- ÐẠI VƯƠNG THỐNG SỬ
- MAHÀVAMSA
[8]
CHƯƠNG XXV
SỰ CHIẾN THẮNG
CỦA DUTTHAGÀMATI
Khi vua Du.t.thagaama.ni đã cung cấp cho
dân chúng những nhu cầu cần thiết và đã sai đặt một viên xá lợi vào
cây thương rồi cùng với đoàn xa binh, bộ binh, tượng binh, vị ấy đi
nhiễu hành đến Tissamaahaaraama, và khi đã tỏ sự ưu ái đến chúng tăng,
vua bèn nói rằng: "trẫm sẽ tiếp tục đi đến miền đất ở bên kia
con sông để đem lại vẻ vang cho giáo pháp. Ðể chúng tôi có thể tỏ sự
tôn kính đến các ngài, hãy cho chúng tôi những vị Tỳ khưu là những người
sẽ đi chung với chúng tôi, bởi vì hình ảnh của các vị Tỳ khưu là niềm
phúc lạc và sự bảo vệ của chúng tôi". Ðể chuộc tội, chư tăng
cho phép vị ấy dẫn theo năm trăm vị Sa-môn; khi nhận lãnh hội chúng Tỳ
kheo này, đức vua tiếp tục đi, và khi đã sai làm sẵn con đường ở
Malaya dẫn đến đây, vua cưỡi trên con voi Ka.n.dula, và được vây quanh bởi
những dũng sĩ của mình, vị ấy dẫn đoàn binh ra chiến trận. Với một
đầu nằm ở Mahaagaama, đoàn quân binh tiến đến Guttahaalaka.
Khi đến tại Mahiya"nga.na, vị ấy
đánh bại tên Damila Chatta. Khi vua Gaamani đã giết những người Dami.la ngay
tại chỗ ấy, vị ấy đến Ambatutthaka, (là một chỗ cạn của con sông
Mahaavaliga"nga, không xa với Bintenne), ở đó có một đường hào dẫn
đến con sông, và đã đánh bại tên Dami.la Titthamba; khi chiến đấu với kẻ
thù hùng mạnh và đầy xảo quyệt trong bốn tháng, bằng mười kế, vị
ấy đã đánh bại được hắn, bởi vì vua đã đưa mẹ của hắn ra làm
bình phong.
Khi con người hùng mạnh đi từ đó
xuống con sông, đã đánh bại bảy vị hoàng tử Dami.la hùng mạnh trong một
ngày và đã thiết lập nền hòa bình, vua phân phát chiến lợi phẩm cho
quân binh của mình. Do đó chỗ ấy được gọi là Khemaaraama.
Tại Antaraasobha, vua nhiếp phục
Mahaako.t.tha, tại Do.na nhiếp phục Gavara, tại Haalakola nhiếp phục Issariya,
tại Naa.lisobbha nhiếp phục Naalika. Tại Diighaabhayagallaka bằng cách như thế,
vị ấy đã nhiếp phục Diighaabhaya; tại Kacchatittha, trong vòng bốn tháng,
vị ấy nhiếp phục Kapisiisa. Tại Ko.tanagava vị ấy nhiếp phục Ko.ta, rồi
đến Naalavahaanaka, tại Vahi.t.tha nhiếp phục tên Dami.la Vahi.t.tha và tại
Gaama.ni vị ấy nhiếp phục Gaama.ni, tại Kumbagaama nhiếp phục Kumba, tại
Na.ndigaama nhiếp phục Nandika, tại Khaanugaama nhiếp phục Khaanu, nhưng tại
Tamba và Unnama thì nhiếp phục hai người, một cậu và một cháu, tên là
Tamba và Unnama. Vua cũng nhiếp phục Jambu, và tại mỗi ngôi làng đều lấy
tên theo người lãnh đạo của ngôi làng ấy.
Khi vị hoàng đế nghe người ta nói rằng:
"vì không biết quân binh của họ, nên họ đã giết chết những người
của chính họ", đức vua thực hiện tác chứng phát nguyện rằng:
"chẳng phải vì ưa thích với quyền thống trị khiến tôi phải làm
công việc gian nan này, sự cố gắng của tôi mãi mãi là để thành lập
giáo pháp của đức Chánh biến tri. Nếu đây là sự thực thì xin cho chiếc
áo giáp trên thân của quân sĩ của tôi có màu của lửa". Và bấy giờ
chuyện ấy đã xảy ra đúng như thế.
Tất cả những người Dami.la đã được
thoát chết đều đi đến thành phố Vijitanagara để tìm sự an ổn. Tại một
vùng trống trải khả ái, đức vua đã cắm trại, và chỗ này được người
ta biết qua cái tên là Khandhaavaarapi.t.thi.
Vì để chiếm lấy Vijitanagara, nên đức
vua muốn đem Nandhimitta ra thử, vua thả cho con voi Ka.n.dula xông đến
Nadhimitta khi vua trông thấy Mandhimitta đang đi đến, khi con voi đi đến để
nhiếp phục chàng dũng sĩ, thì Nandhimitta dùng hai bàn tay nắm lấy hai cái
ngà của con voi và dùng sức đẩy cho nó chống hai chân trước lên. Vì
Nandhimitta đánh với con voi, nên ngôi làng có diễn ra biến cố ấy được
gọi tên là Hatthipora.
Khi đức vua đã đem cả hai ra thử rồi,
vị ấy đi đến Vijitanagara, tại cổng phía nam có xảy ra một cuộc chiến
đấu đáng sợ giữa các dũng sĩ với nhau. Nhưng ở gần cổng phía đông,
khi đang ngồi trên lưng ngựa, Ve.lusumana đã giết chết rất nhiều người
Dami.la.
Những người Dami.la đóng cổng thành
và vua gởi đến đó những quân binh của vị ấy, Ka.n.dula và Nandhimitta
và Suranimila, tại cổng phía nam, và tại ba cổng kia ba người là
Mahaaso.na, Gotha và Theraputta đã thực hiện việc lớn của họ. Thành phố
có ba đường hào, được phòng vệ bởi một bức tường cao, với nhiều
cổng sắt, làm cho kẻ thù khó xông vào được. Khi quỵ xuống bằng hai chân
sau và dùng hai cái ngà của nó đập vỡ những tảng đá, chất vữa, gạch,
con voi đã tấn công cổng thành bằng sắt. Nhưng những người Dami.la đang
đứng ở trên chòi canh thì bắn xuống đủ loại khí giới, những hòn sắt
nóng đỏ và chì tan chảy. Khi chì đang bốc khói được đổ xuống lưng của
con voi, thì Ka.n.dula, bị đau đớn, bèn đi đến một hồ nước và lặn xuống
đó.
"Ở đây không phải là chỗ để
người vui chơi, hãy xông ra tiêu diệt cổng sắt, hãy tiêu hủy cái cổng!"
Gothaimbara nói như thế với con voi. Rồi con voi cao quí nhất trổi dậy
tánh kiêu hùng, và khi rống vang, nó vươn mình ra khỏi nước và đứng hiên
ngang ở trên đất.
Vị y sĩ của những con voi rửa sạch
chất chì và bôi vào dầu xức; Ðức vua cưỡi trên con voi và khi dùng bàn
tay vỗ nhẹ vào hai thái dương của nó, và tiếp tục cổ vũ nó bằng những
lời này: "này Ka.n.dula yêu quí, ta cho ngươi quyền chúa tể toàn thể
đảo Tích Lan này." Và khi vị ấy đã sai đem cỏ non đến cho nó, đắp
lên nó một tấm vải và khoác lên nó tấm giáp và buộc lên tấm da của
con trâu núi được xếp lại bảy lần, và đặt lên trên một tấm da được
nhúng dầu, rồi đức vua thả cho đi. Vừa đi vừa rống vang rền như sấm
sét, đương đầu với hiểm nguy, và dùng hai ngà của nó đâm thủng những
tấm Pa-nô của cổng thành và dùng hai chân giẫm nát cái ngưỡng cửa; và
bằng những tiếng ầm ầm, cái cổng đổ sầm xuống đất cùng với những
vòng cung của cái cổng. Mandhimitta dùng hai cánh tay hất tung khối mảnh vụn
đang rơi từ chòi canh xuống lưng của con voi. Khi Ka.n.dula trông thấy việc
làm của vị ấy, đầy thỏa mãn, nó bỏ đi nỗi tức giận trước kia mà
nó đã nuôi dưỡng, bởi vì Mandhimitta đã tóm lấy hai cái ngà của nó.
Ðể có thể đi vào thành phố nằm kề
sau lưng nó, Ka.n.dula, con voi cao quí nhất quay người về phía Mandhimitta và
nhìn vào người dũng sĩ ấy. Nhưng Mandhimitta nghĩ rằng: "ta sẽ không
đi vào thành phố bằng cái cổng đã được mở ra bởi con voi" và bằng
cánh tay của mình, vị ấy đã phá sập bức tường. Bức tường cao mười
tám hắc tay và dài tám Usabha (1 Usabha bằng 140 hắc tay) cùng đổ ầm xuống.
Con voi nhìn vào Suranimila, nhưng chàng dũng dĩ này cũng không đi theo lối
đi ấy mà xông về phía trước, nhảy qua bức tường để vào trong thành
phố, Go.tha và So.na cũng vậy, mỗi người phá sập một cái cổng và xông
tới. Con voi tóm lấy bánh xe, Mitta cầm cái sườn xe, Go.tha mang một cây dừa,
Nimila mang cây kiếm tốt, Mahaaso.na mang cây thốt nốt, Theraputta cầm cái
côn lớn, và mỗi người xông vào các con đường như vậy, họ đánh tan
tát những người Dami.la ở đó.
Khi đức vua đã tiêu diệt Vijitanagara
trong bốn tháng, vị ấy đi từ đó đến Girilaka và giết chết tên Dami.la
Giriya. Từ đó vua đi đến Mahelanagara, thành ấy có ba đường hào sát nhau
và được bao quanh bởi một đám hoa Kadamba mọc là đà san sát, chỉ có một
cổng và khó đi đến; Khi lưu lại ở đó bốn tháng, đức vua đánh bại
được tên cầm đầu của Mahela bằng một trận chiến có sử dụng mưu
lượt. Rồi vua cắm trại ở phía nam của ngọn núi Kaasa, gần
Anuraadhapura. Khi vua đã làm một cái hồ nước ở đó, nhằm tháng
Je.t.thamuula (tháng năm âm lịch), vị ấy tổ chức lễ tắm nước. Ở đó
có ngôi làng tên là Pajjotanagara.
Khi vua E.laara nghe rằng vua
Du.t.thagaamani đã đi đến để khiêu chiến, vị ấy triệu tập các quan lại
và nói rằng: "chính vị vua này là một dũng sĩ và thực ra có nhiều
dũng sĩ đi theo vị ấy, các khanh nghĩ thế nào, chúng ta nên làm gì?"
những dũng sĩ của E.laara, dẫn đầu là Diighajantu, quyết định rằng:
"ngày mai chúng ta sẽ chiến đấu." Vua Du.t.thagaama.ni cũng bàn bạc
với mẫu hậu của vị ấy, và với ba mươi hai đoàn quân trước kia của
bà. Trong đám binh này, đức vua bố trí những người mang lọng và mang những
biểu tượng của vua, chính vị hoàng đế đứng trong cùng của đoàn quân
binh.
Khi E.laara, với nhung giáp đầy người,
cưỡi trên con voi Mahaapabbata, vị ấy đi đến đó với những đoàn xe,
quân binh, và những con vật cưỡi. Khi trận chiến bắt đầu, Diighajantu hùng
mạnh và dũng cảm nắm lấy cây kiếm và tấm khiên sẵn sàng ra trận. Và
khi nhảy vào hư không cao mười tám hắc tay, và khi bổ xuống cái hình nộm
của vua bằng cây kiếm của vị ấy, vị ấy làm tan tát đoàn binh đầu
tiên. Khi vị dũng sĩ hùng mạnh này tiếp tục làm tan tát những đội quân
binh khác, vị ấy tấn công vào đoàn binh có Gaama.ni đứng.
Nhưng khi vị ấy bắt đầu tấn công
đức vua thì dũng sĩ Suuranimila lăng mạ dũng sĩ kia, khi công bố tên của
chính mình (đây là lối thách thức đấu tay đôi.) Diighajantu suy nghĩ rằng:
"ta sẽ chẻ đôi hắn cùng với tấm khiên", và chém vào tấm
khiên bằng cây kiếm. Khi đó Suuranimila để cho tấm khiên bay đi. Và khi chỉ
chẻ được tấm khiên như vậy, Diighajantu ngã xuống ở đó. Và Suuranimila
khi nhảy lên, bèn đâm xuống người đàn ông bị ngã bằng cây thương.
Phussadeva thổi cái tù và, quân binh của những người Dami.la bị tan rã;
Nói đúng hơn, E.laara bỏ chạy, và nhiều người Dami.la bị giết chết.
Nước trong cái hồ đỏ bởi những người bị giết chết, do đó người
ta gọi cái hồ ấy là Kulantavaapi (Sự chấm dứt của bộ tộc).
Vua Du.t.thagaamani sai đánh trống công
bố rằng: "Ta sẽ giết E.laara", khi chính vị ấy mang vào đầy đủ
binh khí, cưỡi trên coi voi Ka.n.dula cũng được trang bị binh giáp chỉnh tề,
đức vua đuổi theo E.laara và đi đến cổng nam của thành phố
Anuraadhapura.
Hai vị vua đánh nhau ở gần cổng
phía nam của thành phố, E.laara phóng cây phi tiêu, Gaamani tránh đỡ nó; Vị
ấy ra lệnh cho voi của mình dùng ngà húc vào con voi của E.laara, và chính
vị ấy phóng cây phi tiêu vào E.laara; Và E.laara ngã gục cùng với con voi.
Khi vua Gaama.ni đã thắng trận như vậy
và đã thống nhất nước Tích Lan dưới một vị vua cai trị, vị ấy đi
vào kinh đô của mình cùng với xa binh, bộ binh và tượng binh. Vua sai đánh
trống ở trong thành phố, và khi đã triệu tập dân chúng khắp quanh một
do tuần, vị ấy làm lễ mai táng cho vua E.laara. Gaama.ni đốt xác của
E.laara tại chỗ mà vua E.laara ngã xuống, vua đốt xác cùng với nhà táng,
và ở đó vị ấy xây dựng một đài kỷ niệm và cho người đến cúng
bái. Và ngay cả đến ngày hôm nay, những vị hoàng tử của nước Tích
Lan, khi nào họ đến gần chỗ ấy, thường làm im lặng tiếng nhạc của
học để tỏ sự tôn kính đến chỗ ấy.
Khi đã đánh bại ba mươi hai vị vua
Dami.la, Du.t.thagaamaa.ni nắm quyền nhất thống nước Tích Lan.
Khi Vijitanagara bị tiêu diệt thì vị
anh hùng Diighajantu trước đó đã nói với vua E.laara về lòng dũng cảm của
người cháu trai của vị ấy, và vị ấy đã gởi một bức thư đến người
cháu trai tên là Bhalluka, bảo đi đến đây. Khi Bhalluka nhận được bức
thư từ vua, thì cậu ta đi đến đây, cùng với sáu chục ngàn người, vào
ngày thứ bảy sau ngày đốt xác E.laara.
Dầu đã nghe nói về cái chết của
vua, sau khi vị ấy đã đổ bộ đến rồi, vì xấu hổ, vị ấy có ý định
là: "ta sẽ chiến đấu," vị ấy dục giã đến đây từ
Mahaatittha và cắm trại ở gần ngôi làng Kolambahaalaka.
Khi đức vua nghe tin chàng dũng sĩ này
đang đến, vị ấy bèn khởi binh chiến đấu, khi đã vũ trang đầy mình,
cưỡi trên coi voi Ka.n.dula, cùng với những dũng sĩ cưỡi trên những con
voi, ngựa và xe, và với đoàn bộ binh.
Ummaadaphussadeva, là tay cung thuật sư lão
luyện nhất trong khắp hải đảo đã đi theo với năm loại khí giới, và
những anh hùng còn lại cũng đi theo vị ấy. Khi trận chiến đang diễn ra
đầy ác liệt thì Bhalluka tiến đến vua ở đó; Nhưng Ka.n.dula, chúa của
loài voi, để làm suy yếu sự tấn công dữ dội của Bhalluka, chầm chậm
thối lui và binh sĩ cũng chầm chậm thối lui theo nó. Ðức vua nói rằng:
"trước kia trong hai mươi tám trận đánh, nó chưa bao giờ rút lui, bây
giờ như vậy nghĩa là gì, này Phussadeva?" và khi dũng sĩ trả lời rằng:
"tâu đại vương, chiến thắng nằm ở đằng sau của chúng ta: Khi mong
chờ một trận đánh thắng lợi, con voi đã thối lui, và nó sẽ dừng lại
ở chỗ chiến thắng." Và khi con voi rút lui, nó đứng vững chắc một
bên bảo tháp của vị chư thiên bảo hộ của thành phố, bên trong khuôn
viên của tịnh xá Mahaavihaara.
Khi con voi chúa đã dừng lại ở đây,
thì vị Dami.la Bhalluka đi đến đức vua tại chỗ ấy và trêu chọc nhà
cai trị của nước Tích Lan. Khi che miệng của mình bằng cây kiếm, đức
vua đáp lại lời lăng mạ bằng cách lăng mạ lại "ta sẽ bắn một cây
tên vào miệng của vua". Bhalluka suy nghĩ, và bắn ra một cây tên. Cây
tên trúng nhằm thanh kiếm và rơi xuống đất. Và Bhalluka, khi nghĩ rằng
"cây tên đã trúng vào miệng của vua rồi", bèn vui sướng reo hò.
Nhưng dũng sĩ Phussadeva đang ngồi sau lưng đức vua, đã nhanh chóng bắn ra
một cây tên vào miệng của tên kia, và khi cây tên lướt đi, vị ấy chạm
nhẹ vào cái vòng tai của đức vua. Và vị ấy làm như vậy để khiến
cho hắn ngã xuống với hai chân xoay về phía của đức vua, Phussadeva bắn
tiếp một cây tên nữa vào người đàn ông đang té ngã và trúng vào đầu
gối của người kia. Và bấy giờ khi khiến cho Bhalluka quay người với đầu
hướng về phía đức vua và bằng bàn tay nhanh nhẹn như vậy, Phussadeva đã
hạ gục Bhalluka (khi bị trúng tên đầu tiên, Bhalluka ngã ngửa, và như vậy
đáng lẽ hai chân sẽ đưa về phía đức vua, nhưng để ngăn lại,
Phussadeva bắn cây tên thứ hai vào đầu gối của Bhalluka, khiến cho hắn
giờ đây ngã nhào về phía trước. Lúc đó Bhalluka nằm trong tư thế của
kẻ bại trận hay của người nô lệ đang gục đầu trước đức vua), Khi
Bhalluka ngã gục thì tiếng reo hò chiến thắng vang lên.
Ðể cho mọi người thấy lỗi của mình,
ngay tức thì Phussadeva tự mình cắt cái nhái tai và để cho đức vua trông
thấy máu đang chảy xuống. Khi đức vua thấy vậy, vị ấy hỏi rằng:
"như thế có nghĩa gì?" để trả lời nhà cai trị của xứ sở, vị
ấy kể lại việc làm vừa rồi. Và khi được hỏi "người có tội
gì?" vị ấy trả lời rằng: "tôi chạm vào bông tai của bệ hạ."
"này ông bạn, tại sao ngươi làm vậy, khi cho việc làm không có tội
là có tội?" đức vua hỏi, và để tỏ sự biết ơn đức vua nói
thêm rằng: "phần thưởng danh dự của ngươi sẽ rất to lớn, giống
như phát tên của ngươi."
Ðức vua, sau khi đã giành thắng lợi,
đã giết tất cả những người Damila, vị ấy tiếp tục đi lên sân thượng
của hoàng cung, và ở trong phòng ngủ của vua, giữa những ca nhi vũ nữ và
các quan, sau khi đã sai đem đến cây tên của Phussadeva và sai đặt nó xuống
đất với đầu có lông ở trên cùng, vị ấy tưới xuống cây tên bằng
những đồng tiền vàng Kahaapana, và vua truyện lịnh ban thưởng đống tiền
này đến Phussadeva.
Rồi khi ngồi ở trên sân thượng của
cung điện, được trang hoàng lộng lẫy, với những ngọn đèn dầu thơm
cháy sáng và ngào ngạt nhiều loại hương liệu, với những tiên nữ tuyệt
đẹp mang hình tướng những vũ nữ, trong khi vua đang ngồi trên chiếc trường
kỷ mềm mại và xinh đẹp, và được phủ lên bằng những tấm trải có
viền hoa được thả thòng xuống chung quanh, và khi hồi tưởng lại sự
chiến thắng vinh quang của mình, dầu to lớn như thế, vị ấy vẫn không
thấy vui sướng, vì nhớ ra rằng do bởi sự chiến thắng ấy đã gây nên
sự chết chóc cho hằng triệu sanh linh.
Khi những vị A-la-hán ở
Piya"ngudiipa biết được ý nghĩ của vị ấy, các ngài bèn gởi đến
tám vị A-la-hán để an ủi vị ấy. Và trong khi đi đến vào lúc canh giữa
của đêm, họ đáp xuống ở cổng của cung điện. Khi cho người ta biết
rằng các ngài đã đến đó xuyên qua hư không, các ngài bèn bước lên
sân thượng của cung điện. Ðức vua đảnh lễ các ngài, rồi hỏi lý do
khiến các ngài đến đây: "chúng tôi được chư tăng ở
Piya"ngudiipa sai đến đây để an ủi bệ hạ, tâu chúa của loài người."
Và nhân đó đức vua lại nói với các ngài rằng: "làm sao có được
sự an ủi nào dành cho trẫm, bạch chư đại đức, bởi vì do trẫm khiến
gây ra sự tàn sát hằng triệu sanh linh?"
"Nghiệp này không sanh lên chướng
ngại đối với con đường về cõi trời của bệ hạ. Chỉ có một rưỡi
số chúng sanh đã bị giết ở đây bởi bệ hạ, tâu chúa của loài người.
Một số đã qui y Tam bảo, số khác thì thọ trì ngũ giới. Những kẻ không
tin tưởng và những người đi theo lối sống ác là số người còn lại,
số ấy chẳng hơn gì những con thú. Nhưng đối với bệ hạ, bệ hạ sẽ
đem lại sự vinh quang cho giáo pháp của Ðức Phật bằng nhiều cách; do đó
hãy bỏ đi nỗi lo lắng trong tâm, hỡi chúa của loài người!"
Ðược khuyên giải bởi các ngài như
vậy, đức vua được nguôi ngoai. Khi đã chào các ngài và cho phép các
ngài ra về, đức vua lại nằm và suy nghĩ: "ngươi sẽ không bao giờ
thọ thực nếu không có chư tăng, cha mẹ của chúng ta đã khiến chúng ta
thề như vậy vào lúc ăn. Có lần nào ta đã ăn cái gì đó mà không cho đến
tăng không?" Rồi vua thấy rằng vị ấy đã có lần như vậy, nhưng hoàn
toàn vô ý, vị ấy đã ăn tiêu trong một cái vỏ khô của trái cây trong bữa
ăn sáng, mà chẳng chừa lại chút nào cho chư tăng; "ta sẽ sám hối
điều này"
Nếu một người nghĩ đến những khối
chúng sanh thuộc nhân loại bị giết vì lòng tham lam, số lượng không xiết
kể, và nếu người ấy ghi nhớ rõ ràng điều sanh lên từ lòng tham ấy,
và nếu người ấy cũng nhớ rất rõ rằng vô thường là kẻ giết chết
tất cả, như vậy, bằng cách này, người ấy sẽ sớm đạt được sự
giải thoát khỏi đau khổ và được pháp hạnh phúc.
Ở đây chấm dứt chương thứ hai
mươi lăm, được gọi là "Sự chiến thắng của Du.t.thagaama.ni",
trong bộ Mahaava.msa, được biên soạn vì niềm tín lạc và xúc động của
những thiện nhân.
-ooOoo-
CHƯƠNG XXVI
SỰ HIẾN DÂNG TỊNH
XÁ MARICAVATTIVIHÀRA
Khi vị vua có danh tiếng lẫy lừng đã
thống nhất nước Tích Lan thành một vương quốc, vị ấy phân phối những
chỗ vinh dự cho những dũng sĩ của mình theo đúng với địa vị của họ.
Dũng sĩ Theraputaabhaya không chịu nhân chỗ chỉ định cho mình, và khi được
hỏi: "tại sao?" Dũng sĩ trả lời rằng: "vì đó là chiến
tranh." và được hỏi tiếp: "khi độc nhất một vương quốc được
thành lập thì làm sao có chiến tranh?" Vị dũng sĩ trả lời rằng:
"thần phải đánh nhau với những kẻ phản loạn, là những loại ái dục,
một trận chiến mà trong đó chiến thắng khó dành được." Dũng sĩ
đã nói như vậy, và đức vua tìm cách can ngăn vị ấy nhiều lần. Khi
dũng sĩ đã khẩn nài nhiều lần và được đức vua đồng ý, chàng trai
thọ pháp xuất gia. Sau khi đã xuất gia rồi, đúng lúc vị ấy chúng đắc
đạo của A-la-hán, và sống chung với năm trăm vị Tỳ khưu đã đoạn trừ
các lậu hoặc.
Khi tuần lễ của hội vương quyền
đã trôi qua, vị vua vô úy Abhaya, là người đã long trọng tổ chức lễ tấn
phong đi đến hồ nước Tissa, hồ ấy được trang hoàng theo đúng tục lệ
của lễ hội, và tổ chức những cuộc vui hội hè ở đó và để xem truyền
thống của những vị vua đã được phong vương.
Người ta đặt hàng trăm lễ vật cúng
dường và tất cả những gì được sửa soạn dành cho đức vua, và chỗ
mà sau này có tịnh xá Maricava.t.tivihaara. Ở đó ngay tại chỗ mà sau này
có Bảo tháp, những người hầu của vua đã vui chơi suốt ngày ở trong nước,
cùng với những nữ nhân trong hậu cung, vị ấy nói, vào lúc chiều tối,
rằng: "chúng ta sẽ đi khỏi đây, hãy mang cây thương đi trước chúng
ta."
Và những người hầu nhận lãnh
trách nhiệm này không thể di chuyển cây thương ra khỏi chỗ cắm của nó
được. Và những quân sĩ của đức vua cùng nhau đi đến và mang đến các
lễ vật cúng dường gồm những vật thơm và tràng hoa. Khi đức vua trông
thấy điều kỳ diệu này, vị ấy bố trí những người lính bảo vệ ở
đó, và sau khi vị ấy quay về kinh đô, vua dựng lên một Bảo tháp theo đúng
cách để nó bao trùm lấy cây thương và dựng lên một tịnh xá để giữ
Bảo tháp ở bên trong. Trong ba năm, tịnh xá mới được làm xong và người
cai trị của loài người thỉnh chư Tăng lại để tổ chức lễ hiến dâng
tịnh xá. Một trăm ngàn Tỳ khưu và chín chục Tỳ khưu ni đã cu hội ở
đó. Rồi đức vua nói như vầy với chúng tăng: "Bạch chư đại đức
tăng, trẫm đã ăn tiêu trong một cái vỏ khô của trái cây mà không có
nghĩ đến chư tăng, khi nghĩ rằng: đây sẽ là hành động sám hối của
ta, nên trẫm đã xây dựng tịnh xá khả ái Maricava.t.tivihaara, luôn cả bao
tháp. Cầu mong chư tăng nhận lãnh nó". Bằng những lời này, vua đổ
nuớc bố thí và thành tâm dâng tịnh xá đến chư tăng. Khi đã dựng lên
một tòa nhà lớn xinh đẹp trong tịnh xá, và ở quanh nó, đức vua truyền
lịnh dâng những vật thí dồi dào đến chúng tăng. Ngôi nhà được phát
họa để những cái cọc được đóng xuống ngay trong nước của hồ
Abhaya, như thế cũng đủ để khỏi phải kể những chỗ còn lại nằm ở
quanh nó.
Khi chúa của loài người đã bố thí
đồ ăn thức uống v.v..., trong một tuần lễ, dâng tất cả những vật dụng
cần thiết đắt giá đến chư tăng. Những vật dụng này có giá trị cao
nhất là một trăm ngàn Kahaapana và thấp nhất là một ngàn Kahaapana. Chư
tăng đã thọ lãnh tất cả những vật dụng này. Tiền do đức vua xài để
tỏ lòng tri ơn, vua là vị anh hùng trong chiến trận cũng như trong sự hào
phóng, tâm trong sạch của vị ấy đầy niềm tin trong ba ngôi Tam bảo, là
người hằng mong mỏi đưa giáo pháp đến đài vinh quang, số tiền ấy
được tiêu xài dành cho Tam bảo, bắt đầu bằng sự xây dựng Bảo tháp
và kết thúc bằng lễ hiến dâng tịnh xá, không kể đến những vật vô
giá khác, tất cả món tiền này tính ra thì thiếu một ko.ti (1ko.ti bằng mười
triệu).
Thực ra những của cải có liên quan
đến chúng trở thành năm mối hiểm họa (có thể bị mất do lửa, nước,
các loại chúng sanh lấy mất, bị vua quan tịch thu hay bị cướp bóc), nếu
của cải có được bởi những người có trí tuệ đặc biệt, thì sẽ
đem lại năm điều lợi ích (được mọi người thương mến, được các
thiện nhân đánh giá cao, có danh tiếng, dễ hoàn thành những phận sự của
người cư sĩ, và sau khi mạng chung được sanh về thiên giới); Do vậy, người
có trí tuệ hãy sử dụng của cải thế nào để được năm điều lợi
ích như thế.
Ở đây chấm dứt chương thứ hai
mươi sáu, được gọi là "Sự hiến dâng tịnh xá
Maricava.t.tivihaara", trong bộ Mahaava.msa, được biên soạn vì niềm tín
lạc và xúc động của những thiện nhân.
-ooOoo-
CHƯƠNG XXVII
SỰ HIẾN DÂNG
THANH ÐỒNG ÐIỆN
Nhân có đức vua hồi tưởng đến
truyền thống được mọi người biết đến, và đã được truyền lại một
cách đúng đắn rằng: Trưởng lão giàu về phước, hằng chuyên tâm trong
các việc phước, bằng trí tuệ, đã lập nên các lời nguyện, là người
đã hóa độ cho đảo, như mọi người đã biết, ngài đã nói với tiên
nhân của ta, là đức vua, rằng: "người con cháu của bệ hạ, là vua
Du.t.thagaama.ni, bậc có trí tuệ, sau này sẽ dựng lên Ðại Bảo tháp
(Mahaathuupa) đó là Bảo tháp uy nghi Sappamaalii, cao một trăm hai mươi hắc
tay, và một nhà phát lồ, hơn nữa, được trang hoàng gằng nhiều loại ngọc,
làm cho nó cao chín tầng, đó là Thanh đồng điện (Lohapaasaada)."
Nhà cai trị của vương quốc đã suy
nghĩ như vậy, khi vua tìm kiếm một cái dĩa bằng vàng được cất giữ
trong một cái rương và được lưu giữ trong cung điện với những lời
được ghi lại trên cái dĩa ấy, vua truyền lịnh đọc to những lời ghi lại
như vầy: "Khi một trăm ba mươi sáu năm đã trôi qua, trong tương lai,
đứa con trai của Kaakava.n.na, là người cai trị vương quốc, tức
Du.t.thagaama.ni, sẽ xây dựng như vậy theo cách như thế," Khi vua đã
nghe qua những lời tiên tri này, vị ấy reo mừng và vỗ tay. Sau đó vào
lúc sáng sớm, vua đi đến công viên xinh đẹp Mahaamegha, và khi tổ chức một
cuộc hội họp gồm các vị Tỳ khưu, vua bạch với vác ngài rằng: "Bạch
chư đại đức, con sẽ xây dựng cho các ngài một cung điện giống như
cung điện của chư thiên. Hãy gởi đến cho con một thiên cung và làm cho
con một bản vẽ về thiên cung ấy." Chúng Tỳ kheo gởi đến đó tám
vị tỳ kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc.
Trong thời kỳ của Ðức Phật
Kassapa, một vị bà-la-môn tên là Asoka, là người đã thành lập tám phần
ăn bằng phiếu để phân phát đều đặn đến chư tăng, đã truyền lịnh
cho người nữ hẫu của ông ta rằng: "hãy luôn luôn bố thí vật thực
như thế này." Khi nàng đã cho những vật thí này một cách trung thành
suốt cuộc đời của nàng, nàng từ bỏ cõi đời này và tái sanh làm một
tiên nữ yêu kiều trong một cung điện sáng chói, nằm lơ lửng trong không
trung, luôn luôn được vây quanh bởi một ngàn tiên nữ. Ngọc điện của
nàng cao mười hai do tuần và rộng bốn mươi tám do tuần; Cung điện được
tô điểm bởi một ngàn phòng ngủ nhô ra có cửa sổ, chín tầng và có một
ngàn phòng ngủ lấp lánh, có bốn mặt, với một ngàn tràng hoa bằng vỏ
sò và những cửa sổ như những con mắt và có một hàng lan can sắt
(vedikaa) với một mạng lưới gồm những cái chuông nhỏ. Ở giữa tòa
nhà là một cung điện Ambala.t.thika xinh đẹp, từ mọi hướng có thể
trông thấy được, có những cờ xí rực rỡ. Khi các vị trưởng lão đi
lên cõi trời Ba-mươi-ba, trông thấy cung điện ấy, các ngài lập một bản
vẽ về nó bằng đất tỳ sương ở trên một tấm vải lụa, và các ngài
lại trở về, rồi đưa bản vẽ ấy cho chư tăng xem. Chư tăng nhận lấy
tấm lụa ấy và gởi nó đến đức vua. Khi đức vua trông thấy nó, đầy
vui sướng, vị ấy đi đến khu huê viên tráng lệ và truyền lịnh xây dựng
Thanh đồng điện cao quí phỏng theo bản vẽ.
Vào lúc công việc được bắt đầu,
vị vua quảng đại truyền lịnh rằng: "ở mỗi nơi tại bốn cổng phải
đặt tám trăm ngàn đồng tiền vàng; hơn nữa tại mỗi cổng, vua truyền
lịnh sai quân hầu đặt một bó y phục và nhiều cái hũ đựng đầy những
cục đường thỏi, đường cát, mật ong và khi công bố rằng: "bất cứ
ai làm việc ở đây đều được thưởng cả." Vua sai dân chúng làm
công việc, họ được định mức lương và được trả công.
Ðiện đài có bốn cạnh, mỗi cạnh
dài một trăm hắc tay, bề cao cũng vậy. Trong cung điện xinh đẹp nhất này
có chín tầng, và mỗi tầng có một trăm phòng ngủ, có cửa sổ. Và tất
cả những phòng ngủ đều có lát bạc và những hàng lan can chấn song bằng
san hô của chúng được trang điểm bằng nhiều loại ngọc. Những hoa sen
ở trên những hàng lan can chấn song có những viên ngọc rực rỡ và những
khung chắn ấy được viền quanh bởi những dãy chuông nhỏ bằng bạc.
Một ngàn phòng ngủ được khéo sắp
đặt trong cung điện, được lát bởi nhiều loại ngọc và được tô điểm
bởi nhiều cửa sổ. Và vì vua có nghe nói chiếc xe của Vessa-vana (vị
thiên vương lãnh đạo chúng dạ xoa) được dùng làm chiếc xe để chở những
nữ nhân, nên vua sai dựng lên một giả ốc bằng ngọc ở giữa cung điện
theo hình dạng của chiếc xe ấy. Nó được tô điểm bằng những cái cột
chứa những loại đá quí, trên những cái cột ấy là những hình nổi sư
tử, cọp, vân vân, và những bức hình của các vị chư thiên, một đường
viền bằng ngọc trai chạy mép ngoài của nhà mát và trên đó là một
khung chắn bằng san hô như đã được mô tả ở trên. Bên trong giả ốc
được trang hoàng đẹp mắt bằng bảy loại ngọc, có một chiếc ngai xinh
đẹp bằng ngà với chỗ ngồi bằng pha lê, và trên chỗ tựa lưng bằng
ngà được tạo hình mặt trời bằng vàng, mặt trăng bằng bạc, và những
ngôi sao bằng những viên ngọc trai, và những hoa sen làm bằng những loại
ngọc được khéo cẩn vào rải rác trên đó và những bức hình mô tả những
câu chuyện bổn sanh nằm bên trong viền hoa bằng vàng.
Trên chiếc ngai cực kỳ xinh đẹp
được phủ bằng những tấm nệm đắt giá có đặt một cái quạt bằng
ngà xinh đẹp, lắp lánh rực rỡ, và một cái lọng trắng có đế bằng
san hô, nằm trên mặt pha lê và có một cái gậy bằng bạc, chiếu sáng khắp
chiếc ngai. Ở trên đó, có tám biểu tượng kiết tường được chạm nổi
bằng bảy loại ngọc (đó là hình sư tử, bò, chúa, voi, bình lọc nước,
cái quạt, cái tù và, ngọn đèn và cờ hiệu) và giữa hai bức hình có
xen kẽ những dãy hình những con thú bằng những châu báu và ngọc trai;
và những dãy chuông bạc nhỏ được treo lủng lẳng quanh viền của chiếc
lọng. Cung điện, cái long, quạt, chiếc ngai, và giả ốc đều vô giá.
Những chiếc giường và ghế đắt giá,
theo đúng địa vị lớn nhỏ, và những tấm thảm và đồ trải được
vua cho trải quanh. Lu nước súc miệng và cái gáo cũng bằng vàng (đó là
cái lu nước để rửa chân tay và được đặt ở lối vào cung điện). Ðược
vây quanh bởi một hàng rào xinh đẹp, và có bốn cổng, lâu đài Paasaada lấp
lánh trong sự nguy nga tráng lệ như giảng đường ở cõi Ba-mươi-ba. Lâu
đài Paasaada được bọc ngoài những cái dĩa bằng đồng, và do đó nó có
tên là Thanh đồng điện.
Khi cung điện Lohapaasaada đã được làm
xong thì vua triệu tập chúng tăng lại, và chúng tăng đã cu hội như tại
buổi lễ hiến dâng tịnh xá Maricava.t.tivihaara. Những vị Tỳ khưu phàm tăng
thì đứng ở tầng dưới, những vị Tỳ khưu thông thuộc Tam tạng đứng
ở tầng thứ hai, còn những vị đã đi vào đạo giải thoát và những vị
khác thì đứng ở tầng thứ ba và và những tầng khác cao hơn tùy theo tầng
đạo mà các ngài đã chứng đắc, còn các vị la-hán đứng ở bốn tầng
cao nhất.
Khi vua Du.t.thagaamanii đã dâng hiến
cung điện Lohapaasaada đến chúng tăng, và đổ nước bố thí, như trước,
vị ấy truyền lịnh cúng dường vật thực dồi dào trong một tuần lễ.
Tiền của được vị vua hào phóng bỏ ra để xây dựng Thành đồng điện,
không kể nh?ng thứ vô giá khác, tính ra là ba mươi ko.ti đồng tiền vàng.
Bậc trí tuệ suy xét về sự bố thí
thật quí báu lạ lùng biết bao, trong khi đó làm công việc tích lũy của
cải cho chính mình quả thật tầm thường và vô ích, do đó hãy bố thí
thật dồi dào, với tâm không có những chướng ngại của tham ái, hãy
chuyên tâm vào lợi ích của chúng sanh.
Ở đây chấm dứt chương thứ hai
mươi bảy, được gọi là "Sự hiến dâng Thanh đồng điện" trong
bộ Mahaava.msa, được biên soạn vì niềm tín lạc và xúc động của những
thiện nhân.
-ooOoo-
CHƯƠNG XXVIII
SỰ CÓ ÐƯỢC VẬT
LIỆU XÂY DỰNG ÐẠI BẢO THÁP
Khi bỏ ra một trăm ngàn đồng tiền
vàng, đức vua ra lệnh tổ chức một buổi lễ cúng dường to lớn và rực
rỡ đến cây Ðại Bô-đề. Sau đó, khi vị ấy đang đi vào thành phố,
trông thấy một cột trụ đá đã được dựng lên ở chỗ của Bảo tháp
tương lai và nhớ đến lời tiên tri được để lại, vua lấy làm sung sướng,
khi nghĩ rằng: "ta sẽ xây dựng đại Bảo tháp". Vị ấy bước lên
sân thượng của hoàng cung, và khi đã ăn điểm tâm xong và đã nằm nghỉ,
vua suy nghĩ rằng: "nhân cuộc chinh phục những người Dami.la, những
người dân này sẽ bị vất vả vì ta quá nhiều. Do đó không thể cam
lòng mà thâu thuế; Tuy nhiên nếu ta có thuế để ta xây dựng Ðại Bảo
tháp, thì làm sao có thể có được gạch để làm cho nghiêm chỉnh được."
Khi vua đã suy xét như vậy thì các vị
chư thiên ở nơi cái lọng dò xét ý nghĩ của vua, và nhân đó sanh lên sự
xôn xao trong thiên chúng; Khi Sakka biết rõ điều này, vua trời bèn nói với
Vissakama rằng: "vua Gaama.ni đang nghiền ngẫm về những viên gạch để
xây dựng Ðại Bảo tháp: ngươi hãy đi ra khỏi thành phố một do tuần gần
con sông Gambhiira và hãy làm những viên gạch ở đó."
Sau khi Sakka đã truyền lịnh như vậy,
Vissakamma bèn đi đến đó và ngay tại chỗ đó bắt đầu làm những viên
gạch.
Vào buổi sáng có một người thợ
săn đi vào rừng với những con chó của ông ta; Một vị chư thiên ở chỗ
đó xuất hiện trước mặt người thợ săn trong hình tướng của con cự
đà. Người thợ săn đuổi theo nó, và khi ông ta đến chỗ ấy và trông
thấy những viên gạch, khi ấy con cự đà biến mất tại đó, ông ta nghĩ
rằng: "vua của chúng ta dự định xây dựng Ðại Bảo tháp; Ðây là
cái đóng góp vào đó!" Nhân đó người thợ săn đi tâu lại vấn đề
này với đức vua. Khi đức vua, là Người có sự thân thiết với lợi
ích của thần dân của mình, nghe những lời đem lại vui sướng của người
thợ săn, thì lấy làm mát dạ, và ban cho người thợ săn phần thưởng hậu
hỉ.
Ở về hướng đông bắc của thành
phố, xa ba do tuần, và gần ngôi làng Aacaaravi.t.thigaama, trên một vùng đất
bằng phẳng rộng mười sáu Kariisa (một kariisa bằng lối một mẫu) có xuất
hiện những khối vàng đủ cỡ; khối lớn cỡ bằng cái chảo, miếng nhỏ
nhất cỡ bằng lóng tay. Khi dân làng thấy đất toàn vàng, họ bỏ vào một
ít trong cái hũ vàng và đi tâu lại vấn đề này với đức vua.
Ở phía đông của thành phố, cách xa
bảy do tuần, nằm ở bên kia của con sông gần Tambapi.t.tha, có đồng xuất
hiện. Và dân làng ở đó bỏ những khối đồng vào trong một cái hũ, và
khi họ đã tìm đến đức vua, họ tâu lại vấn đề này. Ở hướng đông
nam cách thành phố bốn do tuần, gần ngôi làng Sumanavaapi, nhiều đá quí
xuất hiện. Dân làng bỏ chúng vào trong một cái hũ, có pha trộn ngọc
Sapphire và hồng ngọc, và đem đến cho vua xem.
Ở hướng nam cửa thành, cách xa tám
do tuần, bạc xuất hiện ở trong động Amba.t.thakola (nơi mà sau này có dựng
lên tịnh xá Rajatalena-vihaara, bây giờ là tịnh xá Ridi-Vihaara tức tịnh
xá bạc, ở về hướng bắc của Kurunagala, khoảng cách giữa Ridi-Vihaara
và Anuraadhapura là 35 dặm = 95 km bằng đường chim bay) một vị thương nhân
ở trong thành phố, khi đem theo nhiều cỗ xe để lấy gừng vân vân từ
Malaya, đã lên đường đi đến Malaya. Không cách xa hang động, ông ta cho dừng
xe lại và vì ông ta cần gỗ để làm những càng xe, ông ta bèn đi đến
ngọn núi ấy. Khi ông trông thấy một nhánh nhỏ của cây breadfruit, có độc
nhất một trái lớn bằng cái lu nước, và bị sức nặng của trái làm
nhánh kia oằn xuống, ông ta lấy dao cắt đi trái ấy, đang nằm trên một
cục đá to, và khi nghĩ rằng: "ta sẽ dâng vật thí đầu mùa", với
lòng tịnh tín ông ta công bố giờ ăn. Và bốn vị trưởng lão đã thoát
khỏi lậu hoặc đi đến đó. Khi ông ta vui sướng đảnh lễ các ngài, và
cung kính mời các ngài ngồi, vị trưởng giả lấy dao cắt đứt lớp vỏ
cứng, rồi móc ra phần đáy của trái, và trút nước nước từ trong cái
hốc của trái vào trong những cái bát của các ngài và dâng các ngài bốn
cái bát chứa nước trái cây. Các ngài thọ lãnh chúng rồi ra đi. Rồi
ông ta lại công bố giờ ăn. Bốn vị trưởng lão khác đã thoát khỏi lậu
hoặc, xuất hiện trước ông ta. Trưởng giả lãnh bát của các ngài và
khi đã bỏ đầy những múi của trái, ông ta trao bát lại cho các ngài. Ba
vị ra đi, nhưng một vị thì không đi. Ðể cho vị trưởng giả trông thấy
bạc, trưởng lão đi xuống tiếp và ngồi ở gần cái động và ăn những
múi của trái cây. Khi vị thương nhân cũng đã ăn xong, vì ông ta muốn chừa
lại một số múi, và để phần còn lại trong một gói, ông ta đi tiếp
theo lối đi của trưởng lão, và khi ông ta thấy trưởng lão, ông làm những
công việc phục vụ thường lệ. Trưởng lão mở con đường để ông ta
đi đến cửa hang: "bây giờ ông cứ tiếp tục đi theo con đường này,
này thiện nam!" Khi đã đảnh lễ trưởng lão, ông ta đi con đường
ấy và trông thấy cái hang. Khi đứng ở bên cửa hang và trông thấy bạc,
ông ta dùng cái rìu bổ vào nó và khi biết đó là bạc, ông ta lấy một cục
bạc và đi đến những cỗ xe chở hàng của mình. Rồi khi bỏ lại những
cỗ xe và đem đi những cục bạc, người thương nhân cao quí ấy đã đi
đến đức vua và tâu lại vấn đề này khi trình ra cục bạc cho vua xem.
Ở hướng tây của thành phố cách xa
năm do tuần, gần chỗ đi vào đất liền Uruvela, những viên ngọc trai có
cỡ giống như những trái Myrobalan lớn, trộn lẫn với san hô nhiều đến
sáu cỗ xe, bò lên trên đất khô. Những dân chài trông thấy chúng bèn chất
chúng thành một đống và khi mang theo những viên ngọc trai cùng với san
hô trong một cái hũ, họ đi đến đức vua và tâu lại chuyện này.
Ở hướng bắc của thành phố, cách
xa bảy do tuần trong một cửa hang động của hồ Pe.livaapigaama, trên cát,
bốn viên ngọc rực rỡ có cỡ giống như tảng đá xay nhỏ, có màu của
cây lanh (màu xanh), óng ánh xinh đẹp. Khi người thợ săn cùng với những
con chó của ông ta trông thấy những viên ngọc này, bèn đi đến đức vua
và tâu rằng: "thần đã trông thấy những viên đá như thế".
Vị chúa của quả đất có phước báu
dồi dào, trong cùng một ngày đã nghe rằng những viên gạch và những thứ
của cải khác đã xuất hiện làm vật liệu để xây dựng đại Bảo tháp,
vua ban phần thưởng đúng mức đến những người dân ấy, và khi sai họ
lập tức canh phòng chúng, vua sai người đem đến tất cả những vật báu
ấy.
Phước mà người đã tích lũy như vậy
với lòng tịnh tấn, không để ý đến những chứng bịnh khó chống đỡ
nơi thân, đem lại hàng trăm quả phước là chỗ hạnh phúc, do đó người
nên làm những việc phước với tâm tinh tấn.
Ở đây chấm dứt chương thứ hai
mươi tám, được gọi là "Sự có được những vật liệu để xây dựng
bảo tháp", trong bộ Mahaava.msa, được biên soạn vì niềm tín lạc và
xúc động của những thiện nhân.
-ooOoo-