- ÐẠI VƯƠNG THỐNG SỬ
- MAHÀVAMSA
[5]
CHƯƠNG XV
SỰ TIẾP NHẬN
TỊNH XÁ MAHÀVIHÀRA
Khi người ta thấy ngôi nhà lớn của
con voi cũng quá nhỏ, những người dân tự họp ở đó, với lòng tịnh
tín, bèn sữa soạn những chỗ ngồi cho các vị trưởng lão ở bên ngoài
của cổng phía nam, tại khu vườn khả ái Nandana trong vườn thượng uyển,
có bóng mát dày đặc, mát mẻ và được che phủ bởi màu xanh của cây cối.
Trưởng lão đi ra bằng cổng nam và ngồi ở đó. Những đoàn nữ nhân thuộc
gia đình quí tộc đi đến đó đã ngồi dưới chân của trưởng lão,
choáng đầy cả khu vườn. Và trưởng lão thuyết cho họ bài kinh
Baalapa.n.ditasuttanta (Hiền ngu kinh) Có một ngàn nữ nhân chứng đắc quả
Tu-đà-hườn. Rồi tại đó trong khu vườn, chiều buông xuống.
Khi ấy các vị trưởng lão khởi sự
lên đường và công bố rằng: "chúng ta sẽ đi từ đây đến núi."
Và người ta tâu lại với đức vua, và đức vua tức tốc đi đến. Khi đến
gần trưởng lão, vị ấy nói rằng: "đã chiều tối rồi mà núi thì
ở cách xa. Nhưng ở đây trong khu vườn này là một chỗ khả ái để nghỉ."
Khi các ngài trả lời rằng: "Nếu chúng tôi ở quá gần thành phố
thì không thích hợp," vua bèn nói rằng: "Khu vườn Mahaameghà không
quá xa cũng không quá gần, khả ái, và ở đó có nhiều nước và bóng
mát; Mong rằng chỗ ấy sẽ làm cho các ngài thích nghỉ ở đó. Các ngài
phải quay lại, thưa ngài!" Rồi trưởng lão quay lại.
Về sau bảo tháp được dựng lên ở
chỗ mà trưởng lão quay lại, gần con sông Kadamba, do đó nó được gọi là
bảo tháp Nivattacetiya (bảo tháp của sự quay lại)
Ở về hướng Nam từ khu vườn
Mandana, đức vua tự thân dẫn trưởng lão đến khu vườn Mahaamegha, ở cổng
đông. Khi đức vua đã sai làm những chiếc giường và những chiếc ghế
theo cách thích hợp, ở trong chỗ ngụ khả ái của đức vua, và đã cáo từ
các vị trưởng lão, khi nói rằng: "hãy trú ngụ ở đây trong an lạc,"
Vị ấy cùng các quan trở lại kinh đô; Còn các vị trưởng lão thì lưu lại
ở đó trong đêm ấy.
Ngay khi trời sáng, người cai trị lãnh
thổ mang theo những bông hoa và đến thăm các vị trưởng lão, đảnh lễ
các ngài và cung kính cúng dường những bông hoa và hỏi các ngài rằng:
"các ngài nghỉ có được an lạc không? - khu vườn có thích hợp với
các ngài không?"
"Tâu đại vương, sự nghỉ ngơi
của chúng tôi được an lạc, và khu vườn thích hợp đối với các vị
Sa-môn". Và vị ấy hỏi thêm rằng: "bạch ngài, đối với chư
tăng là làm một già-lam (aaraama) có đúng luật không?" "đúng luật"trưởng
lão đáp lại, là người biết điều được công nhận và điều gì cũng
không được công nhận, Ngài kể lại sự lãnh thọ Ve.luvanaaraama (Trúc
lâm viên). Khi đức vua nghe qua thì vị ấy rất vui sướng và tất cả dân
chúng cũng hoan hỉ vui sướng.
Nhưng hoàng hậu Anulaa, là người đã
cùng với năm trăm nữ nhân đã đến đảnh lễ các trưởng lão, đã chứng
đắc tầng thánh thứ hai. Và hoàng hậu Anulaa cùng với năm trăm nữ tỳ của
bà tâu với vua rằng: "chúng tôi muốn thọ phép xuất gia, tâu bệ hạ."
Ðức vua bàn bạc với trưởng lão rằng: "xin ngài hãy truyền phép xuất
gia cho họ!" nhưng trưởng lão trả lời với đức vua rằng: "tâu
bệ hạ, chúng tôi không được phép truyền xuất gia cho những nữ nhân.
Nhưng tại Paataliputta có một Tỳ khưu ni, là em gái của bần tăng, tên là
Sa.mghamittaa, nàng dày kinh nghiệm, sẽ đến đây mang theo nhánh ở phía nam
của cây đại thọ bồ đề của vị Sa-môn vương, tâu chúa của loài người,
và cũng đem theo những vị Tỳ khưu ni nổi tiếng về phạm hạnh, vì mục
đích này, xin hãy nhắn tin đến đức vua, là phụ vương của bần tăng.
Khi vị trưởng lão ni này đến đây nàng sẽ truyền phép xuất gia cho những
nữ nhân này." "lành thay," đức vua nói, và khi cầm một cái
bình quí giá, vị ấy đổ nước làm dấu hiệu của sự bố thí lên tay của
trưởng lão Mahinda với những lời này: " khu công viên này con xin dâng
đến chư tăng."
Khi nước rơi xuống trên cát, thì đại
địa rung động, và người bảo vệ quả đất bèn hỏi trưởng lão rằng:
"tại sao quả đất rung chuyển?" Và trưởng lão đáp lại rằng:
"bởi vì giáo pháp từ nay trở đi được thành lập ở hải đảo này."
Vị vua cao quí dâng những bông hoa
lài đến trưởng lão, trưởng lão đi đến chỗ ngụ của vua, rải xuống
tám nắm bông hoa quanh gốc cây Picula đang mọc lên ở phía nam của cung điện.
Và rồi quả đất lại rung chuyển và khi trưởng lão được hỏi, ngài
nêu lý do rằng: "trong thời kỳ của ba vị Phật ở đây đã có một
Maalaka (là một chỗ đất có vòng rào chung quanh và được đắp cao, ở bên
trong nó, những công việc về tăng sự được thực hiện), để thực hiện
những phận sự của chư tăng, tâu bệ hạ, và bây giờ nó đã trở thành
như vậy một lần nữa." Từ hoàng cung vị ấy đi về hướng bắc, đến
bể tắm xinh đẹp, và ở đó trưởng lão cũng rải nhiều nắm hoa, và rồi
quả đất lại rung chuyển, và khi được hỏi trưởng lão bèn nêu ra lý
do rằng: "tâu chứa của quả đất, đây sẽ là bệ nước có noãn
phòng (nghĩa là có phòng tắm để tắm nước nóng).
Rồi trưởng lão đi đến con đường
dẫn vào cổng của hoàng cung và làm lễ chỗ ấy bằng sự cúng dường
nhiều bông hoa. Và ở đây đại địa cũng rung chuyển và đầy hoan hỉ,
đức vua hỏi lý do và trưởng lão nói cho vua biết lý do: "ở đây
nhánh phía nam của cây đại thọ bồ đề của ba vị Phật quá khứ trong
đại kiếp của chúng ta là (Kakusandha, Ko.naagamana và Kassapa) đã được trồng
xuống, khi người ta đã đem đến đây, Tâu bệ hạ, và nhánh phía nam của
cây đại thọ bồ đề của đức Tahaagata của chúng ta cũng có chỗ ở tại
nơi đây, tâu chúa của quả đất."
Rồi đại trưởng lão đi đến
Mahaamucalamaalaka và rải trên chỗ ấy nhiều nắm hoa. Và quả đất lại
rung chuyển, và khi được hỏi, trưởng lão bèn cho vua biết rằng:
"nhà phát lồ của chư tăng sẽ nằm ở chỗ đó Tâu chúa của quả đất."
Về sau vị trưởng lão trí tuệ đi đến chỗ của Pa~nhambamaalaka.
Một trái xoài chín, có màu sắc, hương
thơm và vị thù thắng, có cỡ lớn, người làm vườn đã dâng nó đến
đức vua và đức vua dâng trái xoài lớn ấy đến trưởng lão. Trưởng lão,
người đem lại lợi ích cho nhân loại, cho đức vua biết rằng vị ấy muốn
ngồi nghỉ và ngay tức thì đức vua sai trải một tấm thảm mịn. Khi trưởng
lão ngồi, đức vua dâng ngài trái xoài. Khi trưởng lão đã ăn nó rồi,
ngài trao hạt của trái xoài ấy cho đức vua trồng. Ðức vua đích thân trồng
hạt xoài ấy ở đó, và trên hạt xoài ấy, để nó có thể mọc lên, trưởng
lão rửa tay cho nước rơi xuống. Ngay lúc ấy, một chồi non mọc lên từ
hạt xoài và nó lớn dần lên thành một cây với lá um tùm và quả xum
xuê.
Khi những người chứng kiến với đức
vua trông thấy cảnh tượng khác thường này, họ đứng ở đó, tỏ sự
tôn kính đến trưởng lão, tóc lông của họ dựng đứng vì ngạc nhiên sửng
sốt.
Bấy giờ trưởng lão, rải tám nắm
hoa và đại địa lại chấn động. Và khi được hỏi, trưởng lão bèn
cho biết lý do rằng: "chỗ này sẽ là chỗ mà nhiều vật thí sẽ được
phân phát, những vật thí ấy sẽ được cúng dường đến chúng ta, là
các vị Tỳ khưu đang tụ họp ở đây, tâu chúa của loài người".
Và khi trưởng lão đi đến chỗ mà về
sau có Catussaalaa (trai đường có bốn cạnh), và ở đó trưởng lão rải
nhiều nắm hoa, và đại địa lại chấn động. Và khi đức vua hỏi lý do
của sự rung chuyển của quả đất trưởng lão bèn trả lời: "tâu
chúa của nhân loại, trong nhịp thọ nhận vườn ngự uyển bởi ba vị Phật
quá khứ, tại chỗ này, những vật thí được đem đến từ các miền bởi
những cư nhân trên đảo, ba vị Thế tôn và chúng tăng của các ngài thọ
nhận những vật thí ấy."
Và bây giờ, tâu chúa thượng,
Catussaalaa lại nằm ở đây sẽ là trai đường của chư tăng".
Từ dạo đó, đại trưởng lão
Manhinda, người bạn thân thiết của hải đảo, khi biết chỗ nào là
thích hợp và chỗ nào không thích hợp, bèn đi đến chỗ mà về sau có bảo
tháp Mahaathuupa.
Lúc bấy giờ, ở bên trong khuôn viên
của vườn ngự uyển, có một cái hồ nhỏ, tên là hồ Kakudha; ở phần
đầu phía trên của cái hồ, trên miệng bờ có một chỗ đất bằng phẳng
thích hợp để làm bảo tháp.
Khi trưởng lão đi đến đó, người
ta đưa đến cho đức vua tám giỏ hoa Campaka. Ðức vua dâng những bông hoa
Campaka ấy đến trưởng lão và trưởng lão cúng dường chỗ ấy bằng những
bông hoa Campaka. Rồi địa lại chấn động, đức vua hỏi lý do về sự chấn
động của đại địa và trưởng lão kể ra theo thứ tự lý do của sự
chấn động quả đất.
"Chỗ này, tâu đại vương, đã
được bốn vị Phật viếng thăm, xứng đáng để dựng lên một bảo
tháp, là niềm hạnh phúc và an lạc cho chúng sanh.
"Trong đại kiếp của chúng ta có
bậc chiến thắng thứ nhất Kakusandha, một bậc đạo sư thông suốt chân
lý, có lòng bi mẫn đối với thế gian. Lúc bấy giờ khu vườn Mahaamegha này
có tên là Mahaatittha; kinh đô có tên là Abhaya, nằm về hướng đông ở
bên kia của con sông Kadamba, ở đó Abhaya là vua. Khi ấy hải đảo này mang
tên là Ojadiipa.
"Do năng lực thần thông của những
dạ xoa khiến cho bệnh dịch sanh lên ở đây trong dân chúng. Ðức
kakusandha, bậc có thập lực, khi biết rõ tai họa này, để làm chấm dứt
bệnh dịch ấy và để hóa độ chúng sanh và làm cho giáo pháp được phát
triển trên hải đảo này, Ngài, bị thúc dục bởi sức mạnh của lòng bi
mẫn của ngài, đã đi xuyên qua hư không cùng với bốn chục ngàn thánh đệ
tử, và đứng ở trên núi Devakuuta. Do năng lực của đức chánh giác tôn,
tâu đại vuơng, bệnh dịch ngay tức thì bị diệt trên khắp toàn thể hải
đảo.
"Khi đứng ở đó, tâu chúa của
loài người, bậc pháp vương, bậc đại thánh hiền, đã chú nguyện rằng:
"tất cả mọi người trên hải đảo Ojadiipa sẽ trông thấy ta ngày
hôm nay và nếu họ muốn đến với ta thời tất cả mọi người sẽ đến
gần ta tức tốc mà không gặp phiền hà gì."
"Khi đức vua và thị dân trông thấy
đấng pháp vương, đang chiếu sáng và làm cho ngọn núi sáng chói, họ tức
tốc đi đến đó.
"Dân chúng, khi đang đi đến đó
để mang lễ vật cúng dường chư thiên, tin rằng bậc lãnh đạo của thế
gian cùng với tăng chúng là những vị chư thiên như vậy. Và khi đức vua,
đầy hoan hỉ, đã đảnh lễ đấng pháp vương, thỉnh ngài thọ thực và
đưa ngài vào kinh đô, khi vị ấy nghĩ rằng: "chỗ khả ái và trang
nghiêm này thích hợp để làm chỗ nghỉ cho đấng pháp vương với chúng tăng,
và không quá nhỏ," bèn thỉnh đức Chánh biến tri và chúng tăng ngồi
vào những chỗ ngồi xinh đẹp trong một giả ốc lộng lẫy do vị ấy dựng
lên.
"Khi dân chúng trông thấy bậc
lãnh đạo của thế gian với chúng tăng đang ngồi ở đó, họ đem những
vật thí từ mọi hướng đến đây. Và đức vua hầu hạ bậc lãnh đạo
của thế gian cùng tăng chúng bằng chính vật thực của vị ấy, gồm cả
lại cứng và loại mềm, và bằng những loại vật thực do những người
khác đem đến làm vật thực phụ.
"Khi bậc chiến thắng đã an tọa,
sau bữa ăn, tại chính chỗ này, đức vua dâng đến ngài khu vườn
Mahaatitthaka, rực rỡ với những bông hoa nở sái mùa, được đức Phật
nhận lãnh, thì quả đất rung chuyển. Và khi ngồi ngay ở đây, bậc đạo
sư thuyết giảng chánh pháp; bốn chục ngàn người chứng đắc đạo quả
giải thoát.
"Khi bậc chiến thắng lưu lại suốt
ngày trong khu vườn Mahaatittha, vào lúc chiều, ngài đi đến chỗ đất thích
hợp để trồng cây bồ đề, và khi ngồi ở đó, sau khi đã nhập vào đại
định, Ðức Chánh biến tri khi xuất khỏi đại định, vì muốn đem lại
sự giải thoát cho dân chúng của hải đảo, bèn nghĩ rằng: "Khi đem
đến nhánh bồ đề ở phía nam của ta, là cây Siriisa, Tỳ khưu ni
Rucaanandaa sẽ đến đây cùng với những vị Tỳ khưu ni khác."
"Khi vị trưởng lão ni biết tâm
của ngài, ngay tức tốc nàng dẫn đức vua của xứ ấy (là vua Khema của
xứ Khemavatii) và đi đến cây ấy. Rồi khi vị trưởng lão ni có năng lực
thần thông ấy đã gạch một đường kẻ bằng cây viết chì làm bằng chất
tỳ sương đỏ quanh nhánh phía nam, nàng lấy nhánh bồ đề được tách rời
như vậy và đặt nó trong một cái hũ bằng vàng, và bằng năng lực thần
thông của nàng, nàng đem cây này đến đây, tâu đại vương, cùng với hội
chúng của nàng gồm năm trăm vị Tỳ khưu ni, được vây quanh bởi chư thiên,
nàng đặt cây ấy cùng với cái hũ bằng vàng vào trong bàn tay phải đã
duổi ra của Ðức Chánh biến tri: Ðức Tathaagata nhận lấy nhánh cây ấy
và trao nó cho vua Abhaya để trồng xuống; Vị chúa của quả đất đã trồng
cây ấy trong vườn Mahaatittha.
"Sau đó Ðức Chánh biến tri đi từ
chỗ đó về hướng bắc và khi đang ngồi ở Siiriisamaalaka xinh đẹp, Ðức
Tathaagata đã thuyết pháp đến mọi người. Khi ấy, tâu đại vương, có sự
tỏ ngộ chánh pháp gồm hai chục ngàn chứng sanh. Nhân đó, bậc chiến
tháng lại đi tiếp về hướng bắc, đến chỗ đất mà sau này có bảo
Thuupaaraama, và sau đó, khi ngồi ở đó, ngài nhập vào đại định, rồi
xuất định, Ðức Chánh biến tri lại thuyết pháp đến những người ở
quanh ngài, và ngay tại chỗ đó, mười ngàn chúng sanh chứng đắc quả thánh"
Khi cho bình nước thánh của chính ngài để dân chúng tôn thờ kính ngưỡng
và khi để lại vị Tỳ khưu ni ở đây cùng với tùy tùng của nàng và cũng
để lại người đệ tử Mahaadeva của ngài với một ngàn vị Tỳ khưu,
Ðức Chánh biến tri từ đó đi về hướng đông, và khi đứng trên chỗ
đất Ratanamaala, ngài ban lời giáo huấn đ?n dân chúng rồi khi bay vào
không trung với chúng tăng, bậc chiến thắng trở lại jampudiipa.
"Ðức Chánh biến tri thứ hai
trong đại kiếp của chúng xa ta là Thế tôn Konaagamana, là bậc đạo sư toàn
tri, có lòng bi mẫn đối với thế gian,
"Lúc bấy giờ khu rừng Mahaamegha
này có tên là Mahaanoma, kinh đô tên là Va.d.dhamaana, nằm về hướng nam.
Samidha là tên của vị vua trị vì xứ ấy lúc bấy giờ. Hải đảo này
lúc bấy giờ có tên là Varadiipa.
"Lúc bấy giờ nạn hạn hán lan
tràn ở đây tại Varadiipa. Khi bậc chiến thắng đang biết được tai họa
này, để chấm dứt nạn hạn hán ấy, và sau đem lại sự giáo hóa chúng
sanh và sự phát triển của giáo pháp tại hải đảo này, ngài rung cảm bởi
lòng đại bi của ngài, đã đi đến xuyên qua hư không, được theo hầu bời
ba chục ngàn đệ tử bậc thánh, và đứng ở trên núi Suma.nakuutaka. Do oai
lực của Ðức Chánh biến tri, nạn hạn hán chấm dứt, và từ dạo đó sự
suy sụp của giáo pháp chấm dứt và mưa rào rơi xuống hợp thời.
"Và khi đứng ở đó, tâu đại
vương, bậc trí tuệ tối thắng, bậc Ðại hiền trí, phát nguyện rằng:
"tất cả mọi người ở Varadiipa sẽ trông thấy ta ngày hôm nay, và nếu
họ chỉ muốn đi đến ta thời tất cả mọi người sẽ nhanh chóng đến
gần ta mà không gặp trở ngại nào."
"Khi đức vua và dân chúng ở
thành thị đi đến, mang theo những lễ vật cho các vị chư thiên, tin rằng
bậc lãnh đạo của thế gian và tăng chúng là những vị chư thiên như vậy.
Và khi đức vua, rất vui mừng, đảnh lễ bậc trí tuệ tối thắng, thỉnh
ngài đi thọ thực và đưa ngài đến kinh đô, vị hoàng đế khi ấy nghĩ
rằng: "chỗ khả ái và cao quí này thích hợp để làm chỗ nghỉ ngơi
cho vị vua của các bậc trí tuệ cùng với chúng tăng và không quá nhỏ,"
"bèn mời đức Chánh biến tri và tăng chúng ngồi ở đây trên những
chỗ ngồi xinh đẹp trong cái giả ốc quí báu do vua dựng lên.
"Khi dân chúng trông thấy bậc
lãnh đạo của thế gian với chư tăng đang ngồi ở đây, họ đem đến đây
những vật thí từ khắp mọi nơi. Và đức vua hầu hạ bậc lãnh đạo của
thế gian với tăng chúng bằng vật thực của vị ấy, gồm cả loại cứng
loại mềm, và những vật thực được dân chúng rải rác các nơi đem đến.
"Trong khi bậc chiến thắng đang
ngồi, sau giờ thọ thực tại chính chỗ này, đức vua dâng đến Ngài khu
vườn Mahaanoma để làm vật thí quí trọng. Và khi khu vườn Mahaanoma rực
rỡ với những bông hoa nở sái mùa, được thâu nhận bởi đức Phật thì
đại địa rung chuyển. Và khi ngồi ngay ở đây, bậc đạo sư thuyết giảng
chánh pháp; khi ấy ba chục ngàn người chứng đắc đạo quả giải thoát.
"Khi bậc chiến thắng đã lưu lại
suốt ngày trong khu vườn Mahaanoma, vào lúc chiều, Ngài đi đến chỗ đất
mà cây bồ đề trước kia m?c lên, và khi ngồi ở đó, sau khi đã nhập
vào đại định, rồi lại xuất khỏi định, đức Chánh biến tri, đầy
quan tâm đến sự hóa độ cho dân chúng trên hải đảo, nghĩ rằng:
"Khi đem đến đây nhánh phía nam nơi cây bồ đề của ta, là cây
Udumbara, Tỳ khưu ni Kantakaanandaa sẽ đến đây với những Tỳ khưu ni khác."
"Khi vị trưởng lão ni biết được
tâm của ngài, ngay tức thì nàng dẫn đức vua đến chỗ ấy và đi đến
cây ấy. Rồi khi vị trưởng lão ni có năng lực thần thông đã về một
đường kẽ bằng cây viết chì, làm bằng chất tỳ sương đỏ quanh nhánh
cây phía nam, nàng lấy nhánh bồ đề đã được tách ra như vậy, đặt nó
trong một cái hũ bằng vàng và bằng năng lực thần thông của nàng, nàng
đem cây này đến đây, tâu đại vương cùng với hội chúng của nàng gồm
năm trăm Tỳ khưu ni khác, được theo hầu bởi những vị chư thiên, và
nàng đặt cây cùng với cái hủ bằng vàng trong bàn tay phải được chìa
ra của đức Chánh biến tri. Ðức Chánh biến tri nhận lấy nó và trao cho
vua Samiddha để trồng xuống chúa quả đất đã trồng cây ấy ở đó
trong khu vườn Mahaanoma.
"Rồi đức Chánh biến tri từ
Siriisamaala đi về hướng bắc và thuyết pháp đến dân chúng. Khi đang ngồi
ở Naagamaalaka. Khi nghe được chánh pháp, tâu bệ hạ, có hai chục ngàn
chúng sanh tỏ ngộ được chánh pháp. Khi ngài đã đi tiếp về hướng bắc,
đến chỗ mà Ðức Phật quá khứ đã ngồi, và sau khi đã ngồi ở đó,
nhập vào và lại xuất khỏi đại định, Ðức Chánh biến tri thuyết
pháp đến những người ở quanh Ngài, và ngay tại chỗ ấy mười ngàn
chúng sanh chứng đắc đạo quả giải thoát.
"Khi cho sợi dây lưng của Ngài để
dân chúng tôn thờ kính ngưỡng và để lại vị Tỳ khưu ni ở đây với
tùy tùng của nàng và cũng để lại vị đệ tử của Ngài là Mahaasumba với
một ngàn vị Tỳ khưu, Ðức Chánh biến tri, khi đứng ở phía bên này của
Ratanamaala tại Sudasanamaala, đã ban lời khuyến giáo đến dân chúng; rồi
khi cùng với chúng tăng bay vào không trung, bậc chiến thắng trở lại
jambudiipa.
"Vị thứ ba trong đại kiếp của
chúng ta là bậc chiến thắng Kassapa, là bậc đạo sư toàn tri, có lòng bi
mẫn đối với thế gian.
"Khu rừng Mahaamegha lúc bấy giờ
có tên là Mahaasaagara; kinh đô tên là Visaala, nằm về hướng tây Jayanta
là tên của vị vua trị vì xứ ấy thời bấy giờ, và hải đảo này bấy
giờ mang tên là Ma.n.dadiipa
"Lúc bấy giờ một cuộc tàn sát
kinh khủng đã xảy ra, giữa vua Jayanta và người em trai của vị ấy. Khi
Kassapa, Ðấng Thập Lực, Bậc Ðại hiền thánh, đầy lòng bi mẫn biết
được sự bất hạnh đến với chúng sanh do bởi cuộc chiến tranh này to
lớn như thế nào, khi ấy, để chấm dứt cuộc chiến tranh này, và sau đó
đem lại sự hóa độ, cho chúng sanh và sự phát triển của giáo pháp trên
hải đảo này, Ngài bị thúc dục bởi sức mạnh của lòng bi mẫn của
Ngài, đã đi đến xuyên qua hư không cùng với hai chục ngàn thánh đệ tử,
và Ngài đứng trên núi Sabhakuuta.
"Khi đứng ở đó, tâu đại
vương, vị vua của các bậc trí tuệ, bậc đại hiền trí, đã chú nguyện
rằng: "tất cả mọi người ở đảo Ma.n.dadiipa sẽ trông thấy ta
ngày hôm nay; và nếu mọi người chỉ muốn đi đến ta thì tất cả mọi
người sẽ nhanh chóng đến gần ta mà không gặp trở ngại nào." Khi
đức vua và dân chúng trông thấy vị vua của các bậc trí tuệ, đang chiếu
sáng và làm cho ngọn núi sáng chói, họ tức tốc đi đến đó. Nhiều người
đi đến đó, mang theo những lễ vật để cúng dường thần linh để cầu
nguyện sự chiến thắng về phe của họ, tin rằng Bậc lãnh đạo của thế
gian và chúng tăng là những vị thần linh như vậy; Ðức vua và hoàng tử,
đầy kinh ngạc, bèn dừng ngay cuộc chiến đấu. Khi đức vua, đầy hoan hỉ,
đã đảnh lễ vua của các bậc trí tuệ, thỉnh Ngài đến trai tăng và đã
đưa Ngài vào kinh đô, khi ấy vị hoàng đế nghĩ rằng: "chỗ khả ái
và trang nghiêm này thích hợp để làm chỗ nghỉ ngơi cho vị vua của các
bậc trí tuệ với chúng tăng và không quá nhỏ," bèn thỉnh Ðức
Chánh biến tri và chúng tăng ngồi ở đây trên những chỗ ngỗi xinh đẹp
trong giả ốc sang trọng do đức vua dựng lên.
"Khi dân chúng của hải đảo trông
thấy bậc lãnh đạo của thế gian với tăng chúng đang ngồi ở đây, họ
đem đến đây những vật thí từ khắp mọi nơi. Và đức vua hầu hạ - Bậc
lãnh đạo của thế gian với chư tăng bằng vật thực của vị ấy, và bằng
những loại vật thực được những người khác đem đến.
"Trong khi bậc chiến thắng đang
ngồi, sau buổi thọ thực ngay tại chỗ này, đức vua dâng đến ngài khu vườn
Mahaasaagara để làm vật thí quí trọng. Và khi khu vườn Mahaasaagara, rực rỡ
với những bông hoa nở sái màu, được đức Phật nhận lãnh, thì đại
địa rung chuyển. Và khi đang ngồi ở đây, Bậc đạo sư thuyết giảng chánh
pháp; Khi ấy có hai chục ngàn người chứng đắc đạo quả giải thoát.
"Khi đức thế tôn đã lưu lại
suốt ngày trong khu vườn Mahaasaagara, vào lúc chiều đến ngài đi đến chỗ
đất mà những cây bồ đề quá khứ đã mọc ở đó, và khi ngồi ở đó
sau khi nhập vào đại định, đức Chánh biến tri, có tâm tha thiết với sự
hóa độ những người trên hải đảo, sau khi xuất khỏi đại định, bèn
nghĩ rằng: "khi đem đến đây nhánh phía nam của cây bồ đề của ta,
là cây Nigrodha (cây đa) Tỳ khưu ni Sudhammaa sẽ đến đây cùng với những
vị Tỳ khưu ni khác."
"Khi vị trưởng lão ni biết được
tâm của ngài, ngay tức thì nàng dẫn đức vua đến chỗ ấy và đi đến
cây ấy. Rồi vị trưởng lão ni có năng lực thần thông đã vẽ quanh
nhánh cây phía nam bằng cây viết chì làm bằng chất tỳ sương đỏ, nàng
lấy nhánh cây được tách ra như vậy và đặt nó vào trong cái hũ vàng,
và bằng năng lực thần thông của nàng, tâu đại vương, nàng đem cây
này đến đây cùng với hội chúng của nàng gồm năm trăm vị Tỳ khưu
ni, được theo hầu bởi những vị chư thiên và nàng đặt cây ấy với
cái hũ bằng vàng trong bàn tay phải được duỗi ra của đức Chánh biến
tri; Ðức Chánh biến tri nhận lấy cây ấy và trao nó cho đức vua jayanta
để trồng xuống; Vị chúa của quả đất đã trồng cây ấy ở đó trong
khu vườn Mahaasaagaara.
"Sau khi đức Phật đi về hướng
bắc từ Naagamaalaka và thuyết pháp đến dân chúng đang ngồi ở
Asokamaalaka. Khi họ đã nghe pháp, tâu đại vương, ngay tại đó có bốn
ngàn chúng sanh tỏ ngộ chánh pháp. Sau đó khi ngài đã đi tiếp về hướng
bắc đến chỗ mà các vị Phật quá khứ đã ngồi và khi ngồi ở đó,
sau khi nhập vào đại định, đức Chánh biến tri sau khi xuất khỏi đại
định, đã thuyết pháp đến những người ở quanh ngài, và ngay tại chỗ
đó có mười ngàn chúng sanh chứng đắc đạo quả giải thoát.
"Khi cho chiếc y tắm mưa của ngài
để làm di vật tôn thờ đến dân chúng. Và để lại vị Tỳ khưu ni ở
đây với tùy tùng của nàng, và cũng để lại đệ tử Sabbananda của ngài
với một ngàn vị Tỳ khưu, ngài, khi đứng ở bờ bên này của con sông của
xứ Sudassanamaala tại Somanassmaalaka, đã ban lời giáo huấn đến chúng dân;
rồi khi cùng với chúng tăng bay vào không trung, bậc chiến thắng trở lại
jambudiipa.
"Vị thứ tư trong đại kiếp của
chúng ta là bậc chiến thắng Gotama, bậc đạo sư, biết rõ hết thảy
chân lý, có lòng bi mẫn đối với thế gian. Khi ngài đi đến đây lần đầu
tiên ngài đã đuổi đi những dạ xoa, khi ngài lại đến đây lần thứ
hai. Ngài đã nhiếp phục các vị rồng. Khi được khẩn nài bởi long vương
Ma.niakkhi của con sông Kalyaanii, Ngài trở lại lần thứ ba, Ngài độ thực
đó với chúng tăng, Và khi ngài đã ngồi an hưởng an lạc ở chỗ mà những
cây bồ đề quá khứ đứng ở đó; và ở chỗ được chỉ định để làm
bảo tháp ở đây và cũng tại chỗ để bảo vệ những di vật của ngài
để lại, Và khi ngài đã đi đến phía bên này của chỗ mà chư Phật quá
khứ đã đứng, bậc đại hiền trí, Ngọn đèn của thế gian, Vì khi ấy
không có loài người ở đảo Tích Lan, nên đã ban lời khuyến giáo đến
thiên chúng trú ngụ ở đảo này, và đến những vị rồng; Rồi khi bay vào
không trung với chúng tăng, bậc chiến thắng trở lại jambudiipa.
"Như vậy, tâu đại vương, chỗ
này được bốn vị Phật viếng thăm; tại chỗ này, tâu đại vương, về
sau sẽ có bảo tháp, với phòng tồn tích để đặt cái hũ đựng xá lợi
của đức Phật; Bảo tháp ấy sẽ cao đến một trăm hai mươi hắc tay và
sẽ được biết đến qua cái tên là Hemamaalii.
Khi vị chúa của quả đất nói rằng:
"chính trẫm sẽ xây dựng bảo tháp ấy." "Tâu bệ hạ, đối
với bệ hạ có nhiều phận sự cần được hoàn thành ở đây. Bệ hạ
hãy làm những phận sự ấy đi, còn người kế truyền bệ hạ sẽ xây dựng
bảo tháp này. Một người con trai của vị phó vương Mahaanaama em trai của
bệ hạ, người có tên là Ya.t.thaalaahayakatissa, về sau sẽ làm vua, con trai
của vị ấy sẽ làm vua tên là Go.thaabhaya; Ðứa con trai của vị vua này sẽ
lên làm vua tên là Kaakava.n.natissa; tâu đại vương, đứa con trai của vị
vua này tên là Abhaya, nổi danh là Du.t.thagaama.ni: vị ấy có oại lực vĩ
đại, có năng lực thần thông và lòng dũng cảm, sẽ xây dựng bảo tháp
ở đây."
"Trưởng lão đã nói như vậy, và
vì những lời của trưởng lão khiến vị hoàng đế dựng lên ở đây một
cột trụ bằng đá, và vị ấy đã khắc vào đó những lời này.
Và khi vị đại trưởng lão có trí
tuệ bậc nhất Mahinda, có thần thông lực, đã nhận lãnh khu vườn khả
ái Mahaamegha, là tisaaraama, vị ấy, bậc không thể lay chuyển được, khiến
cho quả đất rung chuyển ở tám chỗ; Và khi đi khất thực, ngài đi vào
kinh đô như đi vào đại dương và thọ thực trong hoàng cung, Ngài rời khỏi
hoàng cung, và khi ngồi ở đó trong vườn Nandana, ngài đã thuyết pháp đến
dân chúng bài kinh Aggikhandhopamaa (hỏa ẩn dụ kinh) và đã khiến cho một
ngàn người trở thành những người thọ lãnh đạo quả giải thoát, ngài
lại nghỉ trong vườn Mahaamegha.
Khi trưởng lão đã độ thực trong ngày
thứ ba trong hoàng cung, và khi đang ngồi trong khu vườn Nandana, đã thuyết
bài kinh Aasiivisuupamaa (Dột xà dụ kinh), và nhờ đó cải chánh cho mười
ngàn người, và từ đó trưởng lão đi đến Tissaaraama.
Còn đức vua là người đã nghe thời
pháp ấy, khi ngồi dưới chân của trưởng lão đã hỏi rằng: "bạch
ngài, giáo pháp của bậc chiến thắng có đứng vững không?" "Tâu
chúa c?a loài người, chưa được, chỉ khi nào những ranh giới (Siimaa) được
thành lập ở đây để làm lễ phát lồ và thực hành những tăng sự khác,
theo lời phán truyền của bậc chiến thắng, thì giáo pháp mới đứng vững
được."
Trưởng lão nói như vậy, và đức
vua trả lời như vầy: "trẫm sẽ sống đúng với lời phán truyền của
đức Phật. Bạch Ngài, Bậc đem lại ánh sáng! Do đó hãy nhanh chóng thành
lập những ranh giới, bao gồm thành phố này", vị đại vương đã
nói như vậy. Và trưởng lão trả lời như vầy; "Nếu vậy, tâu chúa
của loài người, bệ hạ hãy đích thân vẽ con đường ranh giới, chúng
tôi sẽ thành lập ranh giới ấy." "Tốt lắm", chúa của quả
đất nói, và giống như chúa của chư thiên rời khỏi khu rừng Nandana, vị
ấy ra đi từ Mahaagehavanaaraama vào cung điện của mình.
Khi trưởng lão đã thọ thực vào
ngày thứ tư trong hoàng cung, và khi đang ngồi trong khu rừng Nandana, Ngài
thuyết bài kinh Anamatagga-sutta (Vô thỉ kinh), Và khi ngài đã cho một ngàn
người ở đó uống nước bất tử, vị đại trưởng lão bèn đi đến
Mahaameghavanaaraama. Nhưng vào buổi sáng sau khi truyền lịnh đánh trống, và
trang hoàng rực rỡ thành phố và con đường dẫn dến tịnh xá và khắp
quanh tịnh xá, vị chúa của các xe, bước vào chiếc long xa, đi đến khu lâm
viên (aaraama) của mình, được trang sức bằng tất cả những vật trang sức
của vị ấy, cùng với các quan và những cung phi mỹ nữ trong hậu cung, với
những chiếc xe, những đoàn quân và những con thú cỡi, trong một đoàn
dài hùng dũng nối đuôi nhau.
Khi đức vua đã tìm đến những vị
trưởng lão ở đây và đã đảnh lễ những bậc đáng tôn kính, vị ấy
cày một đường cày theo hình vòng tròn, bắt đầu ở chỗ cạn của con sông
Kakamba, và kết thúc đường cày khi đức vua đến lại con sông.
Khi vị ấy đã vẽ ra những mốc ranh
giới bằng đường cày và làm những ranh giới để làm ba mươi hai cái
sân vòng tròn và để làm Thuupaaraama (tháp viên); vị trưởng lão có trí
tuệ bậc nhất khi ấy cũng làm những dấu ranh giới ở bên trong theo tục
lệ; Và như vậy người cai trị các căn của mình trong cùng ngày hôm ấy
đã thành lập tất cả những ranh giới. Ðại địa rung chuyển khi sự ấn
định ranh giới hoàn tất. Khi trưởng lão đã độ thực trong hoàng cung
vào ngày thứ năm, ngài thuyết pháp, khi đang ngồi trong khu vườn Mandana, bài
kinh Khajjaniiya-suta, đến đại chúng, và khi ngài đã cho nước bất tử đến
một ngàn người ở đó, trưởng lão lại nghỉ trong khu rừng Mahaamegha.
Cũng trong ngày thứ sáu, khi trưởng lão
đã độ thực trong hoàng cung, ngài thuyết pháp, khi đang ngồi trong rừng
Mandana, bài kinh Gomayapi.n.dii-sutta (Ngưu-phấn-toàn kinh), và sau khi vị pháp
sư trí tuệ đã cải chánh cho một ngàn người như vậy, ngài lại nghỉ
trong khu rừng Mahaamegha.
Vào ngày thứ bảy khi trưởng lão độ
thực trong hoàng cung, ngài thuyết pháp, khi đang ngồi trong khu vườn
Nandana, bài kinh Dhammacakkappavattana-suttanta (Chuyển pháp kinh luân), và khi đã
cải chánh cho một ngàn người, ngài lại vào nghỉ trong khu vườn
Mahaamegha, khi vị đại trưởng lão là người cho ánh sáng, bằng cách này,
đã cải chánh cho tám ngàn năm trăm người chỉ trong thời gian bảy ngày.
Khu vườn Nandana là chỗ mà bậc phạm
hạnh đã làm cho chánh pháp được chiếu sáng, được gọi tên là jotivana
- Và trong chính những ngày đầu tiên này, đức vua đã truyền lịnh xây
cho trưởng lão một Paasaada (điện lầu) tại Tissaraama, và vị ấy đã sai
nung nhanh đất sét bằng lửa. Ngôi nhà trú ngụ có màu sẫm do đó người
ta đặt tên là Kaalapaasaadaparivena (hắc trọng cái liêu). Ðức vua cũng dựng
lên một bảo điện dành cho cây đại bồ đề, Laalohapaasaada (thanh đồng
điện), Một salaka (nhà trù để phân phối vật thực), và một trai đường
tươm tất, vị ấy còn xây nhiều Parive.na thù thắng (những chỗ ở dành
cho chư tăng), những hồ tắm và những nhà nghỉ, ban đêm và ban ngày vân
vân. Ngôi nhà ở của tăng nằm trên bờ của hồ tắm dành cho vị trưởng
lão trong sạch được gọi là Sunhaataparive.na (tức là chỗ dành cho người
đã khéo tẩy sạch hay đã thanh lọc, người đã tẩy sạch điều ác là
Mahinda). Cái cốc ở chỗ mà ngọn đèn tối thắng của hải đảo (tức là
Mahinda) thường đi kinh hành được gọi là Diighacankamana (thường kinh hành
đàn). Nhưng cái cốc được dựng lên ở chỗ mà ngài nhập định để
đem lại phúc lạc tột bậc được gọi là Phalagga-Parive.na (cốc để thọ
hưởng quả tối thắng). Cái cốc được và lên ở chỗ mà trưởng lão
ngồi tựa lưng được gọi là Theraapassaya-Parive.na. Cốc được dựng lên
ở chỗ mà nhiều thiên chúng tìm đến ngài ngồi dưới chân ngài được
gọi là Maruga.na-parive.na (thiên chúng hội cốc). Vị nguyên soái của đức
vua đã dựng lên một điện đài có tám cái cột lớn dành cho trưởng lão,
gọi là Diighasandana. Cái cốc nổi tiếng này, là nhà của những người nổi
tiếng, được gọi là Diighasandasenaapati-Parive.na. Vị vua có trí tuệ, có
tên mang những chữ "người yêu dấu của chư thiên", người bảo
trợ cho trưởng lão Mahinda, bậc có tâm không cấu uế, đã xây dựng ở
đây trên đảo Tích Lan này đại tịnh xá Mahaavihaara.
Ở đây chấm dứt chương thứ mười
lăm, được gọi là sự tiếp nhận đại tịnh xá Mahaavihaara trong bộ
Mahaava.msa được biên soạn vì niềm tín lạc và xúc động của những thiện
nhân.
-ooOoo-
CHƯƠNG XVI
SỰ TIẾP NHẬN
TỊNH XÁ CETIYAPABBATA-VIHÀRA
Khi đi vào thành phố để khất thực
và ban đặc ân cho dân chúng bằng sự thuyết pháp; thọ thực trong hoàng
cung để ban đặc ân cho đức vua, trưởng lão đã trú ngụ hai mươi sáu
ngày trong khu vườn Mahaamegha. Nhưng vào ngày mười ba của nửa tháng thượng
huyền Aasaa.lha, khi vị trưởng lão có tâm hồn cao thượng đã độ thực
trong hoàng cung và đã thuyết pháp đến đức vua bài kinh
Mahappamaada-suttanta (Ðại bất phóng dật kinh), vị ấy ra đi từ đó. Vì trưởng
lão muốn lập nên một tịnh xá trên núi Cetiya, nên khi ra đi ở cổng phía
đông, trưởng lão đi đến núi Cettiya.
Khi đức vua nghe tin rằng trưởng lão
đã đi đến đó vua, bèn bước lên chiếc long xa, và khi dẫn theo hai bà
hoàng hậu, vị ấy theo sát trưởng lão. Khi các trưởng lão đã tắm trong
bể nước Naagacatuka, họ đứng theo thứ tự để đi lên đỉnh núi. Rồi
đức vua bước xuống khỏi xe và đứng ở đó, cung kính đảnh lễ các vị
trưởng lão. "tâu bệ hạ, tại sao bệ hạ lại đến đây mệt mỏi
vì nắng như vậy?" họ nói; Và khi được trả lời rằng: "vì lo
lắng đến sự ra đi của các ngài nên trẫm đi đến đây,"các vị
truởng lão trả lời rằng: "chúng tôi đã đến để nhập hạ ngay ở
đây" và người rành mạch các điều luật của tăng chúng đã giải
thích cho đức vua rõ về chương liên quan đến sự nhập hạ. Khi đứa cháu
trai của đức vua, là quan đại thần Mahaari.t.tha, đang đứng gần đức
vua với năm anh em vị ấy, nghe được điều này, sau khi xin phép đức vua,
họ thọ phép xuất gia với trưởng lão ngay chính ngày hôm ấy, và tất cả
những người này đều chúng đắc đạo quả A-la-hán ngay trong nhà cạo
tóc.
Khi đức vua đã khởi công xây dựng
sáu mươi tám cái cốc bằng đá trong chính ngày hôm ấy quanh chỗ mà về
sau có bảo tháp Kantaka-cetiya, vị ấy trở lại kinh đô; còn các vị trưởng
lão thì lưu lại ở chỗ ấy. Vào giờ đã ấn định vì lòng bi mẫn đối
với dân chúng, các ngài đi vào thành phố để khất thực.
Khi công việc xây dựng các thạch cốc
đã hoàn thành vào ngày trăng tròn của tháng Aasa"nha, đức vua đi đến
và dâng tịnh xá đến các trưởng lão để làm lễ vật cúng dường. Khi
trưởng lão, người đã đi qua bên kia những giới hạn của điều, ác đã
kiết giới cho ba mươi hai cái cốc và tịnh xá, sau đó trong chính ngày
hôm ấy, tại cốc Tumbaru-maalaka, là cốc được kiết giới đầu tiên,
ngài đã truyền phép cụ túc giới cho những người muốn thọ giới bậc
cao. Và sáu mươi hai vị A-la-hán này khi an cư kiết hạ trên núi Cetiya, đã
ban ân huệ cho đức vua bằng sự thuyết pháp của các ngài.
Và tại đó, những đoàn thiên chúng
đã đến gần để tôn kính trưởng lão, người lãnh đạo của nhóm đệ
tử và hội chúng của các ngài là những người đã đạt đến danh tiếng
lẫy lừng về giới đức, họ đã tích lũy phước lớn.
Ở đây chấm dứt chương thứ mười
sáu, được gọi là "sự tiếp nhận tịnh xá Cetiyapabbata-vihaara",
trong toàn bộ Mahaava.msa, được biên soạn vì niềm tín lạc và xúc động
của những thiện nhân.
-ooOoo-
CHƯƠNG XVII
SỰ ÐẾN CỦA
XÁ LỢI
Khi vị đại trưởng lão có trí tuệ
cao tột, sau khi đã nhập hạ như vậy, và đã tổ chức lễ tự-tứ, vào
ngày trăng tròn của tháng Kattika, ngài nói với đức vua như vầy: "tâu
chúa của loài người, đã lâu chúng ta không được trông thấy đức Chánh
biến tri, chúng ta đã sống một cuộc đời không có bậc đạo sư. Không
có gì ở đây để chúng ta làm lễ cúng dường", Và khi được hỏi lại
rằng: "nhưng bạch ngài, không ngài đã chưa nói cho trẫm là đức Chánh
biến tri đã nhập Niết bàn rồi đó sao?" trưởng lão trả lời rằng:
"nếu chúng ta được trông thấy Xá-lợi tức là chúng ta thấy được
bậc chiến thắng" "ý định của trẫm là xây dựng một bảo
tháp ngài đã biết rồi, vậy trẫm sẽ xây dựng bảo tháp, còn ngài hãy
kiếm về Xá lợi. Trưởng lão đáp lại với đức vua rằng: "hãy bàn
với Sumana xem sao"; Và đức vua nói với vị sa-di rằng "chúng ta
có thể kiếm ở đâu để có xá lợi?" "tâu chúa của loài người,
khi bệ hạ đã truyền lịnh trang hoàng thành phố và con đường và đã
nguyện thọ trì bát-quan-trai-giới cùng với hội chúng của bệ hạ, vào
buổi chiều khi cỡi trên con voi kiết tường của bệ hạ, bệ hạ hãy
mang theo cái lọng trắng và có những nhạc công sẽ theo hầu, đến khu lâm
viên Mahaanaaga. Ở đó tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ tiếp nhận Xá-lợi của bậc
biết cách đoạn trừ các thành phần của sanh hữu", vị Sa-di đã nói
với đức vua có tâm vui sướng như vậy.
Và bấy giờ trưởng lão đi ra khỏi
hoàng cung đến núi cetiya và gọi Sa-di Sumana đến, "Này Sumana, hãy đi
và khi nào ngươi đã đến Pupphapura xinh đẹp, thời hãy chuyển đến vị
đại vương, là ông ngoại của ngươi, trách nhiệm giao phó này từ chúng
ta: "tâu đại vương, bạn của ngài, là vị vua, người bạn của chư
thiên, vì đã được cải chánh theo giáo pháp của đức Phật rồi, muốn
dựng lên một bảo tháp; xin bệ hạ hãy cho vị ấy Xá lợi của Bậc-đại
Sa-môn và cái bát khất thực mà bậc đạo sư đã từng dùng - vì bệ hạ
có giữ nhiều Xá lợi của đức Phật. "khi ngươi đã nhận lãnh cái
bát chứa đầy xá lợi rồi hãy đi đến thành phố xinh đẹp của chư thiên
và hãy công bố với Sakka. Vua của chư thiên về phận sự được giao phó
từ chúng ta như sau: "Xá lợi, là cái răng nanh bên phải của đức Phật,
xứng đáng để làm vật trang hoàng cho ba cõi, ngươi hãy giữ, hỡi chúa của
chư thiên, Và Xá lợi của cái xương đòn bên phải. Hãy tôn kính cái răng,
còn xương đòn của bậc đạo sư ngài hãy cho đi, đừng lo là với phận
sự của ngài đối với đảo Tích Lan, hỡi chúa của chư thiên"
Và vị Sa-di có năng lực thần thông,
khi đáp lại rằng: "thưa vâng, bạch ngài", liền đi ngay đến vua
Dhammasoka và tìm thấy đức vua ngay khi vị ấy đứng ở dưới cội cây
Saala và đang cúng dường cây bồ đề thiêng xinh đẹp bằng những vật cúng
dường của lễ Kattika.
Khi vị Sa-di đã chuyển trách nhiệm
phó thác của trưởng lão và đã nhận lấy cái bát khất thực đựng đầy
những viên xá lợi từ đức vua, vị Sa-di bèn đi đến Himalaya. Ở trên
núi Himalaya, khi vị Sa-di đã để xuống cái bát thiêng liêng nhất ấy chứa
những viên xá lợi, vị ấy bèn đi đến vua của chư thiên và chuyển lời
nhắn nhủ của trưởng lão. Sakka, vua của chư thiên, lấy ra từ bảo tháp
Cuulaamani-Cetiya cái xương đòn bên phải của đức Phật và trao xương ấy
cho vị Sa-di. Nhân đó vị Sa-môn Sumana đem đi vật ấy cùng với cái bát
chứa những viên Xá lợi và khi trở về lại núi Cetiya vị Sa-di đã trao
cho trưởng lão.
Vào buổi chiều đức vua, dẫn đầu
những đoàn tùy tùng đi đến khu vườn Mahaanaaga, theo cách như đã được
nêu ra. Trưởng lão đặt tất cả những xá lợi xuống đó trên ngọn
núi, và vì lý do ấy khiến ngọn núi Missaka được gọi là núi Cetiya.
Khi trưởng lão đã đặt cái hũ với
những viên Xá lợi ở trên núi Cetiya, ngài đem xá lợi của xương đòn
đi cùng với chúng đệ tử đến chỗ đã định. "Nếu đây là Xá-lợi
của Bậc đại Sa-môn, thời cái lọng của ta sẽ từ đó cúi xuống, con
voi của ta sẽ quì gối, cái hũ Xá lợi này khi đi đến ta sẽ đáp xuống
trên đầu của ta. Ðức vua suy nghĩ, và, khi vua nghĩ như vậy thì điều
ấy xảy ra đúng như thế. Và tựa như được tưới lên bằng nước Cam lồ,
vị hoàng đế tràn ngập hỉ cảm khi đỡ lấy cái hủ từ trên đầu, vua
bèn đặt lên trên lưng của con voi.
Rồi con voi sung sướng rống lên và
Ðại địa rung chuyển. Và con voi quay người và sau khi đi vào thành phố bằng
cổng phía đông, cùng với những vị trưởng lão và những đoàn quân
binh, các loại xe và những con thú cưỡi, và sau khi rời khỏi cổng phía
đông để qua cổng phía nam, con voi đi đến tòa nhà đại tế tự, được
dựng lên ở về phía tây của chỗ mà sau này có bảo tháp thuuparaama và
khi nó đi quanh chỗ của cây bồ đề, nó đứng yên đầu xoay về hướng
đông.
Nhưng vào lúc ấy chỗ của bảo tháp
được phủ đầy những cây Kadamba đang nở hoa và những cây leo Aadaari.
Khi vị chư thiên của nhân loại đã
sai dọn dẹp và trang hoàng chỗ thiêng liêng này, được các vị chư thiên
bảo vệ, theo đúng nghi thức, vị hoàng đế thỉnh xuống Xá lợi từ lưng
voi. Nhưng con voi này vẫn không bằng lòng và đức vua hỏi trưởng lão rằng
con voi muốn gì và trưởng lão giải thích rằng: "nó muốn đặt những
Xá lợi ở chỗ nào cao bằng lưng của nó. Do đó nó không chịu để cho
ai đem xuống xá lợi ấy."
Rồi bằng những cục đất sét khô
mà đức vua đã truyền lịnh đem đến nhanh chóng từ cái hồ nước
Abhaya, vua chất lên thành một cái ụ cao bằng cái lưng của con voi, và khi
vua sai trang hoàng chỗ đất cao này một cách rực rỡ, và sai thỉnh xá lợi
xuống khỏi lưng con voi, vị ấy đặt những xá lợi ở trên gò đất ấy.
Sau khi chỉ định con voi làm công việc
bảo vệ Xá lợi và để lại con voi ở đó, đức vua, người có tâm bận
rộn với vi?c xây dựng bảo tháp thờ Xá-lợi, và đã tức tốc truyền lịnh
cho mọi nhà người làm gạch, bèn trở về kinh đô cùng với các quan để
trù lính. Việc tổ chức một lễ hội long trọng để cúng dường Xá lợi.
Còn trưởng lão Mahinda thì cùng với chúng đệ tử đi đến khu rừng
Mahaamegha xinh đẹp và nghỉ ở đó.
Suốt đêm con voi đi quanh chỗ có
Xá-lợi; suốt ngày nó đứng hầu Xá-lợi trong ngôi nhà, ở chỗ được
chỉ định dành cho cây bồ đề. Khi vị hoàng đế, người tích cực làm
theo ước muốn của trưởng lão, đã xây dựng lên bảo tháp, cao đến đầu
gối, ở trên cái nền gạch ấy, đã sai tổ chức lễ hội tôn trí Xá lợi
tại chỗ ấy vua bèn đi đến đó và khắp nơi từ vùng này đến vùng
khác, từ khắp mọi nơi dân chúng lũ lượt kéo đến đó.
Giữa hội chúng này Xá lợi đã bay
vào không trung từ lưng con voi, và đứng lơ lửng trong không trung một
cách lồ lộ, ở độ cao bảy cây thốt nốt, khiến cho mọi người đầy
ngạc nhiên và sửng sốt, Xá lợi ấy đã phát ra song thông, khiến cho tóc
lông của người xem phải dựng đứng, như sự thị hiện song thông của
đức Phật ở cây Gandamba, bằng những tia sáng và những dòng nước tỏa
ra từ đó đã làm cho toàn đảo Tích Lan sáng rực và nhiều nơi bị ngập
lụt.
Khi bậc chiến thắng đang nằm để
viên tịch, ngài đã chú nguyện năm điều lớn, Ngài, bậc có ngũ nhãn.
"Nhánh phía nam của cây đại thọ
Bồ đề, được giữ gìn bởi Asoka, khi tự nó tách rời ra, sẽ tự cắm
vào trong cái hũ.
Khi nhánh cây được đặt như vậy,
chiếu sáng khắp các miền của thế giới, sẽ phát ra sáu màu khả ái từ
những quả và lá của nó, Rồi, khi bay bổng lên cùng với cái hũ, cây bồ
đề khả ái này sẽ ẩn mình trên vùng núi tuyết trong bảy ngày, cái xương
đòn bên phải của ta, nếu được đặt vào bảo tháp Thuupaaraama, sẽ bay
vào không trung và thị hiện song thông. Nếu những Xá lợi tinh anh của ta
khi ở đầy trong cái hủ, được đặt trong bảo tháp Hemamaalika-cetiya, là
vật trang sức của đảo Tích Lan, những Xá lợi ấy sẽ kết thành hình tướng
của đức Phật, khi bay lên và đứng lơ lửng trong không trung, sẽ đi vào
chỗ tôn thờ, sau khi đã thị hiện song thông".
Như vậy đức Tathaagata đã chú nguyện
năm điều và do đó Xá lợi đã hiện bày phép lạ lúc bấy giờ. Khi đi
xuống từ không trung, Xá lợi đã nằm trên đầu của hoàng đế. Và đầy
hoan hỉ, đức vua đã tôn trí Xá lợi vào bảo tháp. Ngay khi Xá lợi được
tôn trí trong bảo tháp thì sự rung chuyển kỳ diệu của đại địa xảy
ra, gây nên nỗi kinh cảm. Như vậy chư Phật cũng bất khả tư nghì, và quả
báu của những người đặt niềm tin nơi những bậc khả tư nghì cũng không
lường được.
Khi dân chúng trông thấy phép lạ, họ
khởi lên niềm tin vào bậc chiến thắng. Còn hoàng tử Mattaabhaya, là em
trai của đức vua, đã có niềm tin nơi vị chúa của các bậc trí tuệ, đã
xin phép chúa của loài người và thọ phép xuất gia trong chánh pháp cùng với
một ngàn tùy tùng của vị ấy.
Và khắp nơi từ Cetaavigaama,
Dvaarama.n.dala, từ Vihaarabiira, ngay cả từ Gallakapii.tha và từ Upatissagaama,
mỗi một xứ từ các xứ này đều có năm trăm chàng trai đã làm khởi dậy
niềm tin nơi bạc chiến thắng, tất cả họ đều vui sướng thọ phép xuất
gia.
Như vậy tất cả những người này,
xuất thân từ trong thành phố và bên ngoài thành phố, đã thọ phép xuất
gia theo giáo phép của bậc chiến thắng, số lượng lên đến ba chục ngàn
Tỳ khưu.
Khi vị chúa trị vì quả đất đã
làm xong bảo tháp xinh đẹp tại Thuupaaraama, vua truyền lịnh cho mọi người
thường xuyên cúng dường đến tháp thờ Xá lợi bằng những vật thí gồm
nhiều loại châu báu vân vân. Những nữ nhân trong hoàng gia, những nhà
quí tộc, những vị quan, dân thành thị và tất cả những người dân quê
cũng đều đem đến các lễ vật cúng dường.
Và ở đây đức vua dựng lên một tịnh
xá, còn bảo tháp của tịnh xá thì đã được dựng lên trước rồi; Vì
lý do này tịnh xá được gọi tên là Thuupaaraama (tháp viên)
Như vậy bằng những xá lợi này của
ngài bậc đạo sư của thế gian, sau khi đã nhập Niết bàn rồi, quả thật
đã đem lại nhiều an lạc và sự cứu rỗi cho nhân loại. Làm sao có thể
mô tả hết được điều này khi bậc đạo sư vẫn còn sống?"
Ở đây chấm dứt chương thứ mười
bảy, được gọi là "sự đi đến của Xá lợi", trong bộ
Mahaava.msa, được biên soạn vì niềm tín lạc và xúc động của những
thiện nhân.
-ooOoo-