- ÐẠI VƯƠNG THỐNG SỬ
- MAHÀVAMSA
[6]
CHƯƠNG XVIII
SỰ TIẾP NHẬN
CÂY ÐẠI BỒ ÐỀ
Vị hoàng đế nhớ đến lời nói của
trưởng lão là cần phải thỉnh về cây đại Bồ đề và vị trưởng lão
ni, và vào một ngày nọ trong mùa an cư, khi đang ngồi trong kinh đô ấy với
trưởng lão và đã bàn bạc với các quan của mình - vị ấy bèn sai người
cháu trai, là vị quan tên là Ari.t.tha, làm công việc này.
Khi suy xét về vấn đề ấy và đã
cho gọi đến vị quan kia, vua bèn nói với vị ấy những lời này:
"này khanh, khanh có thể nào đi đến Dhammaasoka để đem về cây Ðại
bồ đề và trưởng lão ni Sa.mghamittaa không?" "tâu bệ hạ thần
có thể đem về được, tâu bậc cao cả, nếu được cho phép, khi thần trở
về lại, xin cho phép thần được xuất gia!"
"trẫm chuẩn tấu", đức vua
trả lời và sai vị ấy ra đi từ đó. Khi Ari.t.tha đã nhận lịnh của đức
vua và trưởng lão và đã cáo từ, vị ấy lên đường vào ngày thứ hai của
tháng Assayuja (tháng chín âm lịch). Và sau khi đã xuống thuyền tại cảng
Jambuloka, đầy sốt sắng, và sau khi đã vượt qua đại dương, bằng nguyện
lực trưởng lão, Ari.t.tha đã đến ngay cùng ngày ra đi tại Pupphapura khả
ái.
Hoàng hậu Aanula, đã cùng với năm
trăm nữ tỳ của mình và năm trăm nữ nhân trong hoàng cung thọ thì thập
giới, trong khi có tâm tha thiết với đạo như vậy, đã mặc vào chiếc y
vàng, để chờ đợi xuất gia, và đang sống trong kỷ cương như vậy, chờ
đợi vị trưởng lão ni đi đến, đã đi vào chỗ ngụ của nàng, sống cuộc
đời phạm hạnh, Trong Ni-viện khả ái do đức vua dựng lên ở một khu vực
nọ của kinh đô. Bởi vì Ni viện có những cận sự nữ này trú ngụ nên
nó được biết đến trong khắp xứ Tích Lan qua cái tên là Upaasikaavihaara
(Ưu bà di tịnh xá)
- Khi người cháu trai Mahaari.t.tha đã
trao bức thông điệp của vua Devaana.mpiyatissa đến vua Dhammasoka, vị ấy
cũng truyền lại bức thông điệp của trưởng lão "vợ của người
em của bạn của bệ hạ, tức là vua Devaanampiya, "tâu bệ hạ, bậc
Naaga của những vị vua, nàng đã sống mong mỏi sự xuất gia, thường xuyên
khép mình trong kỷ cương. Ðể truyền phép xuất gia cho bà, xin bệ hạ
hãy gởi đến Tỳ khưu ni Sa.mghamittaa và thêm nhánh phía nam của cây Ðại
Bồ đề. Và vị Sa-di cũng truyền đạt lại vấn đề ấy với vị trưởng
lão ni; trưởng lão ni bèn đi đến phụ vương của nàng là Asoka, và tâu
lên vị ấy mục đích của trưởng lão.
Ðức vua nói rằng: "này con thân,
làm sao trẫm có thể kiềm chế được ưu bi sanh lên do sự chia cắt với
đứa con trai và đứa cháu ngoại trai, khi trẫm không còn trông thấy
con?"
Nàng trả lời rằng: "tâu đại
vương, lời nói của anh con có tánh chất quan trọng: có nhiều người cần
phải xuất gia, do đó con phải ra đi đến đó" không ai đuợc phép
làm tổn thương những cây Ðại bồ đề bằng đao kiếm, như vậy trẫm làm
sao có thể lấy được một nhánh cây!" đức vua trầm ngâm suy nghĩ. Rồi
khi làm theo lời trình tấu của vị quan Mahaadeva, và sau khi thỉnh hội
chúng Tỳ khưu và cúng dường các ngài chu đáo rồi, vị hoàng đé bèn hỏi
rằng: "bạch chư đại đức tăng, có nên gởi cây Ðại bồ đề đến
đảo Tích Lan không?
Trưởng lão Moggaliputta trả lời rằng:
"nên gởi đến đó", và trưởng lão kể lại với đức vua về
năm đại nguyện mà đức Phật, bậc ngũ nhãn, đã chúa nguyện.
Khi chúa của quả đất đã nghe được
điều này thì lấy làm vui sướng, và sai dọn sạch con đường dẫn đến
cây Ðại bồ đề, dài bảy do tuần và trang hoàng con đường ấy bằng muôn
vẻ. Vua sai đem vàng đi làm sẵn một cái hũ, Vissakamma, hóa làm một người
thợ kim hoàn, đi đến và hỏi rằng: "tôi tính sẽ làm cái hũ lớn cỡ
nào?" khi được trả lời rằng: "ngươi hãy làm cỡ lớn chừng
nào do ngươi quyết định, vị chư thiên bèn lấy vàng và sau khi nặn nó bằng
chính tay của mình, vị ấy đã làm cái hủ ngay lúc ấy và ra đi khỏi đó.
Khi đức vua đã nhận lấy cái hủ
xinh đẹp có kích thước chín hắc tay đường quanh và năm hắc tay bề sâu
và ba hắc tay đường ngang, dày tám ngón tay bề rộng, cái vành phía trên
có cỡ bằng cái vòi của con voi, sáng chói như mặt trăng mới mọc vào
lúc ban mai, rồi cùng với bốn loại binh (là bộ binh, kỵ binh, xa binh và tượng
binh) đi một đoàn dài bảy do tuần và rộng ba do tuần, và thêm một đại
chúng tỳ kheo tăng, vị ấy khi đã đi đến cây đại thọ bồ đề, đã
được trang hoàng nhiều vật trang sức, lấp lánh nhiều vật báu và được
kết hoa bằng những cờ phướng đủ màu sắc, hơn nữa, khi vị ấy đã
dàn những đội binh quanh cây đại thọ bồ đề, được rải nhiều loại
hoa và vang vọng nhiều loại âm thanh của các nhạc cụ và đã che quanh
cây bằng một tấm bạt, theo đúng nghi thức, đức vua truyền lịnh cho một
ngàn vị trưởng lão dẫn đầu dại chúng Tỳ kheo và hơn một ngàn vị
hoàng tử đã được phong vương, đứng vây quanh vị ấy và cây Ðại thọ
Bồ-đề, đức vua nhìn lên cây đại thọ Bồ đề với hai tay được chấp
lại.
Rồi từ cành cây phía nam, những
nhánh lớn nhỏ đều biến mất, chỉ còn lại một cái cuống của nhánh
cây dài bốn hắc tay.
Khi vị chúa của quả đất trông thấy
hiện tượng kỳ lạ, vị ấy vui mừng kêu lên rằng: "con xin cúng dường
cây Ðại thọ Bồ-đề bằng cách dâng hiến vương quyền đến cây,"
Và đức vua làm lễ tấn phong cây Ðại thọ Bồ đề lên làm vua của
toàn xứ sở của mình. Khi đức vua đã cúng dường cây Ðại thụ bằng
những bông hoa vân vân, và đã ba vòng quanh cây bồ đề bên phải của vị
ấy hướng về cây, và đã đảnh lễ cây ấy ở tám chỗ bằng hai tay chắp
lại, vua sai đặt cái hũ bằng vàng trên một cái ghế được cẩn vàng,
được trang sức bằng nhiều loại ngọc và dễ bước lên, cái ghế cao đến
nhánh cây ấy, và khi đức vua bước lên chiếc ghế để đón nhận nhánh
cây ấy, khi cầm lấy cây viết chì làm bằng chất tỳ sương có cái cáng
bằng vàng, đức vua vẽ một đường kẽ quanh nhánh cây và nguyện như
sau:
"Nếu quả thực cây Ðại thọ Bồ
đề sẽ đi từ đây đến đảo Tích Lan, và nếu quả thực tôi sẽ đứng
vững chắc không lay động trong giáo pháp của đức Phật, thì xin cho
nhánh phía nam xinh đẹp này của cây đại thọ bồ đề hãy tự mình đến
đây trong cái hũ bằng vàng này".
Khi ấy cây đại thọ Bồ đề tự nó
tách rời ở chỗ có đường kẻ, đứng lơ lửng trên cái hũ chứa đầy
đất thơm. Ở trên đường kẻ thứ nhất mà chúa của quả đất đã kẽ,
ở một khoảng cách bề rộng bằng ba của ngón tay, có thêm mười nét kẽ
của viết chì, và mười cái rễ lớn đầu tiên đâm ra, và trên mười
đường kẽ phụ ấy, mỗi đường kẽ có mười cái rễ nhỏ thòng xuống,
làm thành một mạng lưới.
Khi đức vua trông thấy điều kỳ diệu
này, ngay tại đó, vô cùng hoan hỉ, vị ấy cất lên tiếng kêu vui sướng
và những tùy tùng quanh đức vua cùng với hội chúng Tỳ kheo đầy hoan hỉ,
cũng cất lên những lời tán tụng, và những chiếc khăn ở khắp quanh
được tung vẫy cả ngàn lần.
Như vậy cây đại thọ bồ đề đã
tự cắm vào đất thơm với một trăm cái rễ, khiến cho mọi người đều
khởi dậy niềm tin. Thân của cây dài mười hai hắc tay trên thân có năm
nhánh xinh đẹp, mỗi nhánh dài bốn hắc tay và được trang điểm bởi
năm trái, và trên những nhánh này có một ngàn nhánh con. Cây Ðại thọ Bồ
đề có tánh chất khả ái hấp dẫn và kiết tường như vậy.
Ngay khi cây đại thọ Bồ đề đã tự
đặt mình vào trong cái hũ thì đại địa rung chuyển và nhiều hiện tượng
lạ xảy ra. Những nhạc cụ của chư thiên và nhân loại tự phát ra âm
thanh, những tiếng tung hô của những chư thiên và phạm thiên, và đám
mây bay vù vù, những tiếng kêu của các loại chim và muôn thú, và tiếng
của những dạ xoa vân vân, và những tiếng ầm ầm do quả đất rung chuyển,
tất cả tạo nên một âm thanh dậy trời. Những tia hào quang sáu màu phát
ra từ trái và những ngọn lá của cây Bồ đề, làm sáng rực toàn thể vũ
trụ. Rồi cây Bồ đề cùng với cái hũ bay vào không trung và ẩn mình
trong vùng tuyết lãnh bảy ngày.
Ðức vua đi xuống khỏi cái ghế, và
khi ở lại đó trong bảy ngày, vị ấy mang nhiều vật cúng dường đến cây
Bồ đề. Khi bảy ngày đã trôi qua, tất cả những đám mây tuyết và tất
cả những tia hào quang đều đi vào cây Ðại Bồ đề và trong không gian
quang đãng này, cây Ðại Bồ đề rực rỡ hiện ra trước mắt mọi người,
và cắm mình trong cái hũ bằng vàng. Trong khi nhiều hiện tượng kỳ lạ xảy
ra thì cây đại bồ đề, khi đưa nhân loại chìm trong sự ngạc nhiên, đã
đi xuống đất.
Vui mừng trước những hiện tượng kỳ
lạ này, vị Ðại vương lại tôn kính cây Bồ đề bằng cách dâng hiến
đến cây ấy đại vương quốc của mình, và vị hoàng đế đã làm lễ
phong vương cho cây đại bồ đề, cúng dường đến cây ấy bằng loại vật
cúng dường. Vua ở lại chỗ ấy thêm một tuần lễ nữa.
Trong nửa tháng thượng huyền thuộc
tháng Assayuja, vào ngày rằm bố-tát, đức vua đón nhận cây Ðại bồ đề;
Hai tuần sau đó trong thời gian của nửa tháng hạ huyền thuộc tháng
Assayuja, vào ngày thứ mười bốn bố-tát (tức ngày 29 hay 28 nếu tháng thiếu),
vị chúa của các xe, sau khi đặt cây ấy trong một cỗ xe xinh đẹp trong cùng
ngày ấy, giữa những lễ vật cúng dường, đã đem cây Bồ đề đến
kinh đô của mình, và khi đức vua đã dựng lên một ngôi nhà xinh đẹp,
được trang sức rực rỡ dành cho cây Bồ đề, và vào ngày mồng một của
tháng Kattika, sai đặt cây bồ đề ở phía đông của cây đại Saala xinh
đẹp, vị ấy truyền lịnh đem những lễ vật cúng dường đến hằng ngày.
Nhưng vào ngày thứ mười bảy sau khi nhận lãnh cây bồ đề thì những
chòi non tức thì xuất hiện trên cây; Vì thế, quá vui mừng, chúa của
loài người lại làm lễ phong vương cho cây Bồ đề, khi vị hoàng đế đã
làm lễ phong vương cho cây bồ đề, vị ấy truyền lịnh tổ chức lễ hội
cúng dường đến cây bồ đề bằng nhiều hình thức.
Bởi vậy có xảy ra rằng: lễ trang
hoàng cây đại bồ đề, rực rỡ với những cờ xí khả ái và tươi vui,
vĩ đại, huy hoàng rực rỡ, ở trong thành phố của những loại hoa, chư
thiên và nhân loại mở lòng đón nhận niềm tin y như những hoa sen trong hồ
nước mừng rỡ đón ánh nắng mặt trời.
Ở đây chấm dứt chương thứ mười
tám, được gọi là "Sự tiếp nhận cây đại bồ đề, trong bộ
Mahaava.msa, được biên soạn vì niềm tín lạc và xúc động của những
thiện nhân.
-oOo-
CHƯƠNG XIX
SỰ ÐI ÐẾN CỦA
CÂY BỒ ÐỀ
Khi vị chúa của các xe đã cắt cử
mười tám người trong hoàng tộc canh giữ canh bồ đề, thêm tám người
trong những gia đình của các quan, và thêm tám người nữa trong những gia
đình của các vị Bà la môn, tám người từ các gia đình của những thương
nhân và những người từ những người chăn thú, thừ bộ tộc Kinh câu
và bộ tộc chim Bồ-cắt, và cũng từ những người thợ dệt, thợ gốm và
những người thuộc tất cả các nghề, từ những vị rồng và những vị
Dạ-xoa và khi vị hoàng tử đáng kính nhất đã cho họ tám hũ vàng và
tám hũ bạc, và đã mang cây đại bồ đề đến chiếc thuyền trên sông hằng,
và luôn cả vị trưởng lão ni Sa.mghanittaa cùng với mười một vị Tỳ
khưu, và khi vị ấy đã khiến nhóm người có Ari.t.tha dẫn đầu xuống cùng
chiếc thuyền ấy, đức vua ra đi khỏi thành phố, và khi đi băng qua những
ngọn núi Vi~njhaa, chỉ trong vòng một tuần, đức vua đến tại Taamalittii.
Các vị chư thiên, các vị rồng và
nhận loại đang cúng dường cây đại bồ đề bằng những lễ vật quí
trọng nhất cũng đã đến chỏi trong một tuần. Vị chúa tể của quả đất,
sau khi đã truyền lịnh đặt cây đại bồ đề ở trên bờ của đại
dương, bèn cúng dường cây ấy thêm một lần nữa bằng cách ban đến đại
vương quyền.
Khi bậc làm thành tựu ước muốn đã
suy tôn cây đại bồ đề làm đại tế, sau đó, vào ngày mồng một của
tháng Maggasira (tháng mười một âm lịch), vị ấy truyền lịnh cho những
người quí tộc đã được chỉnh định ở cội cây đại Saala và đã đi
hộ tống cây ấy phải đưa cây đại bồ đề lên cao; và khi xuống nước
ở đó đến ngang cổ của vua, vị ấy sai đặt cây đại bồ đề xuống
thuyền hết sức cẩn thận và tôn kính. Khi đức vua đã tiễn đưa vị đại
trưởng lão ni và những vị trưởng lão ni khác đến thuyền, vua bèn nói
những lời này với quan đại thần Mahaari.t.tha: "Ba lần trẫm đã
cúng dường cây đại bồ đề bằng cách ban vương quyền đến cây ấy.
Do đó vị vua bạn của trẫm cũng nên cúng dường bằng cách dâng vương
quyền đến cây ấy!". Khi vị đại vương nói như vậy, vị ấy đứng
chấp tay ở trên bờ nhìn chăm chú theo cây bồ đề cho đến khuất dần vị
ấy đã tuôn lệ. "ôi, cây đại bồ đề, khi phát ra những tia hào
quang như vầng hào quang của mặt trời, là cây bồ đề của vị Phật có
thập lực đã ra đi khỏi đq6y rồi.
Ðầy sầu muộn trước cảnh chia ly với
cây đại bồ đề, Dhammaasoka vừa trở về kinh đô vừa khóc lóc ta thán.
Chiếc thuyền cung nghinh cây đại bồ
đề lướt sóng ra khơi. Những con sóng quanh chiếc thuyền xa một do tuần
tự nhiên phẳng lặng. Khắp quanh có những hoa sen năm màu đang nở rộ và
nhiều nhạc cụ trổi âm trong không trung.
Nhiều lễ vật cúng dường được
đem đến bởi các vị chư thiên, và những vị rồng thi thố thần thông của
chúng để dành lấy cây đại bồ đề. Ðại trưởng lão ni Sa.mghamittaa,
là người đã đạt đến chỗ rốt ráo của những phép thần thông, đã
hóa làm đại kim sứ điểu để đe dọa những con đại long, đầy kinh hãi,
những con đại long nép mình dưới chân của trưởng lão ni để cầu xin
tha mạng, và khi chúng đã cung rước cây đại bồ đề từ đó đến cõi
long vương và đã cúng dường cây đại bồ đề trong một tuần bằng cách
dâng hiến vương quyền của các vị long vương đến cây đại thọ và bằng
nhiều vật cúng dường và chúng đưa cây đại bồ đề trở lại chiếc
thuyền và trong ngày ấy, cây đại bồ đề đến nơi ấy tại jambuloka.
Vua Devaanampiya, người biết quan tâm
đến lợi lộc của thế gian, sau khi đã nghe vị Sa-di Sumana báo trước thời
gian đến của cây đại bồ đề, nên từ ngày mồng một của tháng
Maggasira trở đi, luôn luôn có lòng sốt sắng, vua sai sửa soạn sẵn sàng
con đường từ cổng bắc đến Jambuloka, để chờ đón cây đại bồ đề
đi đến và khi trú ở trên bờ biển, tại chỗ mà sau này có tên gọi là
Samu.d.dapa.n.na- saala (hải điện), bằng năng lực thần thông của trưởng
lão ni, đức vua trông thấy được cây đại bồ đề đang đi đến.
Bảo điện được dựng lên ở chỗ
ấy để làm nổi danh phép lạ này. Ðược mọi người trên đảo biết đến
qua cái tên là Samu.d.dapa.n.nasaala.
Bằng năng lực thần thông của đại
trưởng lão và cùng với những vị trưởng lão khác, đức vua với tùy
tùng của mình đã đến tại Jambuloka trong cùng một ngày.
Rồi với hỉ cảm trổi dậy khi
trông thấy cây đại bồ đề đi đến, khi cất lên tiếng reo vui sướng,
vị vua uy nghi rực rỡ đã đi xuống nước đến ngang cổ, và khi cùng với
mười sáu người của các gia đình quí tộc sau khi đã đỗ lấy cây đại
bồ đề trên đầu của mình, và đã để cây ấy xuống trên bờ, và truyền
lịnh đặt cây ấy trong một cái giả ốc xinh đẹp, vị vua của nước Tích
Lan đã cúng dường cây ấy bằng cách dâng hiến vương quyền trên toàn đảo
Tích Lan. Khi đức vua đã giao quyền cai trị của mình cho mười sáu người
kia và chính đức vua mang vào chính phận sự của người giữ cửa, vị chúa
của loài người đã truyền lịnh tổ chức những buổi lễ long trọng gồm
nhiều loại trong ba ngày.
Vào ngày thứ mười, đức vua đặt cây
đại bồ đề trên một cỗ xe xinh đẹp, và khi đi theo cây này, là chúa của
các cây, vị vua có trí tuệ, biết rõ những chỗ nào là thích hợp, đã
truyền lịnh đặt cây ấy ở chỗ mà sau này có tịnh xá đông phương và
cũng truyền lịnh tổ chức một buổi tiệc khao đãi dân chúng và cúng dường
chư tăng. Tại đây, đại trưởng lão đã kể lại đầy đủ cho đức vua
nghe sự nhiếp phục các vị rồng mà đức Phật, bậc có thập lực, đã
gặt hái được.
Khi vị hoàng đế nghe câu chuyện này
từ trưởng lão, vị ấy truyền lịnh dựng lên những đài kỷ niệm ở
chỗ này chỗ kia trên những chỗ mà bậc đạo sư thường đi đến hay ngồi
nhập định vân vân. Hơn nữa, khi đã truyền lịnh đặt cây đại bồ đề
ở lối vào ngôi làng của vị bà la môn Tivakka và tại những chỗ khác nữa,
vua lại hộ tống cây đại bồ đề đưa đi trên con đường đã được rải
cát trắng và nhiều loại hoa, và được trang hoàng bằng nhiều loại cờ
đã được cắm xuống và những đường dây hoa đã được giăng tấp nập
khi đem đến đó những vật cúng dường cả ngày lẫn đêm, vào ngày thứ
mười bốn, đưa cây đại bồ đề đến vùng lân cận của thành phố
Anuraadhapura; Và vào lúc những bóng mát trải dài, sau khi vị ấy đi vào
thành phố đã được trang hoàng xứng đáng qua cổng bắc giữa các lễ vật,
rồi sau đó vua lại rời khỏi thành phố qua cổng phía nam và đi vào
Mahaameghavanaaraama, là nơi đã được bốn vị Phật thánh hóa, và tại đây
cây được đưa đến chỗ đã được sửa soạn xứng đáng theo yêu cầu
của Sa-di Sumana, đến chỗ khả ái nơi mà những cây bồ đề quá khứ đã
đứng, rồi cùng với mười sáu người quí tộc mang những vật trang sức
theo kiểu cách của vương giả, đức vua bưng xuống cây đại bồ đề, Và
nới tay để đặt cây ấy xuống.
Ngay khi đức vua rời tay thì cây đại
bồ đề liền bay vào không trung cao tám mươi hắc tay, khi đứng lơ lửng
nơi không trung, đã phát ra những tia hào quang sáu màu rực rỡ, bao trùm khắp
hải đảo và thấu đến cõi phạm thiên, những tia hào quang khả ái này
kéo dài đến khi mặt trời lặn. Mười ngàn người đầy tịnh tín trước
hiện tượng mầu nhiệm này, nhờ đạt được tuệ quán và chứng đắc
đạo quả A-la-hán, họ đều thọ phép xuất gia ở đây.
Vào lúc mặt trời lặn, cây đại bồ
đề xuống khỏi không trung và đứng chắc trên đất, khi ấy nhằm thời
kỳ của chòm sao Pohi.nì. Rồi đại địa rung chuyển. Những rễ cây trồi
lên tràn ra khỏi miệng hũ và đâm xuống đất, che kín cái hũ. Khi đại
thọ Bồ đề đã đứng sừng sửng như vậy, thì tất cả mọi người đã
đến từ khắp đảo, bèn làm lễ cúng dường bằng những hương liệu, những
loại hoa vân vân. Một đám mưa nặng hạt rơi xu?ng và những đám sương dày
đặc và mát mẽ từ vùng tuyết lãnh phủ quanh khắp cây đại Bồ đề.
Trong bảy ngày cây đại bồ đề đã ẩn mình trong vùng tuyết, làm khởi
dậy niềm tin trong mọi người. Vào cuối của bảy ngày, tất cả những
đám mây biến mất và đại thọ Bồ đề hiện ra với những tia hào quang
sáu màu rực rỡ.
Ðại trưởng lão Mahinda và Tỳ khưu
Sa.mghamittaa đã đi đến đó với tùy tùng của họ và đức vua cũng đi đến
đó với tùy tùng của vị ấy. Những người quí tộc của xứ Kaajaragaama
và những người quí tộc của xứ Candanagaama và bà la môn tivakka và dân
chúng trên hải đảo cũng đi đến đó bằng thần lực của các vị chư
thiên. Ðang sôi nổi hướng tâm đến ngày hội cây Ðại Bồ-đề, giữa
đại chúng này đang chìm trong sự kinh ngạc của điều màu nhiệm này, khi
họ đang nhìn chăm chú, từ nhánh cây phía đông mọc ra một quả không tỳ
vết.
Khi trái này đã rụng xuống, trưởng
lão nhặt nó lên và trao cho đức vua để đem gieo trồng trong một cái chậu
bằng vàng có pha trộn với hương liệu, được đặt ở chỗ mà sau này
có Mahaaaasana (đại tọa sở), nhà cai trị đã gieo nó xuống. Và trong khi mọi
người vẫn còn đang chăm chú nhìn, tại đó, từ hạt bồ đề ấy, mọc
lên tám chồi non, Và những cây bồ đề con đứng ở đó cao bốn hắc
tay.
Trong tám cây bồ đề con này, một
cây được trồng ở Jambuloka tại chỗ mà cây đại bồ đề đứng, sau
khi bỏ lại chiếc thuyền, một cây ở ngôi làng của Bà-la-môn Tivakka, rồi
một cây khác ở tháp viên (thuupaanaama), một cây ở Issarama.naaraama, một
cây ở trong sân của đệ nhất bảo tháp (pathamacotiya), một cây ở lâm
viên của cetiya, một cây ở Kaajaragaama và một cây ở Candanaagaama. Nhưng
ba mươi hai cây con khác mọc lên từ tám hạt của bốn cây trước được
trồng thành một vòng tròn rộng một do tuần, rải rác ở chỗ này chỗ
kia trong các tịnh xá.
Như vậy, vì sự giáo hóa cho dân
chúng trên hải đảo bằng oai lực của đức Chánh biến tri, vua của các
cây, tức đại thọ bồ đề đã được trồng xuống, Anulaa cùng với tùy
tùng của nàng, sau khi thọ phép xuất gia từ Sa.mghamittaa, tất cả đều chứng
đắc đạo quả A-la-hán. Hoàng tử Ari.t.tha cũng vậy, cùng với đám tùy
tùng gồm năm trăm người sau khi thọ phép xuất gia từ trưởng lão, cũng
chứng đắc đạo quả A-la-hán. Tám người từ những đoàn thương nhân,
là những người đã mang cây đại Bồ đề đến đây, từ đó được gọi
là "đoàn thương buôn mang cây bồ đề".
Tại ni viện Upaasikaavihaara, đại trưởng
lão Sa.mghamittaa đã trú ngụ cùng với hội chúng tỳ kheo của bà. Bà đã
sai dựng lên mười hai tòa nhà ở đó, và ba tòa nhà quan trọng trong đó
được dựng lên trước. Ở một trong những đại lâu đài này, bà cho dựng
lên cái cột buồm của chiếc thuyền đã đến chung với cây đại thọ Bồ
đề, cái bánh lái ở lâu đài khác, những lâu đài được đặt tên theo
những vật này. Cũng vậy khi những phái khác sanh lên (chẳng hạn như phái
Dhammarucika) thì những lâu đài này luôn luôn được xử dụng bởi nhóm Tỳ
khưu ni thuộc phái Hatthaa.lhaka.
Con voi của vua cỡi mà thường hay đi
đây đó theo ý thích, nó thích ở trong một cái hang mát mẽ ở một bên của
thành phố, ở bìa của rừng hoa Kadamba, khi nào nó đi ăn cỏ. Bởi vì người
ta biết rằng con voi thích chỗ này, nên người ta dựng lên một cái cột
ở chính chỗ ấy. Một hôm con voi không chịu ăn cỏ khô mà người ta cho
đến và đức vua hỏi vị trưởng lão đã giáo hóa cho đảo Tích Lan về
lý do của nó. "Con voi muốn người ta dựng lên một bảo tháp ở rừng
hoa Kamdamba", trưởng lão tâu với vua. Ngay tức thì đức vua, là người
hằng chuyên tâm đến lợi ích của thần dân, dựng lên một bảo tháp,
có Xá-lợi, trong chính chỗ ấy và một ngôi nhà của bảo tháp.
Ðại trưởng lão ni Sa.mghamittaa, là
người mong có một chỗ ở thanh tịnh, vì tịnh xá mà bà ở quá đông người,
lại có tâm mong mỏi cho giáo pháp được phát triển và lợi ích cho các vị
Tỳ khưu ni, người có trí tuệ ấy muốn một chỗ ngụ khác dành cho các
vị Tỳ khưu đã đi ngay đến ngôi nhà xinh đẹp của bảo tháp, khả ái
nhờ tánh chất biệt lập của nó, và ở đó, bà, người rành mạch trong
việc chọn đúng những chỗ ngụ, người trong sạch, đã trú ngụ suốt
ngày.
Khi đức vua đi đến ni viện để đảnh
lễ vị trưởng lão ni, vị ấy, khi nghe rằng bà đã đi đến đó, nên vua
cũng đi đến đó, và khi đã đảnh lễ vị trưởng lão ni ở đó và đã
nói chuyện với bà và đã nghe ước muốn khiến bà đi đến đó, rồi đức
vua, người rành mạch trong việc biết được ước muốn của những người
khác, bậc trí tuệ, tức hoàng đế Devaana.mpiyatissa, bèn truyền lịnh sai dựng
lên một ni viện khả ái dành cho những Tỳ khưu ni ở quanh ngôi nhà của
bảo tháp. Vì ni viện được dựng lên ở gần cái cột trụ của con voi,
nên nó được biết đến qua cái tên là Hatthaa.lhaka-vihaara.
Vị trưởng lão ni Sa.mghamitta đáng mến,
có trí tuệ cao cả, bấy giờ trú ngụ trong tịnh xá ni viện dành cho các
vị Tỳ khưu ni.
Bằng cách như vậy khiến đem lại lợi
ích cho những người trú ngụ trên đảo Tích Lan, và sự phát triển của
giáo pháp, chúa của các cây, Tức Ðại thọ bồ đề, đã tồn tại lâu
dài trên đảo Tích Lan, trong khu rừng khả ái Mahaameghavana, là cây có nhiều
năng lực thần thông.
Ở đây chấm dứt chương thứ mười
chín, được gọi là "sự đi đến của cây bồ-đề, trong bộ
Mahaava.msa, được biên soạn vì niềm tín lạc và xúc động của những
thiện nhân.
-ooOoo-
CHƯƠNG XX
TRƯỞNG LÃO
VIÊN TỊCH
Vào năm thứ mười tám dưới triều
đại của vua Dhammasoka, cây đại Bồ đề được trồng ở trong khu lâm
viên Mahaameghavanaaraama.
Vào năm thứ mười hai sau đó bà
hoàng hậu ái mến của vua, là Asamdhimittaa, là người hết lòng tin tưởng
vào đức Chánh giác tôn, đã chết.
Sau đó vào năm thứ mười bốn, vị
chúa trị vì quả đất Dhammaasoka tấn phong hoàng hậu cho người con gái xảo
trá tên là Tissarakkhaa.
Ba năm sau đó, con người ngu si này,
kiêu căng ngạo mạn với sắc đẹp mà mình có được, khởi lên ý nghĩ rằng
"thật không sai, đức vua đã trải hết mình để cúng dường cây Ðại
thọ bồ-đề!" nàng nổi cơn tam bành lục tặc và muốn chuốc khổ
vào thân, đã sai người tiêu diệt cây đại bồ đề bằng loại gai của
cây Ma.n.du. Bốn năm sau, vị hoàng đế có danh tiếng lẫy lừng,
Dhammaasoka, bị thần chết bắt đi. Mọi chuyện như thế diễn ra trong ba
mươi bảy năm.
Còn vua Devaana.mpiya, là người có tâm
hoan hỉ với Chánh pháp, sau khi đã hoàn tất mỹ mãn những công trình xây
dựng ở tịnh xá Mahaavihaara trên núi Cetiya, và ở Tháp viên (Thuupaaraama),
vua đi đến trưởng lão là người đứng ra giáo hóa cho toàn đảo cũng là
người có khả năng trả lời chính xác mọi câu hỏi, rồi vua hỏi trưởng
lão như sau: "bạch ngài, trẫm muốn dựng lên nhiều tịnh xá ở đây;
"nhưng trẫm có thể kiếm ở đâu ra những viên Xá lợi để tôn trí
vào các bảo tháp?"
"Tâu bệ hạ, có nhiều Xá-lợi
được sa-di Sumana bỏ đầy một bát của đức Chánh giác tôn và đem đến
đây rồi ở trên núi Cetiya và trong Tháp viên cũng có. Bệ hạ hãy truyền
lịnh cho đặt những Xá-lợi ấy trên lưng của con voi và đem đến đây."
Sau khi nghe trưởng lão nói như thế, đức vua liền đem những Xá-lợi ấy
đến đây. Rồi khi dựng lên những tịnh xá cách nhau một do tuần, đức
vua sai đặt Xá lợi vào các bảo tháp, theo đúng thứ tự. Còn cái bát
thì đức vua giữ lại trong cung điện xinh đẹp của mình và thường xuyên
dâng lễ vật cúng dường một cách long trọng.
Tịnh xá được dựng lên ở chỗ năm
trăm người quí tộc đã xuất gia từ trưởng lão, mang tên là
Issarasama.naka. Tịnh xá có năm người Vessa (giai cấp nông dân) trú ngụ đã
xuất gia theo trưởng lão, cũng có tên là Vessagiri (Vệ xá sơn). Còn hang động
của trưởng lão Mahinda, ở trong tịnh xá trên núi, tên là "Mahinda
grotto" (động Mahinda).
Tịnh xá thứ nhất là Mahaavihaara, rồi
đến tịnh xá Cetiyavihaara, thứ ba là Tháp viên xinh đẹp, ở trước có bảo
tháp, thứ tư là việc trồng cây Ðại Bồ-đề, thứ năm là sự xây dựng
cái cột trụ bằng đá xinh đẹp, để cho biết chỗ xây dựng bảo tháp,
và cái Xương đòn của đức Chánh giáo tôn cũng được tôn trí trong tháp
ấy, thứ sáu là tịnh xá Issarasama.na, thứ bảy là hồ nước Tissa, thứ tám
là đệ nhất bảo tháp Pathamathuupa, thứ chín là tịnh xá Vessagiri, rồi đến
Ni viện khả ái Upaasikaavihaara và tịnh xá Hatthaa.lhaka hai ni viện ấy là nơi
ở lý tưởng dành cho các Tỳ khưu ni, Lại nữa, để các vị tỳ ni khưu
đến thăm tịnh xá Hatthaa.lhaka, của các vị Tỳ khưu, có thể nhận lãnh
vật thực, lại có thêm nhà trù Mahaapaali, để đến xinh đẹp, có đủ tất
cả các lọai vật thực dự trữ và luôn cả người phục vụ; rồi đến
những vật thí dồi dào, gồm những vật dụng cần thiết có thể cấp
cho một vị Tỳ khưu, đó là những vật dụng mà đức vua đã cúng dường
trong ngày tự tứ (Paavaara.naa) hằng năm. Tịnh xá Jambuloka -vihaara ở tại
Naagadiipa, tịnh xá Tissamahaavihaara (ở miền nam của nước Tích Lan) và tịnh
xá Paaciinaaraama (tức là đông phương tịnh xá ở Anuraadhapura): đây là những
công trình do vua Devaana.mpiya sai dựng lên, là người hằng quan tâm đến sự
tiến hóa của mọi người trên đảo Tích Lan, có nhiều công đức và trí
tuệ, là người bạn thân thiết với giới đức, suốt đời chuyên tâm
làm những việc phước. Dưới triều đại của vị vua này, kéo dài bốn
chục năm, đảo của chúng ta được thịnh vượng phát đạt.
Sau khi đức vua thăng hà, vì không có
con trai nối ngôi, nên người em trai là hoàng tử Uttiya lên nắm quyền cai
trị một cách sốt sắng và đầy thiện ý. Còn đại trưởng lão Mahinda
là người đã giảng dạy giáo pháp vô song của Bậc đạo sư, những lời
dạy của đức Phật, những điều luật và Tứ thanh tịnh giới và những
pháp siêu thế, rất cao quí cho đảo Tích Lan, là ánh sáng của đảo Tích
Lan, một vị thầy của nhiều đệ tử, cũng như bậc Ðạo sư, trưởng lão
đã đem lại phúc lạc to lớn cho mọi người, vào năm thứ tám dưới triều
đại của vua Uttiya, trong khi ngài đang an cư ở núi Cetiya, lúc ấy ngài thọ
sáu mươi mốt tuổi, bậc chiến thắng các căn (giác quan) của mình, đã
nhập Niết bàn vào ngày mồng tám của tháng Assayuja. Do đó cứ mỗi năm
đến ngày này người ta gọi là ngày Mahinda.
Khi vua Uttiya nghe tin này, đầy sầu muộn,
vị ấy liền đi đến đó, và sau khi sụp mình đảnh lễ, mãi khóc lóc ta
thán thảm thiết, vua liền sai đặt nhục thân của trưởng lão vào trong
chiếc kim quang (cái hòm bằng vàng) đã được rưới lên bằng dầu thơm,
và chiếc kim quang được niêm cài khéo léo ấy được đặt trên một cái
bệ bằng vàng, với nhiều vật trang hoàng thẩm mỹ; Rồi sau đó vua truyền
lịnh dở chiếc quan tài lên khỏi cái bệ, và sai cử hành những buổi lễ
long trọng, sau đó truyền lịnh cho đám đại chúng nhân dân từ khắp nơi
hội họp về và những đoàn quân đã được tuyển chọn, với những lễ
vật cúng dường xứng đáng, cùng nhau hộ tống kim quan của trưởng lão
đi vào con đường dẫn đến kinh đô đã được trang hoàng rực rỡ, rồi
đi nhiễu hành khắp thành phố bằng con đường lớn của vua đến tịnh xá
Mahaavihaara.
Khi vị hoàng đế đã sai đặt cái bệ
bằng vàng ấy trong một tuần lễ tại Pa~nhambamaalaka, là tịnh xá đã được
trang hoàng với những cái cổng vòm khải hoàn, cờ xí, những loại hoa, những
cái bình đựng nước thơm và một vòng tròn chu vi ba do tuần, theo sắc lệnh
của vua, toàn thể hải đảo cũng được trang hoàng giống như thế theo lịnh
của chư thiên và khi vị hoàng đế đã sai đem lễ vật cúng dường trong
suốt một tuần lễ, tại tịnh xá Theraana.mbandhamaalaka, ở về hướng đông,
đức vua dựng lên một hỏa đài bằng gỗ thơm, để lại một chỗ đất
để sau này dựng lên Ðại bảo tháp ở bên phải, và khi cái bệ vàng
xinh đẹp được mang đến đó và đặt ở trên hỏa đài, đức vua tổ chức
những buổi lễ cúng dường đến người quá vãng.
Sau khi gom lại Xá-lợi của trưởng lão,
đức vua dựng lên ở đây một bảo tháp. Một nửa số Xá-lợi vua cho
tôn trí vào các bảo tháp ở trên núi cetiya và trong tất cả những tịnh
xá khác. Ðể tỏ sự tôn kính đến vị đại trưởng lão, người ta gọi
chỗ trà tỳ của ngài là Isibhuuma.nga.na (cái sân của vị Sa-môn, Sa-môn đình).
Từ dạo đó trở đi người ta thường
đem những thi thể của các vị Sa-môn ở những nơi trong vòng ba do tuần
đến chỗ này để hỏa thiêu.
Khi vị đại trưởng lão ni
Sa.mghamittaa có đại thần thông lực và đại trí tuệ đã làm những phận
sự trong giáo pháp và đã đem lại nhiều phúc lạc đến cho dân chúng,
vào năm thứ chín dưới triều đại của vua Uttiya này, trong khi đang trú
ngụ trong ni viện Hatthaa.lhaka khả ái, bà viên tịch, thọ năm mươi chín
tuổi. Ðối với bà cũng vậy, cũng như đối với vị đại trưởng lão,
đức vua truyền lịnh cho mọi người làm lễ cúng dường hết mức đến
những gì liên quan đến người quá vãng, và toàn đảo Tích Lan được
trang hoàng rực rỡ như đối với vị Ðại trưởng lão.
Khi một tuần lễ đã trôi qua, đức
vua sai cung rước nhục thân của vị trưởng lão ni đang nằm trên cái giá
bằng vàng, ra khỏi thành phố; Và ở về hướng đông của Tháp viên, gần
Cittasaalaa sau này ở trong khung cảnh của cây Ðại Bồ-đề, tại chỗ do
chính vị trưởng lão ni chỉ ra, đức vua sai làm lễ hỏa thiêu. Và vị
vua có trí tuệ bậc nhất Uttiya cũng sai dựng lên một bảo tháp ở đó.
Năm vị đại trưởng lão đã đi
chung với trưởng lão Mahinda, và những vị trưởng lão do Ari.t.tha dẫn đầu,
và nhiều ngàn vị Tỳ khưu đã đoạn trừ các lậu hoặc, mười hai vị
trưởng lão ni do Sa.mghamittaa dẫn đầu, và nhiều ngàn vị Tỳ khưu ni đã
thoát khỏi các lậu hoặc, là những bậc đa văn và có tuệ quán sâu sắc,
đã xiển dương Thánh pháp của Bậc Chiến thắng, cùng luật tạng vân
vân, tất cả những vị ấy đến lúc cũng đi vào quyền lực của tử thần.
Vua Uttiya trị vì được mười năm;
Như vậy tử thần là kẻ tiêu diệt toàn thể thế gian không chừa một
ai.
Một người, dầu biết được tử thần
thống trị tất cả, rất vĩ đại, không thể chống cự được, vẫn không
thỏa mãn với thế gian đầy ngũ dục, không cảm thấy vừa lòng với điều
sái quấy cũng không hài lòng với hỉ lạc của giới đức - đó chính là
những sợi dây trói buộc ở trong bản tánh ngu si mê muội của người ấy!
Ðó quả thật là một con người si mê trầm trọng.
Ở đây chấm dứt chương thứ hai
mươi, được gọi là "Trưởng lão nhập Niết bàn", trong bộ
Mahaava.msa, được biên soạn vì niềm tín lạc và xúc động của những
thiện nhân.
-ooOoo-
CHƯƠNG XXI
NĂM VỊ VUA
Sau khi Uttiya thăng hà, người em trai tên
là Mahaasiva, lên kế ngôi, cũng là người bảo vệ sốt sắng các thiện
nhân. Vì có lòng tịnh tín với trưởng lão Bhaddasaalaa, vị vua này đã dựng
lên một tịnh xá cao quí, tên là Nagara"nga.na, ở khu vực phía đông của
thành phố.
Sau khi Mahaasiva thăng hà, người em
trai tên là Suuratissa, lên kế ngôi, là người có tâm sốt sắng với các
thiện sự. Vị vua này cũng xây dựng tịnh xá Nagara"nga ở vùng phía
nam của thành phố, ở khu vực phía đông, xây dựng tịnh xá Hatthikkhandha
và tịnh xá Go.n.nagirikavihaara; xây dựng tịnh xá Paacìịapabbata ở trên
núi Va"nguttara và tịnh xá Kolambahaalaka ở gần Raheraka. Xây dựng tịnh
xá Makulaka ở dưới chân núi Ari.t.tha, ở về hướng đông (của thành phố
Anuraadhapura gần Dahegallaka) xây nên tịnh xá Acchagallakavihaara, còn ở về hướng
bắc của Ka.n.danagara thì vị ấy xây dựng tịnh xá Girinelavaahanakavihaara;
Những tịnh xá này và những tịnh xá khả ái khác được chúa của quả
đất dựng lên ở bên này và bên kia của con sông (Mahaanaeliga"ngaa) rải
rác khắp nơi trên đảo Tích Lan, trước khi và trong khi đang trị vì, trải
qua thời gian sáu chục năm, vị hoàng đế công minh và mộ đạo này hằng
có lòng tịnh tín với ba ngôi Tam bảo. Trước khi trị vì, đức vua có
tên là Suva.n.napi.n.datissa, sau khi bắt đầu lên ngôi vua, vị ấy mới lấy
tên là Suuratissa.
Hai người thuộc bộ tộc Dami.la là
Sena và Guttaka là những người con trai của một người chở hàng đã từng
đem ngựa đến đây, họ đã đánh bại vua Suuratissa, dẫn đầu đoàn đại
hùng binh và cả hai cùng nhau cai trị một cách công minh trong hai mươi năm.
Nhưng khi Asela, là con trai của Mu.tasiva, là người em út trong chín người
anh em, sanh ra cùng một mẹ (tám người anh là Abhaya, Devaana.mpiya, Uttiya,
Mahaasiva, Mahaasiva, Mahaanaaga, Mattaabhaya, Suuratissa và Kiira), sau khi đã đánh
bại hai vị vua kia, vị ấy ngôi trị vì từ đó trở đi trong mười năm tại
Anuraadhapura.
Một người con cháu quí tộc của giống
người Dami.la, là người đã đến đây từ nước Co.la (miền nam ấn Ðộ)
để chiếm lấy vương quốc, khi đã đánh bại vua Asela, vị ấy lên ngôi
trị vì trong bốn chục năm, có sự công bình ngang bằng đối với bạn
cũng như đối với người thù, trong những trường hợp kiện tụng liên
quan đến luật.
Ở đầu giường của mình, vua sai
treo một cái chuông bằng một sợi dây dài để những ai muốn đến nhờ
xử kiện có thể rung nó. Ðức vua chỉ có một đứa con trai và một đứa
con gái. Có một lần nọ đứa con trai của nhà cai trị khi đang đi bằng
xe đến hồ nước Tissa, như một trò chơi man rợ, hắn giết con bê còn nhỏ
đang nằm trên đường với con bò mẹ bằng cách cho bánh xe cán lên trên cổ
của con bê. Con bò mẹ đi đến và kéo chuông với tâm trạng ê chề thất
vọng; Ðức vua truyền lịnh cán đứt đầu vị hoàng tử độc ác kia bằng
chính bánh xe ấy.
Một con rắn đã ăn thịt một con
chim ở trên một cây thốt nốt. Con chim cái, là mẹ của con chim con kia,
đi đến và rung chuông. Ðức vua truyền lịnh bắt về con rắn ấy, và khi
sai người mổ bụng con rắn, lấy ra con chim con, vua truyền lịnh treo con
chim chết ấy ở trên cây.
Khi đức vua, là người bảo vệ truyền
thống, dầu vị ấy không biết những ân đức vô song của Tam bảo, một
lần nọ, khi đang đi đến núi Cetiya, bằng chiếc long xa để thỉnh chúng
Tỳ kheo về nhà trai tăng, bằng đầu nhọn của cái ách, vị ấy đã làm
hư hại một chỗ nọ nơi bảo tháp của bậc chiến thắng. Các quan nói với
vua rằng: "tâu bệ hạ, bệ hạ đã làm hư bảo tháp rồi." Mặc dầu
điều được gây ra một cách vô ý, thế mà đức vua chịu nhảy xuống khỏi
xe và vật mình xuống đường rồi nói những lời này: "Hãy cắt đầu
của ta cho lìa khỏi thân bằng bánh xe." Các quan trả lời rằng:
"Bậc đạo sư không cho phép giết hại một chúng sanh khác; Hãy sám hối
các vị Tỳ khưu bằng cách trùng tu lại bảo tháp"; Và để thế vào
mươi lăm tảng đá đã bị vỡ bể, vua sai chi ra đúng mười lăm ngàn
Kahaapana (đồng tiền vàng)
Một bà lão phơi lúa. Trời đổ xuống
cơn mưa sái mùa làm cho lúa của bà ta bị ẩm ướt. Bà lão mang lúa đi và
đến rung chuông. Khi đức vua nghe nói về cơn mưa sái mùa, bèn cho bà lão
ra về, và để xử vụ kiện, vua bèn thực hành pháp nhịn đói, vì nghĩ rằng:
"một vị vua mà thọ trì công lý chắc chắn sẽ làm cho mưa rơi xuống
đúng mùa." Vị thần bảo hộ mà đã từng nhận lễ vật cúng dường
từ vua, bị thiêu đốt do pháp khổ nhục của đức vua, bèn đi tâu lại vấn
đề này với Tứ đại thiên vương. Bốn vị thiên vương dẫn vị ấy đi
và tâu lại với Sakka. Sakka truyền lịnh triệu Pajjunna đến và giao cho vị
chư thiên này làm phận sự đổ mưa đúng mùa. Vị thần bảo vệ trở về
mách lại với đức vua. Từ đó trở đi trời không còn đổ mưa thất
thường xuống vương quốc của vị ấy nữa. Trời chỉ đổ mưa mỗi tuần
một lần vào lúc ban đêm mà thôi, vào lúc canh giữa; Và khắp nơi ngay cả
những cái hồ chứa nước ngầm cũng có đầy nước.
Chỉ vì không dính tội đi theo con
đường ác, nên dầu chưa bỏ những tà kiến, vị vua này vẫn có được
những năng lực kỳ diệu như thế; Như vậy một người có chánh kiến,
được an trú trong niềm tin thanh tịnh, từ bỏ lối sống ác ở đời này,
làm sao mà không có được năng lực kỳ diệu như thế.
Ở đây chấm dứt chương thứ hai
mươi mốt, được gọi là "năm vị vua", trong bộ Mahaava.msa, được
biên soạn vì niềm tín lạc và xúc động của những thiện nhân.
-ooOoo-