháp Cụ-túc-giới cho Tissa, đã dạy cho vị ấy tạng luật
(Vinayapi.taka) và còn chỉ dạy cho vị ấy hai tạng kia nữa, về sau khi
chàng trai Tissa đã đạt được chánh quán (Vipassanaa), đúng lúc vị ấy chứng
đắc sáu thắng trí và đạt đến địa vị của một vị trưởng lão.
Danh tiếng của vị ấy tỏa rộng như mặt trời và mặt trăng. Thế gian tín
thọ lời dạy của vị trưởng lão này như tín thọ lời dạy của đức
Chánh biến tri.
Ở ÐÂY DỨT CÂU CHUYỆN VỀ TRƯỞNG
LÃO TISSA, CON TRAI CỦA KOGGALI
-ooOoo-
Một hôm nọ vị phó vương Tissa khi
đang đi săn trông thấy những con linh dương đang nô đùa trong rừng hoang.
Trước cảnh này vị ấy suy nghĩ rằng: "ngay cả những con linh dương
chỉ ăn cỏ trong rừng mà vẫn vui đùa vui chơi như vậy. Tại sao những vị
Tỳ khưu có vật thực và chỗ ngụ tiện nghi mà lại không vui sướng thỏa
mái?"
Khi trở về nhà vị ấy kể lại với
đức vua về ý nghĩ của mình. Ðể dạy cho vị ấy, đức vua bèn cho vị
phó vương quyền thống trị vương quốc trong bảy ngày, khi nói rằng
"này hoàng tử, hãy thọ hưởng vương quyền của ta trong một tuần; rồi
sau đó ta sẽ giết chết ngươi." nhà cai trị đã nói như vậy.
Và khi một tuần đã trôi qua, đức
vua hỏi rằng: "tại sao người lại ủ rủ tiều tụy như thế?" và
khi Tissa trả lời rằng: "vì sợ chết", đức vua đã nói với vị
ấy như vầy: vì nghĩ rằng ngươi sẽ chết sau một tuần trôi qua ngươi
không còn vui sướng và hớn hở. Như vậy, này hoàng đệ, làm sao các vị
Sa-môn vui tươi hớn hở, khi hằng suy nghĩ về sự chết."
Và khi anh của mình đã nói như vậy,
Tissa khởi tâm tin tưởng trong giáo pháp của đức Phật. Và về sau, vào một
dịp nọ, khi vị ấy vì lên đường săn bắn, vị ấy trông thấy trưởng
lão Mahaadhammarakkhita, bậc có tự chế, đang ngồi dưới một cội cây, và
được một con rắn hổ đang quấn vào một nhánh cây Sa-la quạt cho ngài.
Và vị hoàng tử có trí tuệ suy nghĩ rằng: "biết khi nào ta mới xuất
gia trong giáo pháp của bậc chiến thắng giống như vị trưởng lão này
và được sống trong khu rừng mênh mông?"
Khi trưởng lão đã đi đến đó bằng
cách bay xuyên qua hư không, để tiếp độ vị ấy, và đứng trên mặt hồ
Asokaaraama, vị ấy khi bỏ lại y phục tốt trong không trung, bèn lặn vào
trong nước và tắm rửa tay chân của mình. Và khi hoàng tử trông thấy
phép lạ này, đầy lòng tịnh tín, con người trí tuệ đã phát nguyện có
trí tuệ rằng: "chính ngày hôm nay ta sẽ thọ phép xuất gia." Vị
ấy đi đến đức vua và xin đức vua cho phép mình được xuất gia. Vì đức
vua không thể lay chuyển nguyện vọng của vị phó vương nên đành dẫn vị
ấy theo mình cùng với một đám đông tùy tùng, đi đến tịnh xá, ở đó
hoàng tử được thọ phép xuất gia từ trưởng lão Mahaadhammarkkhita và bốn
trăm ngàn người cũng xuất gia chung với vị ấy, nhưng số lượng người
xuất gia về sau thì không biết được. Một người cháu trai của vị
hoàng đế được biết qua cái tên là Aggibrahmà là chồng của đứa con gái
Sa.nghamittaa của đức vua và đứa con trai của hai người này tên là
sumana. Vị ấy (tức là Aggibrahmaa) cũng xin phép đức vua và được xuất
gia chung với vị hoàng tử kia.
Sự xuất gia của vị hoàng tử, từ
đó đem lại hạnh phúc cho nhiều người, xảy ra vào năm thứ tư của triều
đại vua Asoka. Trong cùng năm đó vị ấy thọ cụ túc giới, và vì vị ấy
có duyên lành để hành đạt đạo quả nên vị hoàng từ, do nỗ lực tinh
tấn, đã chứng đắc đạo quả-la-hán cùng với sáu thắng trí.
Tất cả những tịnh xá được khởi
công thời bấy giờ người ta đã làm xong đúng mức trong tất cả những
thành phố trong vòng ba năm. Nhưng bằng năng lực thần thông của trưởng
lão Indagu.tta, là người trông coi công việc, ngôi chùa mang tên Asoka cũng
được hoàn thành một cách nhanh chóng. Tại những chỗ mà chính bậc chiến
thắng đã viếng thăm vị hoàng đế đã tiến hành xây dựng rải rác những
bảo tháp xinh đẹp. Có một ngày nọ, khắp nơi từ tám mươi bốn ngàn
thành phố, những bức thư tấp nập bay đến với tin rằng "những tịnh
xá đã được làm xong."
Khi vị đại hoàng có uy quyền lớn,
có năng lực và sự dũng cảm phi thường, đã nhận những bức thư, vị
ấy, vì muốn tổ chức đại Lễ hội trong tất cả những tịnh xá ngay tức
thì, bèn sai đánh trống công bố trong thành phố rằng "vào ngày thứ
bảy kể từ hôm nay, một lễ hội trong tất cả những ngôi chùa sẽ được
tổ chức, về mọi phương diện, ở trong tất cả các tỉnh, ở trên quả
đất, từ do tuần này đến do tuần khác, của bố thí to lớn sẽ được
ban phát; Những tịnh xá trong các ngôi làng và những con đường lớn đều
phải được trang hoàng. Ở trong tất cả những tịnh xá, những vật thí
đủ loại phải được cúng dường đến chư tăng, theo thời gian và khả
năng của người cho và những vật trang hoàng, như những dãy lòng đèn và
những tràng hoa, phải được treo lên ở khắp mọi nơi và những chỗ họp
để tổ chức lễ hội, có đủ loại nhạc và tất cả phải thọ trì
ngày bát quan trai giới và phải nghe pháp, và mọi người phải sửa soạn
nhiều loại lễ vật cúng dường trong ngày hôm ấy. Và tất cả mọi người
ở khắp mọi nơi phải tổ chức những buổi lễ thuộc về tôn giáo, phải
rực rỡ như cõi chư thiên, giống như đã được phán truyền rồi, và
làm lại nữa.
Vào ngày hôm ấy vị đại vương ăn
mặc rực rỡ, đầy những vật trang sức, và cùng với những cung thần mỹ
nữ và quan quân, đi đến khu già-lam (aaraama) của mình, tựa như đang chẻ
đất, vị ấy đứng giữa chúng tăng, cúi mình trước chúng tăng đáng
kính. Trong hội chúng có tám mươi ko.ti tỳ kheo và trong số này một trăm
ngàn vị Sa-môn đã đoạn trừ các lậu hoặc. Hơn nữa có chín lần một
trăm ngàn tỳ kheo ni, và trong số này có một ngàn vị tỳ kheo ni đã đoạn
trừ các lậu hoặc, Những vị tỳ kheo và tỳ kheo ni này sử dụng thần
thông gọi là "vén bức màn thế gian" với mục đích tiếp độ
cho vua Dhammasoka - Ca.n.daasoka (phẫn nộ A-dục) trong quá khứ vị ấy được
gọi là Asoka ác độc, vì vị ấy đã làm những việc ác; Nhưng về sau,
do làm những thiện nghiệp vị ấy được nổi danh là Dhammasokaa (chơn chánh
A-dục). Vị ấy nhìn quanh khắp cõi jammpudiipa được bao quanh bởi đại
dương và nhìn khắp tất cả những tịnh xá đầy muôn mầu muôn vẻ của
lễ hội-và với hỷ lạc vô cùng, khi nhìn vào các vị Tỳ khưu vị ấy hỏi
các ngài trong khi các ngài đang ngồi: "về tánh rộng rãi đối với giáo
pháp của đức thế tôn có ai từng vĩ đại như trẫm không, thưa chư đại
đức?"
Trưởng lão Moggaliputta trả lời câu
hỏi của đức vua: "Ngay trong thời kỳ của đức Thế tôn cũng không
có thí chủ nào rộng rãi hào phóng bằng đại vương cả."
Khi nghe qua câu trả lời này thì đức
vua càng vui sướng hơn và hỏi rằng:
"Vậy thì có người quyến thuộc
nào trong giáo pháp của đức Phật giống như trẫm không?"
Nhưng trưởng lão biết căn cơ của
đứa con trai của đức vua là hoàng tử Mahinda và đứa con gái là công
chúa Sa.mghamittaa, và thấy trước sự hưng thịnh của giáo pháp sanh lên từ
họ, và trưởng lão, là người có bổn phận gánh vác giáo pháp, trả lời
rằng: "ngay cả một người bố thí hào phóng như đại vương cũng không
phải là người quyến thuộc của giáo pháp đâu; tâu đại vương, người
ấy chỉ được gọi là người bố thí của cải mà thôi (paccayaadaayaka).
Nhưng người nào cho con trai hay con gái của mình gia nhập vào tăng chúng,
người ấy mới được gọi là quyến thuộc của giáo pháp và là những
người cho vật thí":
Bởi vì vị hoàng đế hoan hỉ muốn
trở thành người quyến thuộc của giáo pháp nên vị ấy hỏi Mahinda và
Sa.mghamittaa đang đứng gần rằng: "các con có muốn thọ pháp xuất gia
không? xuất gia được xem là việc phước lớn." Rồi, khi họ nghe những
lời của phụ thân, họ nói với vị ấy rằng: "chính ngày hôm nay
chúng con bằng lòng gia nhập vào tăng chúng, tâu phụ vương. Nếu phụ
vương muốn thế, do kết quả của sự xuất gia này của chúng con, phước
báu sẽ đến với chúng con cũng như với phụ vương nữa". Từ lúc
hoàng tử Tissa xuất gia, Mahinda cũng đã có ý nguyện gia nhập vào tăng chúng
rồi, và Sa.mghamittaa cũng vậy Aggibhnanmaa từ lúc Aggibhanmaa xuất gia, mặc
dầu vị hoàng đế muốn phong cho Mahinda làm phó vương, tuy nhiên vị ấy vẫn
đồng ý cho con trai của mình xuất gia khi nghĩ rằng: "địa vị này đây
của người xuất gia còn to lớn hơn nhiều." Bởi vậy đức vua cho phép
đứa con trai của mình, là hoàng tử Mahinda xuất sắc hơn tất cả những
người khác về trí thông minh, có sắc đẹp và sức mạnh, và cũng cho phép
đứa con gái của mình là công nương Sa.mghamittaa, được phép xuất gia với
nghi tiết trọng thể.
Lúc bấy giờ Mahinda, con trai của đức
vua được hai mươi tuổi, và đứa con gái Sa.mghamittaa của đức vua được
mười tám tuổi. Vào chính ngày hôm ấy hoàng tử thọ phép xuất gia và thọ
phép cụ túc giới luôn thể, lễ xuất gia và lễ nương nhờ cũng xảy ra
trong ngày hôm ấy.
Thầy hòa thượng của hoàng tử là
trưởng lão Moggalipputta Tissa; phép xuất gia được ban đến cho vị ấy do
bởi trưởng lão Mahaadeva, còn Majjhantika thì tụng tuyên ngôn và ngay ở chỗ
mà vị ấy thọ cụ túc giới, con người vĩ đại này đã chứng đắc đạo
quả A-la-hán cùng với những thắng trí.
Thầy hòa thượng của Sa.mghamittaa là
vị trưởng lão ni nổi tiếng Dhammapaalaa, và thầy y chỉ của nàng là
Ayupaalaa; đến đúng lúc nàng cũng đoạn tận các lậu hoặc. Hai ngọn đèn
của giáo pháp ấy là những người đem lại hạnh phúc to lớn cho đảo Tích-Lan,
đã thọ phép xuất gia vào năm thứ sáu của vua Dhammaasoka, đại Mahinda,
người tế độ cho đảo Tích-Lan, đã học tam-tạng với thầy hòa thượng
của mình trong ba năm vị Tỳ khưu Ni này cũng giống như mặt trăng mới mọc
và vị Tỳ khưu Mahinda giống như mặt trời, luôn luôn chiếu sáng bầu trời,
là giáo pháp của đức Chánh biến tri.
Một thuở nọ trong quá khứ, có một
người trú ngụ trong rừng, khi ra đi từ paataliputta đến khu rừng, đem lòng
yêu thương một nữ thần rừng tên là kuntì. Do sống chung với vị ấy,
nàng sanh được hai đứa con trai: đứa lớn tên là Tissa và đứa nhỏ tên
là Sunitta. Về sau cả hai đều xuất gia dưới chân trưởng lão Mahaavaruịa
và chứng đắc đạo quả A-la-hán cùng với những thắng trí.
Có một lần nọ vị trưởng lão anh
bị đau ở bàn chân có vết cắn do chất độc của một con côn trùng và
khi người em hỏi trưởng lão cần gì, trưởng lão bèn nói cho vị ấy biết
rằng cần có một nắm thục tô.
Nhưng trưởng lão không tự mình chỉ
cho đức vua biết những thứ cần thiết trong lúc bệnh hoạn, cũng không
đi khất thực sau bữa ăn trưa. "Nếu khi hiền đệ đi bát mà nhận
được thục tô thì hãy đem nó về cho ta", trưởng lão Tissa nói với
vị trưởng lão tối thắng Sunitta. Khi vị ấy ra đi để khất thực, vị
ấy chẳng nhận được một nắm thục tô nào, và trong lúc đó trưởng lão
lâm vào tình trạng mà ngay cả một trăm lọ thục tô cũng không chữa trị
nó được và do bởi căn bệnh ấy, trưởng lão rơi vào tình trạng hấp hối
và khi trưởng lão đã khuyên vị kia không ngừng tinh tấn, ngài quyết định
nhập Niết bàn.
Khi ngồi kiết già trong không trung và
nhập vào tầng thiền về đề mục lửa, đúng như nguyện lực của mình,
Trưởng lão bèn nhập Niết bàn. Những ngọn lửa bốc lên từ thân và
thiêu đốt nhục thân của trưởng lão, nhưng xương vẫn còn ở dưới dạng
những viên xá lợi.
Khi vị hoàng đế nghe rằng vị trưởng
lão đã viên tịch theo cách này, bèn đi đến tịnh xá của mình cùng với
một đám đông quân binh khi cỡi trên con voi đức vua lấy xuống khối xá
lợi ấy, và khi vị ấy đã làm lễ cúng dường xá lợi, đức vua bèn hỏi
chúng tăng về chứng bệnh của trưởng lão. Khi nghe qua, đức vua rất đỗi
xúc động và sai làm những cái thùng chứa các loại thuốc chữa bệnh đặt
ở các cổng thành dành cho những người bệnh và ngày này sang ngày khác vị
ấy sai cúng dường - các loại thuốc chữa bệnh đến chúng tỳ kheo khi
nghĩ rằng: mong sao các vị Tỳ khưu đừng có bao giờ gặp khó khăn trong
việc tìm kiếm thuốc chữa bịnh.
Trưởng lão Sunitta nhập Niết bàn
ngay khi ngài đang đi kinh hành, và nhờ vậy đông đảo hội chúng qui ngưỡng
theo giáo pháp của đức Phật: Cả hai vị trưởng lão này là hai người
con trai của Kintì, đã làm lợi ích lớn cho thế gian rồi, nhập Niết bàn
vào năm thứ tám của triều đại Asoka.
Từ dạo ấy trở đi, những lợi lộc
phát sanh đến chư tăng vô cùng to lớn, và vì những người được tiếp
độ sau này khiến cho lợi lộc gia tăng, nên những ngoại đạo sư vì sự
kiện này đã mất lợi lộc và danh vọng, họ cũng mặc vào chiếc y vàng
để kiếm lợi lộc, và sống chung với các vị tỳ kheo. Họ công bố những
giáo lý của chính họ là giáo pháp của đức Phật và thực hành những
pháp của họ tự do theo ý mình.
Và khi trưởng lão Moggaliputta Tissa,
có tâm kiên cố vĩ đại, trông thấy cái mụt nhọt truyền nhiễm vô cùng
tệ hại trong giáo pháp, ngài, bậc nhìn xa thấy rộng, đã bàn bạc kỹ lưỡng
thời gian thích hợp để diệt trừ nó. Và khi đã giao chúng tỳ kheo cho trưởng
lão Mahinda trông coi, ngài đi vào ẩn cư kiết hạ, hoàn toàn một mình ở
xa tít trên thượng nguồn sông hằng, tại ngọn núi Ahoga.nga và trong bảy
năm, ngài miệt mài trong đời sống ẩn dật.
Do số lượng của ngoại đạo sư đông
đảo và tánh buông lung của chúng nên các vị Tỳ khưu không thể sống
trong giới luật được, và do đó các vị Tỳ khưu suốt bảy năm trời không
làm lễ phát lồ cũng không làm lễ tự tứ trong tất cả những tịnh xá.
Khi vị hoàng đế Dhammaasoka nổi tiếng
biết rõ điều này, vị ấy bèn sai một vị quan đi đến tịnh xá rực rỡ
Aasokaaraama, truyền lịnh cho vị kia rằng: "hãy đi giàn xếp vấn đề
này và bảo các vị Tỳ khưu trong tịnh xá của trẫm tổ chức lại lễ
phát lồ." Kẻ ngu này (tức vị quan) đi đến đó và khi ông ta triệu
tập chúng tỳ kheo lại, ông ta công bố lệnh truyền của đức vua rằng:
"hãy làm lễ phát lồ."
"Chúng tôi không làm lễ phát lồ
với những ngoại đạo sư", chúng Tỳ kheo trả lời với vị quan lầm
lạc đó. Vị quan kia bèn chém đầu bảy vị trưởng lão, lần lượt từng
vị một, bằng cây gươm của ông ta, khi nói rằng: "ta bắt buộc các
người phải làm lễ phát lồ". Khi người em của đức vua, là Tissa,
thấy tội ác ấy, ngài tức tốc đi đến và ngồi trên chỗ ngồi gần nhất
với vị quan. Khi vị quan kia trong thấy trưởng lão, ông ta bèn đi đến đức
vua và tâu lại toàn thể vấn đề.
Khi vị hoàng đế nghe qua điều ấy,
vị ấy lấy làm sầu khổ và vội vã ra đi và hỏi chúng Tỳ kheo đang bị
hoang mang rối ren nhiều: "thực ra, ai có tội trong hành động đã làm
này?"
Một người nọ trong bọn chúng ngu xuẩn
trả lời rằng: "bệ hạ có tội" và những người khác thì nói rằng:
"cả hai trong các vị đều có tội", nhưng những người có trí
thì trả lời rằng: "bệ hạ không có tội".
Khi đức vua nghe qua điều này thì vị
ấy nói rằng: "có vị Tỳ khưu nào có khả năng làm lắng dịu những
hoài nghi của trẫm và để cư xử tốt với đạo chăng?. Các vị Tỳ khưu
trả lời đức vua rằng: "có trư?ng lão Tissa, con trai của Moggali, tâu
đại vương" và đức vua khởi nhiệt tâm.
Vua gởi đi bốn vị trưởng lão, mỗi
vị được theo hầu bởi một ngàn vị Tỳ khưu và bốn vị quan, mỗi vị
có một ngàn tùy tùng trong cùng ngày hôm ấy, lãnh trọng trách của đức
vua đi th?nh trưởng lão về; nhưng dầu họ đã khẩn cầu trưởng lão
ngài cũng không đến.
Khi đức vua nghe qua điều này, vị
ấy lại phái tám vị trưởng lão và tám vị quan, mỗi vị có một ngàn
tùy tùng, nhưng cũng như trước trưởng lão cũng không đến.
Ðức vua hỏi rằng: "thế thì,
làm sao để trưởng lão đến?" các vị Tỳ khưu bày cho đức vua biết
cách để có thể khiến cho trưởng đi đến: "tâu đại vương nếu họ
nói với trưởng lão như vầy, "bạch đại đức hãy là người giúp
đỡ cho chúng con để làm lợi cho giáo pháp". Như vậy trưởng lão sẽ
đi đến."
"Ðức vua lại phái sứ giả ra
đi gồm mười sáu trưởng lão và mười sáu vị quan, mỗi vị có một
ngàn tùy tùng, cũng lãnh trách nhiệm ấy, và đức vua nói với họ rằng:
"trưởng lão đã già rồi, trưởng lão sẽ không đi bằng xe đâu, hãy
đưa trưởng lão đi bằng thuyền trên sông Hằng."
Bởi vậy họ đi đến trưởng lão
và bạch lại với ngài, và khó khăn lắm trưởng mới chịu nghe bức thư
của họ và đứng vậy. Và họ đưa trưởng lão đi bằng thuyền và đức
vua ra đón tiếp trưởng lão. Khi lội xuống nước ngang đầu gối, đức
vua cung kính chìa bàn tay phải của mình đến trưởng lão khi trưởng lão
đi xuống khỏi thuyền. (Ðức vua đã nằm mơ thấy một giấc mộng trong
đêm hôm trước, các nhà tiên tri đã giải giấc mộng ấy như vầy, rằng
một vị Sama.nanaaga, là một đại Sa-môn, sẽ chạm vào tay phải của vua).
Bấy giờ khi trưởng lão nắm tay của đức vua, thì những tùy tùng định
giết ngài. (Vì chạm vào bàn tay của đức vua là một tội có thể bị xử
phạt bằng cái chết. Tuy nhiên đức vua đã ngăn cản họ lại. Nhưng trưởng
lão nắm tay của đức vua như một dấu hiệu cho thấy rằng ngài chấp nhận
vị ấy làm đệ tử của mình).
Vị trưởng lão đáng kính nắm tay đức
vua do lòng bi mẫn đối với vị ấy, và đi xuống khỏi thuyền.
Ðức vua dẫn Trưởng lão đến lạc
viên có tên là Rativaddhana, và khi vị ấy đã rửa chân và thoa dầu cho
ngài và đã ngồi xuống vị hoàng đế bèn nói, để thử khả năng của
trưởng lão, con muốn xem phép lạ. Và trưởng lão trả lời cho câu hỏi về
thần thông mà đức vua mong thấy: "một sự rung động của quả đất".
Và trưởng lão lại nói với đức vua rằng: "toàn thể quả đất rung
chuyển và độc nhất một tôn giáo, bệ hạ muốn thấy hiện tượng nào
đây?" rồi khi đức vua hỏi rằng: "bên nào khó hơn?" và nghe
câu trả lời rằng: "sự lung lay của một tôn giáo thì khó hơn" và
đức vua nói rằng vị ấy muốn thấy sự lung lay của một tôn giáo.
Rồi trong phạm vi một do tuần bề rộng,
trưởng lão để một cỗ xe, một con ngựa và một người đàn ông, và một
cái bình đựng đầy nước ở bốn hướng, và bằng năng lực thần thông
của trưởng lão, trưởng lão khiến cho quả đất trong phạm vi một do tuần
này rung chuyển, cùng với một nửa của một trong bốn vật này cũng rung
chuyển, và để đức vua ngồi ở đó xem hiện tượng này.
Rồi vị hoàng đế hỏi trưởng lão
xem chính mình có dính dáng gì trong tội giết chết những vị Tỳ khưu do
vị quan kia đã làm không. Trưởng lão giảng giải cho đức vua biết rằng:
"Không có cố ý ác thì không có nghiệp duyên". Và ngài tụng lại
câu chuyện bổn sanh Tittirajaataka.
Khi trú ngụ một tuần lễ ở đó
trong vườn thượng uyển của đức vua, trưởng lão chỉ dạy về giáo
pháp khả ái của đức Chánh biến tri. Cũng trong tuần này vị hoàng đế
sai hai vị Dạ-xoa ra đi và triệu tập tất cả những vị Tỳ khưu có mặt
trên quả đất. Vào ngày thứ bảy, vị ấy đi đến tịnh xá rực rỡ của
chính mình và tổ chức một cuộc họp gồm hội chúng Tỳ khưu với số
lượng đầy đủ như thế.
Rồi khi ngồi với trưởng lão ở một
bên sau bức màn, vị hoàng đế gọi đến lần lượt từng vị một những
vị Tỳ khưu có nhiều quan điểm khác nhau và hỏi họ rằng: "bạch
ngài, đức thế tôn đã giảng dạy điều gì?" Và họ từng vị một
trình bày giáo lý phi pháp của họ, là giáo lý thường kiến
(Sassatadi.t.thi) vân vân, Và đức vua đã ra lệnh trục xuất tất cả những
vị Tỳ khưu chấp theo tà kiến này ra khỏi tăng chúng, những vị Tỳ khưu
bị trục xuất có tất cả sáu chục ngàn vị. Vị ấy lại hỏi những vị
Tỳ khưu có chánh kiến rằng: "Ðức thế tôn giảng dạy điều gì?"
các ngài trả lời rằng: "Ðức thế tôn giảng dạy giáo lý phân biệt-luận
giả (Vibhajjavaada đồng nhất với Theravaada)".
Và vị hoàng đế hỏi trưởng lão rằng:
"bạch ngài, Ðức Chánh biến tri có thực sự giảng dạy giáo lý phân
biệt-luận-giả chăng?" trưởng lão trả lời rằng: "phải".
Và khi đức vua biết được điều này, vị ấy vui sướng trong lòng và
nói rằng: "bạch ngài, bởi vì kể từ nay tăng chúng đã được thanh
tịnh, thanh lọc, do đó chúng tăng nên làm lễ phát lồ," và đức vua
tôn trưởng lão làm người bảo vệ chúng tăng và rồi trở về kinh đô
xinh đẹp của chính vị ấy; từ đó trở đi chúng Tỳ kheo làm lễ phát lồ
trong sự hòa hợp.
Từ số lượng to lớn của chúng Tỳ
kheo, trưởng lão chọn ra một ngàn vị Tỳ kheo đa năng, có sáu thắng
trí, thông suốt Tam-tạng và có Tứ-tuệ phân-tích, để trùng tuyên chánh
pháp. Cũng như trưởng lão Mahaakassapa và trưởng lão Yasa đã tổ chức cuộc
kết tập như thế nào - thì trưởng lão Tissa cũng đã tổ chức như thế
ấy, giữa hội đồng kiết tập này trưởng lão Tissa đã đưa ra bộ luận
sự (kathaavatthupakara.na), để bác bỏ những giáo lý khác. Như vậy cuộc
kiết tập lần thứ ba dưới sự bảo vệ của vua Asoka được kết thúc bởi
một ngàn vị Tỳ khưu- trong thời gian chín tháng.
Vào năm thứ mười bảy dưới triều
đại của vị hoàng đế, Vị trưởng lão trí tuệ bảy mươi hai tuổi đã
kết thúc cuộc kiết tập bằng một cuộc lễ đại tự tứ. Và tựa như
để vui mừng tung hô sự thành lập của chánh pháp, đại địa đã chấn
động vào lúc kết thúc cuộc kiết tập.
Hơn thế nữa, khi rời bỏ cõi cao,
là cõi phạm thiên rực rỡ và vì giáo pháp mà đi xuống cõi ô trọc
ngài, bậc đã hoàn thành phận sự của chính mình, hoàn thành viên mãn
các phận sự đối với giáo pháp. Quả thật, vậy ai khác có thể dễ
duôi với giáo pháp?
-Ở đây chấm dứt chương thứ năm,
được gọi là cuộc kiết tập lần thứ ba; trong bộ đại vương thống sử
(Mahaava.msa), được biên soạn vì lòng tín lạc và xúc động - của những
người mộ đạo.
-ooOoo-